Chương 10
Rời xa Paris có bốn ngày vậy mà trong thời gian ngắn ngủi này giá rét mùa đông đã tới đóng đô xong xuôi. Điều này càng thấy rõ vì hệ thống sưởi ấm trong ngôi nhà phố Raynouard bị trục trặc, nói thẳng ra là nó đang thoi thóp nên các căn phòng mênh mông có cửa kính đồ sộ hướng ra mặt sông Seine, đều lạnh ngăn ngắt.
“Phải chuồn khỏi đây thôi”.
Tôi mất ba bốn ngày mới thuyết phục được Catherine. Nhờ có sự trợ lực bất ngờ của ông bố dượng vợ lần đầu tiên tỏ ra được việc. Nhận chân cùng với bà mẹ Catherine quản lý trang trại bên Arizona - chỉ làm vì thôi nhưng ông tỏ ra rất coi trọng vai trò của mình - ông sẽ khoan khoái tận hưởng những ngày nắng ráo bên ấy, nhất là lại do tôi chi mọi tổn phí. Ông gợi ý: Nên đi đường qua Nassau. Sao lại không? Tôi nghĩ bụng. Bèn mở cuộc hội thảo cuối cùng với họa sĩ Nhật Bản trên đại lộ Henri Martin, cãi nhau sơ sơ: Anh ta đòi đặt trong phòng ăn một chiếc máng (đựng cỏ bằng chất dẻo)... “Hài hước lắm, rất ngộ nghĩnh!”. Anh ta giải thích với giọng nói lơ lớ giống hệt giọng Li và Liu khi bọn này làm trò hề. Tôi khăng khăng: Không đặt máng cỏ. Chẳng ”hài hước” thì dừng!
Ngày 2 tháng 12 chúng tôi rời Paris bay thẳng sang Bahamas. Chúng tôi nghĩa là: Catherine, Marc Andrea, bố mẹ vợ và tôi. Trong khi đại quân hạ trại ở khách sạn Britannia Beach, một mình tôi lẻn đi New York gặp Lupino kiểm điểm công việc bên Florida, gặp Rosen về chuyện cà phê (tôi giao cho anh ta trông coi việc này) và chuyện quần vợt, gặp Vandenberg về chuyện đầu cơ bạc.
Nhân các cuộc kiểm điểm này tôi soát xét lại toàn bộ các dữ kiện một lần nữa, lần thứ hai mươi, đặt mình vào địa vị Martin Yahl tìm cách diệt Franz Cimballi. Không phát hiện được gì, không thấy cạm bẫy ở chỗ nào. Trong tất cả các vụ: Bạc, làm ăn với bọn Tàu và bọn Texas, cà phê... Riêng về khoản cà phê muốn chắc ăn hơn tôi định sẽ bổ sung chuyến đi Châu Phi vừa rồi bằng một chuyến đi Nam Mỹ, sang Brazil và Colombia là hai nước chính sản xuất caphê để kiểm tra một lần nữa lời cam đoan của tất cả các chuyên viên Âu Mỹ đã tham khảo ý kiến. Mẹ kiếp, còn làm gì hơn được nữa?
Còn lúc này tôi tự cho phép mình tiếp tục nghỉ ngơi. Và nảy ra một ý hay hay. Dĩ nhiên tôi không thiếu nhà ở: Có biệt thự ở St. Tropez, ở Beverly Hills, trang trại bên Arizona, căn hộ ở khu Manhattan có lẽ sắp phải bán hoặc cho thuê vì không dùng đến, bây giờ lại thêm ngôi nhà hai tầng ở đại lộ Henri Martin tại Paris nữa. “Anh điên rồi đấy”, Marc bảo tôi thế, “phải đi khám bác sĩ tâm thần xem“ - ”Tôi sẽ mua luôn cả phòng khám của ông ta”. Được, tôi công nhận là có vẻ trẻ con, là thừa, và bác sĩ tâm thần có thể tìm ra trong đó một thói tật cầu kỳ về nhà ở chẳng hạn, nhưng thực tế là thế này: Tôi rất thèm mua hẳn cho tôi một hòn đảo.
Từ New York lại quay về Nassau. Catherine không thích New York. Nó làm cô ngợp, bẩn thỉu, mới chập tối đã không dám đi dạo ngoài phố. Nếu sang Florida ở ít lâu có được không? Ừ thì Florida.
Bố mẹ vợ tôi bay về trang trại Arizona, chúng tôi đi máy bay của Flint về khách sạn Palm Beach. Nhưng không lưu lại đó, đi tham quan cảnh thế giới Disney ở Đông Nam Orlando, chỉ có độc một người đi theo là chị vú người Pháp trông coi ông con tôi. Ngẫu nhiên tôi điện giữ chỗ trước ở Hồ Buena; khối bê tông của khách sạn Contemporain không gợi cảm đối với tôi, Thiên đường người chơi golf cũng không hơn gì vì tôi không chơi golf. Càng không mê làng Polynésien, nơi chỉ có con đường sắt một rat là phương tiện đi lại.
Con tôi mới được sáu tháng, còn hơi bé để biết thưởng thức thế giới Mickey[20]. Tôi có cảm tưởng mình thuộc vào loại những ông bố mua đoàn tàu chạy điện nói là để cho con nhưng thực ra để bố được chơi. Nên cuối cùng chỉ có tôi là vui như khướu cùng với Catherine nhởn nhơ khắp lâu đài Lọ Lem, làng Pinocchio, thế giới của Peter Pan, của Merlin, của lũ mèo quý tộc...
Hassan Fezzali nhằm đúng lúc này để điện cho tôi.
— Anh đang ở đâu vậy, Franz?
— Ông đi vòng qua chú voi Dumbo, kính cẩn chào Nàng Bạch Tuyết là thấy tôi, không thể trật được. Còn ông?
— New York.
Lão ta nói tên một khách sạn lạ hoắc, ở đâu đó về phía phố 30, vẫn thói thường xưa nay của lão ta, chỉ trọ ở những khách sạn vừa phải tuy trong tay có đủ tiền mặt mua ngay một lúc cả mấy đại khách sạn Carlyle, Pierre, Waldorf.
— Anh vừa nói đến voi viếc gì thế?
Đến lượt tôi phải giải thích: Đang ở trong thế giới Disney. Lão ta mỉa: “Rõ hợp với tuổi của anh!”.
— Một hai năm nữa nó mới hợp với tuổi ông. Thế gọi tôi để bàn công việc hay để chửi bới đấy?
— Có việc nhưng không nói qua điện thoại được.
Tôi nghĩ thật nhanh, cân nhắc xem có nên làm một chuyến tàu con thoi Orlando - New York trong ngày, trước bữa ăn tối không. Nhưng Fezzali đã nói tiếp: “Tôi sẽ nhảy sang chỗ anh, còn đủ thì giờ”.
Lão nhảy và ngay chiều hôm đó chúng tôi đã ngồi bên nhau đối diện những núi kem kinh khủng và mái vòm kiểu trường phái vị lai của tòa nhà Thế Giới Ngày Mai, bên tay phải là Tấm Thảm Kỳ Ảo rất hợp với buổi gặp mặt hôm nay. Fezzali mặc kiểu thường dân, nếu có thể nói được như thế. Nghĩa là: Một bộ đồ như mọi người vẫn mặc, nhưng thuộc loại rẻ tiền, hình như quần áo thuê thì phải. Với cái mũi vừa to vừa khoằm, trông lão giống vị tù trưởng Indien già vừa ở trường quay Hollywood bước ra. Lão tợp cốc kem, há mồm đầy phè hỏi:
— Mới đây anh gọi điện cho tôi chắc để được yên tâm về một áp phe đang tiến hành chứ gì?
Khéo vờ vịt. Lão ta nhớ đến từng câu từng chữ ấy chứ! Cáo già thế. Hôm ấy tôi đã gợi cho lão về chuyện đầu cơ bạc. Và nói hết về tên Horst, về sự thách đố của hắn.
— Thế sao, có gì mới?
— Mình thích cái của bọn Ý hơn, của bọn này không khoái bằng. (Tôi đoán lão ta nói về kem thì phải). Không, chẳng có gì mới. Tôi ăn suất kem của anh nhá, nếu anh không dùng.
Tôi biết: Không nên thúc giục. Lão ta ngốn luôn vại kem của tôi cùng một kiểu như lúc ăn phần của mình, rồi thuỗn mặt tiếc rẻ ngắm mặt bàn trống trơn, sau đó ngỏ ý “nhân thể tôi đã đến đây”, muốn tham quan thế giới kỳ ảo của Walt Disney. Thế là tôi đành dẫn lão ta làm lại cuộc hành trình tôi vừa đi hai hôm trước. Nhìn con quỷ Ả Rập du cư cao lớn xương xẩu đã ngoại lục tuần này trà trộn giữa đám trẻ con Mỹ, kể cũng ngộ thật. Nhưng mọi lời trêu chọc của tôi chẳng làm lão mảy may động lòng, vẫn giữ vững vẻ trang nghiêm oai vệ đi xem hết mọi chỗ, từ Con Tàu Bọn Hải Tặc đến chuyến bay của Peter Pan.
— Sẽ may cho ông một bộ đồ kiểu Mickey thật vừa vặn. Khán giả Beirut hoặc Cairo sẽ hoan hô kịch liệt.
Lại một chầu kem nữa. “Của này dù sao cũng không đến nỗi tồi”. Mãi lão ta mới nói:
— Nào, ta bàn công việc, anh bạn trẻ. Tôi đang tìm người hợp tác làm ăn với tôi.
Đôi mắt sắc nhọn của chim săn mồi, dưới cặp lông mày sâu róm nhìn tôi chằm chằm.
— Thế nào anh bạn? Chịu chơi không?
— Món gì?
Lão ta sủa một tiếng ngắn gọn:
— Còn món gì khác? Dầu mỏ!
Ngay hôm đó tôi gọi Lavater ở Paris, sau nhiều ngày không liên lạc. Anh ta không đợi tôi giải thích nhiều:
— Biết rồi, Franz. Hassan đã gọi cho tôi từ hôm kia, trước khi nói chuyện với anh...
Quái nhỉ. Tại sao Marc không báo cho tôi ngay? Mới vừa tự hỏi thế tôi đã tìm ngay được câu trả lời: Marc muốn xem tôi còn tin cẩn anh ta đến mức dám thông báo cho anh biết một áp phe mới đang còn ở giai đoạn phác thảo.
— Marc, lão có cho anh biết ý định của lão không?
— Có.
— Tất cả các chi tiết?
— Tất cả.
— Ý anh thế nào?
Rõ ràng Marc đã chuẩn bị sẵn câu trả lời: “Tôi hỏi ông ta liệu tôi có thể góp vốn vào áp phe đó không. Ông ta bảo: được, nếu anh cũng chịu chơi”.
— Anh định góp bao nhiêu?
— Bốn triệu franc.
Tức gần một triệu đôla, “Marc, cứ coi là một triệu đôla”. Theo tôi biết, đó là gần toàn bộ số vốn của Marc, không kể bất động sản. Và tôi hiểu ngay: Anh đưa hết tài sản riêng vào cuộc để chứng minh lòng thành của anh đối với tôi. Hoặc, cũng có thể đó là một cạm bẫy tinh vi anh ta nhân dịp này hợp lực với Hassan Fezzali để hại tôi. “Thôi đi Cimhalli, mày đa nghi đến loạn trí rồi đấy!” Tôi bảo Marc:
— Anh không cần bỏ chỗ tiền ấy vào.
Trong đôi lúc hiếm hoi bị xúc động, anh ta trở lại giọng lo lớ của người xứ Bourguignon. Như lúc này đây: “Tôi góp vốn vào vụ này vì thấy chắc ăn. Khi các chiến hữu tin cẩn của tôi như Hassan, như Franz cũng nhập cuộc”. Cười khẽ: “Với lại, cũng mong kiếm món lãi to”.
Tôi gọi cho Marc từ một cabin điện thoại trên bờ con hồ nhỏ Buena. Màn đêm vừa phủ kín Florida, mọi ngọn đèn trong thế giới kỳ ảo đều bật sáng. Ngay trước mặt tôi chiếc tàu chạy guồng Nữ Hoàng Lilly phô đủ năm tầng thượng sáng choang với hai ống khói. Áp phe do Hassan Fezzali đến tận đây giới thiệu và Marc Lavater khuyến khích tôi chấp nhận bằng cách chính anh ta cũng hùn vào, là áp phe đầu cơ dầu ở trên thị trường tự do Rotterdam. Mà không phải chuyện mua bán bình thường. Fezzali cam kết sẽ mua được của các nhà sản xuất Iran với giá rất thấp không ai cạnh tranh nổi. Rồi đẩy một phần cho Israel, một phần cho Nam Phi là hai nước gặp nhiều khó khăn như ta đã biết trong việc tự họ trực tiếp giao dịch mua dầu. Một áp phe rất lớn, Fezzali đưa ra con số vốn phải bỏ ra đến ba mươi triệu đôla, rủ tôi bỏ mười, lão ta lo chỗ còn lại.
— Franz, anh có đồng ý để tôi cùng tham gia không?
— Nếu anh thiết tha.
— Rất.
Còi tàu Nữ Hoàng Lilly nổi lên như để báo hiệu tàu rơi bến.
— Đồng ý, Marc. Nào ta lên đường.
Tôi gác máy, đi qua bến lên tàu. Catherine đã cùng Hassan ngồi vào bàn trong một phòng ăn trên tàu, Boong Người Câu Cá, trên tầng hai. Tuy từ mấy tuần nay thần kinh cô vẫn bị căng thẳng nhưng lúc này cô gắng gượng tỏ vẻ vui tươi, hồn nhiên; cô kể: Trong lúc ngồi đợi tôi cô đã tranh luận với Hassan về thân phận người phụ nữ ở những nước Hồi Giáo. Cô hỏi: “Anh thấy thế nào?” Fezzali trân tráo nhìn thẳng mắt tôi; thằng cha nửa Libanon nửa Ả Rập du cư nghiện kem này chắc hẳn biết tôi đang nghĩ gì, biết những băn khoăn của tôi về tâm địa lão, về vụ áp phe lão giới thiệu, về Marc Lavater, về nỗi nghi hoặc không biết họ thực bụng hay phản trắc gì đây, và lão tỏ ra thích chí.
— Anh thấy thế nào? - Catherine có vẻ hơi chếnh choáng lại gặng tôi.
— Anh sẽ theo Đạo Hồi, sẽ được gọi là El Cimballi.
— Rồi tôi sẽ cùng đi La Mecca[21]. - Fezzali nói - Tôi sẽ cho mượn cuốn Kinh Coran riêng của tôi.
Tôi ngắm những chiếc guồng của con tàu ở ngang bên kia cửa kính. Bỗng có cảm tưởng khó giải thích, hoàn toàn trực giác, rằng mình đang dấn thân vào một cái gì đó rất hệ trọng, không biết là tốt hay xấu. Tôi nói: “Chúng ta có ba người trong áp phe này. Tôi chơi, nói đúng hơn là chúng ta cùng chơi. Trả lời dứt khoát cho ông”.
Lão ta gật đầu, mặt lạnh như tiền.
— Đói muốn chết. Phải ăn thêm vại kem, và dăm món tôm ốc ngêu sò.
Hôm sau lão ta ra đi. Đến phút cuối cùng vẫn còn nằng nặc đòi tham quan tiếp thế giới Disney, tôi dành phải trao tặng ngay cho lão chú chuột Mickey bằng nhựa dẻo thổi phồng lên được. Thổi sẵn. Mặt mày vẫn tỉnh bơ, lão ta trèo lên máy bay như trèo lên lưng con lạc đà của mình, ghì chặt Mickey trên ngực. Đúng là đứa con sa mạc không biết sợ lố bịch.
Chúng tôi, nghĩa là Catherine, Marc Andrea, chị vú và tôi trở về khách sạn Palm Beach. Bộ mặt quen thuộc đầu tiên bắt gặp trong đại sảnh là của Joachim vừa tới lúc sáng, thẳng một mạch từ Mombasa bay sang. Anh ta có vẻ hơi hoảng trước tình hình. Chandra đã sắm sửa cho anh đầy dủ từ đầu xuống chân.
— Trông cậu tuyệt đẹp.
Anh ta càu nhàu, cử động ỳ ạch, ngượng nghịu trước mặt Catherine, thấy bực bõ không thoải mái, nguyện vọng duy nhất là mau chóng biến khỏi khách sạn xứ Florida xa lạ này chẳng giống chút nào với anh ta. Tôi nhớ lại cái ổ chuột ở Mombasa, thấy tấm ván thủng, đồ dùng chủ yếu là chiếc hòm sắt to đùng.
— Có mang theo hòm không?
Dĩ nhiên có mang theo. “Để lại bên ấy cho chúng nó lấy cắp à?”, anh ta còn mang theo cả bốn khẩu súng săn đang còn bị hải quan giữ lại.
— Để tôi lo. Họ sẽ trả lại cho anh.
Cả tượng Đức Thánh Bà Fatima anh vẫn quỳ dưới chân cầu nguyện mỗi đêm. Nhân lúc nói đến tôn giáo, anh rút túi ngực lấy ra một vật bọc trong miếng da hươu: Sợi dây chuyền có gắn huy hiệu.
— Cho con anh. Đeo lấy khước.
Huy hiệu bằng vàng. Một mặt khắc hình Đức Mẹ Fatima, mặt sau hình một người lạ.
— Ai đây?
— Eusebio, cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử. Hơn cả Pelé.
Mặt anh ta vẫn nghiêm trang như mặt Giáo Hoàng. Tôi không dám cười, sợ anh giận. Nhưng vẫn thấy kỳ, ghép hình một cầu thủ bóng đá với hình Đức Mẹ Đồng Trinh Bồ Đào Nha!
— Huy hiệu đẹp quá! - Catherine tâm tắc.
Để chứng minh cô choàng ngay dây chuyền vào cổ Marc Andrea. Joachim khoái lắm. Chúng tôi cùng ăn tối, kể chuyện Kenya.
Ngay hôm sau tôi dẫn anh bạn Bồ Đào Nha kèm theo chiếc hòm nặng có đến ba trăm ký là ít - có chúa mới biết anh ta nhét những gì trong đó - đến chỗ gã Ocoee Séminole. Anh này lợi dụng ngay dịp tốt diễn lại màn xiếc với con cá sấu. Nhưng Joachim không sợ, anh ta còn định làm theo là khác. Thành ra hai chàng, đúng như tôi mong ước, rất nhanh chóng hợp nhau tuy nghe hiểu nhau còn thấy khó. “Nhưng tôi rất hài lòng” Joachim tuyên bố. Thấy thích cảnh Florida, thấy hợp với vùng Everglades. Anh nóng lòng muốn bắt tay ngay vào việc kiến lập khu dự trữ săn bắn.
Trong lúc chờ đưa gia đình đi Arizona vui lễ cuối năm, tôi dành trọn thì giờ hướng dẫn Joachim làm nhiệm vụ cố vấn kỹ thuật và đưa Catherine đến thăm vùng Săn Thú. Tôi chỉ vắng mặt ở Florida có một bận độ ba bốn ngày, khoảng giữa tháng mười hai. Trên danh nghĩa là đi New York. Nhưng chỉ ở Manhattan có một chiều và một đêm, vừa đủ thời gian kiểm điểm công việc với các cố vấn và với Adriano Letta. Các équipe chào hàng của anh ta làm ăn rất tốt, quả như vậy. Giải quyết mọi thủ tục trong việc Ute và gã Thổ tham gia xây cất sân Quần Vợt Trên Trời. Nói cách khác tình hình khả quan trên tất cả các mặt trận. Tôi lại nhảy lên máy bay của Flint, hướng: Nassau. Máy bay hạ cánh lúc mười giờ rưỡi sáng.
Lại đi tiếp ngay, bằng thủy phi cơ thuê do Flint lái, hướng Nam - Đông Nam. Quần đảo Antilles kéo một dãy dài những hòn đảo lớn bắt đầu là Cuba, rồi đến His Paniola một phần thuộc Haiti một phần thuộc cộng hòa Dominica, đến Portor Rico, các đảo Vierges, tận cùng bằng chuỗi đảo nhỏ hơn - Antilles thuộc Pháp và thuộc Anh - chạy thẳng hướng chính nam đến sát đít liền Venezuela. Ở phía trước loạt đảo này là một dãy đảo khác kéo dài trên một nghìn kilomètres, bao gồm hàng nghìn đảo, bãi đá ở ngay rìa vùng sâu của Đại Tây Dương. Dài nhất là quần đảo Bahamas, quá xuống phía Nam là quần đảo Cairo và Turks. Hòn đảo tôi định mua nằm gần chí tuyến Bắc, thuộc lãnh thổ Bahamas.
Flint nhìn vào bản đồ: “Không chắc đã tìm ra nó”. Anh ta cười và để biểu thị cơn cao hứng anh bèn trình diễn cho tôi thấy tính cơ động cao của chiếc máy bay: Lúc xà xuống sát mặt biển trong veo nhuốm màu san hô, lúc lướt trên ngọn các cây cọ, cây vang. Cuộc phiêu lưu này làm anh ta vô cùng thích thú, cả tôi cũng vậy. Nó có khía cạnh hòn đảo kho vàng làm tôi khoái trá thực sự. Flint gào to bài “My Bonny is over the Ocean”[22], tôi hòa theo, cố gào cho thật to hơn. Dưới cánh máy bay bên phải là vùng Watling, San Salvador, nơi in dấu bước chân đặt lên đất liền đầu tiên của Christophe Colomb. Bên trái là đảo dài với thị trấn nhỏ Deadman’s Cay, dịch ra thành Đảo Người Chết. Sặc mùi cướp biển, thổ phỉ. Càng bay quá xuống Nam càng nhiều đảo, bãi chi chít và càng hoang vắng.
“Kia rồi”.
Nhờ màu nước biển mà nhận ra nó: Phía Đông mặt biển màu xanh sẫm gần như màu đen (hải đồ ghi rõ độ sâu năm ngàn mét) phía Tây biển màu xanh nhạt gần ngả sang tím ở những quãng biển sâu có vài mét, đáy lộ bãi san hô vẽ nên những hình hoa văn sặc sỡ.
Đảo là chiếc ban công kỳ diệu một mặt hướng ra đại dương bát ngát, mặt kia nhìn vào vịnh Caraibe phẳng lặng dịu hiền.
— Chắc chắn rồi. Đấy là hòn Maria.
Các tấm ảnh của công ty bất động sản Nassau gửi cho tôi xác nhận chúng tôi đã tới đúng chỗ: Chiều dài chín kilomètres, chỗ rộng nhất một ngàn tám trăm mét. Phía bên phải có khoảng đất nhô lên - không đáng gọi là núi, là gò đồi cũng không - mỏm cao nhất chỉ hơn mặt biển khoảng năm chục mét. Có nhiều cây cối hơn tôi hình dung trước: Gụ, thông, bá hương, vang và dĩ nhiên rất nhiều cọ. Không một dấu hiệu có người, như đã biết từ trước và càng khẳng định sau hai lần Flint lướt qua ở cao độ rất thấp. Flint hạ cánh, ngắt điện, để máy bay theo đà trôi nhẹ trên mặt biển. Sự im lặng nổ tung, làm choáng ngợp.
— Có thể vào gần bờ hơn nữa.
— Khỏi.
Tôi mặc áo tắm, bơi vài sải đã vào tới bờ cát trắng xóa. Đã gần hết năm, chỉ vài ngày nữa là lễ Giáng Sinh mà lại có nắng ấm trên vai, giữa hòn đảo hầu như không thay đổi từ trước khi đoàn thuyền buồm của Colomb lướt qua, cảm giác thật kỳ diệu xiết bao! Nhìn kỹ tấm bản đồ gửi kèm các bức ảnh tôi đoán chắc ngôi nhà phải ở quanh quẩn đâu đó mé tay phải, cách đây chừng vài ba trăm mét, dựa vào sườn mô đất đầy cây xanh. Nó ở đây thật, lấp kín dưới lùm cây tươi tốt, bị rừng xâm lấn. Như người ta đã miêu tả cho tôi, quả nhiên có một hàng hiên rất rộng vừa che chắn ngôi nhà vừa là nơi chủ nhân cũ của đảo, một cặp vợ chồng hưu trí người Anh đặt mấy chục chuồng chim. Cả hai người vốn rất yêu chim đã sắp xếp nhà ở sao cho tất cả mỗi loài chim thường và hiếm của vùng Caraibe đều có thể tự do vào xây tổ. Giờ đây, bốn năm sau khi cặp vợ chồng già không còn nữa, đám bè bạn có cánh của họ càng đông đúc trong những chiếc chuồng không cửa. Cứ ngỡ sẽ bị nghe tiếng ồn ào nhức óc nhưng không: Bầu không khí tuy tràn đầy tiếng chim gù nhưng nền âm thanh này sao mà thanh bình, êm ái, mê hồn, kỳ diệu đến thế.
Quả tình tôi thấy khó dứt ra khỏi nơi đây. Tôi đi xuống mé bên kia đảo, phía Đại Tây Dương. Đứng trên con đường mòn cũ ở độ cao mười lăm hai mươi mét là đủ phóng được ra xa đến vô tận và tôi bỗng thấy nghẹt thở: Một cõi hư không ngoài đại dương bát ngát. Nhìn xuống dưới còn thấy rõ bến tàu bên vụng nước sâu chưa thành hình hẳn: Một mẩu của con đê chắn sóng và một lán gỗ chờ đợi tôi đến thăm là đổ sụp sau khi làm tròn bổn phận đến cùng. Cặp vợ chồng người Anh về ẩn dật trên đảo Maria có chiếc du thuyền hạng nặng vẫn đỗ ở bến này.
Tôi vào ngồi cạnh Flint trong chiếc thủy phi cơ. Bảo: “Chịu khó lượn thêm một vòng nữa nhé”. Chắc anh ta đọc được trên mặt tôi niềm xúc động đang trải qua nên anh im lặng chiều ý tôi, lượn một vòng thật chậm quanh đảo, êm ái đến mức gợi thành cảm giác khoái lạc.
Từ đó về đến Nassau không ai nói một câu nào.
Nhân viên hãng bất động sản trao giấy tờ cho tôi. Vì có những luật lệ hạn chế người nước ngoài nên tôi không mua đứt được hòn đảo, tuy vậy cũng ký được hợp đồng thuê hòn Maria trong chín mươi chín năm, với giá bốn trăm ba chục ngàn đôla, do chủ ngân hàng tôi trả ngay tức thì. Ngoài hai người đó và Flint, không ai biết được chuyện này, ngay cả Catherina tôi cũng chưa nói, để dành sự bất ngờ. Khoảng thời gian còn lại của ngày hôm ấy, tôi bàn với người phụ trách xây cất về những việc tu sửa cần thiết, không lớn lắm, ý định của tôi là giữ nguyên hiện trạng, chỉ sửa lặt vặt để tăng thêm tiện nghi thôi.
Bọn thợ ảnh, hai tên hiện ra trên sân bay Nassau, đúng lúc tôi sắp bước lên chiếc Gramman của Flint, chúng chụp lia lịa. Bất giác tôi làm một cử chỉ thô bạo thiếu xuy xét: Giằng lấy máy ảnh của tên đến gần. Sắp quật xuống đất cho nát bét thì tôi dịu ngay lại. Chính đó là mục đích của cuộc săn đuổi rồ dại này: Dồn cho tôi kiệt quệ. Không cho chúng được hưởng niềm vui thấy tôi gục gã dù chỉ trong giây lát. Tôi trả máy cho tên thợ ảnh và bảo hắn: “Sau đây tôi sẽ lần lượt đến các nơi: New York, Palm Beach, Phoenix, Arizona”. Chẳng khác gì nói với chiếc bánh xe máy bay, tôi thấy hắn hình như không thèm để ý nghe, tiếp tục chụp tôi.
Ở thời điểm ấy tôi chưa ý thức được ngay, phải một thời gian sau tôi mới nhận ra rằng mọi sự việc, cuộc gặp gõ, các tình tiết, quyết định và các chuyện bất ngờ đều ăn khớp với nhau tạo thành cái toàn thể. Ngay các nhân vật cũng vậy: Marc Lavater và Hassan Fezzali trong áp phe dầu mỏ, Lupino trong dự án Săn Thú bên Florida, Rosen trong Quần Vợt Trên Trời và cà phê, Philip Vandenberg trong áp phe bạc, cả Horst, cả Yahl gần như liệt giường, sắp chết đến nơi, bị “toán thám tử giỏi nhất thế giới” giám sát chặt. Và Catherine cùng với Marc Andrea ở Arizona.
Tất cả đều ở đúng chỗ.
Kể cả chiếc bẫy. Nó đã giương lên, nhưng có lẽ tôi chưa phát hiện được.
Chú thích:
[20] Chú chuột Mickey: Nhân vật phim hoạt hình nổi tiếng của Walt Disney, được dựng lại để làm cảnh vui chơi cho trẻ con.
[21] La Mecca: Thánh địa của Đạo Hồi, thuộc nước Ả Rập Saudi.