← Quay lại trang sách

Chương 2

Ý đồ mà Paul Hazzard đã trình bày với tôi không nhằm vào các mảnh vườn rau. Anh ta coi Thibodeaux chỉ là một wildcater loại xoàng. Paul muốn hợp tác với tôi để cùng trở thành wildcater cỡ bự. Theo đúng cung cách ông già gảy đàn nhưng với quy mô lớn hơn gấp bội.

Paul Hazzard là gã Texas quê San Antonio tôi quen biết ở Bahamas. Anh ta đã môi giới cho tôi tiếp xúc với cánh ở Dallas để rủ họ bỏ vốn vào dự án Săn Thú. Từ đó anh ta rút ra kết luận nửa kín nửa hở là tôi phải trả nợ anh ta, đại loại bằng cách hợp tác với anh. Chúng tôi không nán lại lâu ở nhà Thibodeaux, phần vì sợ bị trận say dữ dội chịu không thấu, phần vì thần kinh tôi bắt đầu rã rời vì tiếng đàn phập phùng. Rút lui về New Orleans, vào khách sạn Royal Sonesta trên phố Bourbon. Paul lại tán tỉnh: Đã dự liệu hết mọi thứ, tính toán chi li, những khoảnh đất sẽ khảo sát đều ở Oklahoma trong ba quận xung quanh Tulsa, đã được một nhà địa chất khảo sát sơ bộ.

— Tôi đã chuẩn bị sẵn tập hồ sơ này để anh xem. Có tất cả trong đó.

Đúng là chẳng thiếu thứ gì: Bản đồ chi tiết vùng lưu vực sông Arkansas, ảnh chụp các khoảnh đất, số giếng định khoan, năng suất dự kiến, lợi nhuận sau khi thu lại khoản vốn đầu tư ban đầu vào khoảng hai triệu bốn mươi bảy ngàn đôla.

— Chắc anh cũng biết, ta không cần bỏ ra tất cả từng ấy. Chỉ độ năm trăm ngàn thôi, còn sẽ do ngân hàng thương mại của Dallas ứng ra, với điều kiện các giếng khoan đầu tiên có dầu. Mà nhất định sẽ có dầu.

— Anh cam đoan nhất định có, nhưng chắc cũng ước được ông già Thibodeaux đến xem qua một chút.

Anh ta cười: “Có thế thật, ông già lập dị này nổi tiếng không bao giờ lầm lẫn. Các công ty lớn đều biết lão, đã đúc những cây cầu bằng vàng nhưng lão không thèm đặt chân lên. Có ông già, ngân hàng cũng yên tâm hơn”.

Rồi tiếp tục tuôn ra những con số. Giới thiệu với tôi nhiều khoảnh. Chỉ trên một khoảnh dự kiến khoan từ hai chục đến hai sáu giếng, năng suất đã có thể lên tới sáu trăm thùng, ngày. Thu nhập sẽ là mười hai ngàn đôla ngày, nhân lên ba trăm năm chục ngày một năm thành bốn triệu hai trăm ngàn đôla. Trên lý thuyết các giếng sẽ cho dầu trong hai mươi, hai lăm năm.

Tôi lắng nghe Paul nhưng không quyết định nổi, Tuy nửa triệu đôla đôi với tôi chỉ là giọt nước cỏn con. Nhưng khốn nỗi, khi cộng tất cả các khoản đã tung vào các áp phe và các khoản chi tiêu khác, tôi buộc phải thừa nhận không còn chút dự trữ nào nữa: Buôn cà phê, bạc, đầu tư vào Săn Thú, đưa cho Fezzali buôn dầu mỏ trên thị trường tự do, rồi Quần Vợt Trên Trời, tiền mua đảo, tiền chi tiêu hàng ngày vô cùng tốn kém, tiền công của nhóm thám tử Callaway và nhóm bên Anh chuyên việc giám sát Yahl. Tôi đã phải chi cả các khoản franc Thụy Sĩ bòn vét các ngăn kéo. Chạm trán với Horst trong khách sạn Biltmore ở New York từ tám tháng trước, bây giờ đã tháng giêng. Trong tám tháng ấy, để chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công có thể xảy ra tôi đã huy động tối đa lực lượng có trong tay, tiến mạnh trên tất cả các mặt trận. Nhưng chưa thấy đối phương động tĩnh gì, chưa có dấu hiệu gì ngoài sự hiện diện như ma ám của bọn phó nhòm.

— Franz, chỉ bỏ ra có 500.000 thôi, còn 2 triệu sẽ vay ngân hàng.

— Cũng phải bảo lãnh chứ.

— Có, nhưng sau khi các giếng dầu đã cho dầu, ta sẽ bán đi lấy tiền đập thêm vào vốn và sau năm năm sẽ đạt năng suất 2.500 thùng, ngày. Mỗi ngày thu về 40 đến 50 ngàn đôla, tức 14,6 đến 18,2 triệu một năm. Tính ra franc Pháp là khoảng từ 65.700.000 đến 81.900.000 franc, trên 8 tỉ xu. Bỏ công đây chứ!

Bỏ thì bỏ thật nhưng tôi phải cân nhắc. Việc này và các việc khác. Tôi cho Paul Hazzard biết thế, cuối cùng anh ta phải chịu, tỏ vẻ thất vọng và hơi ngạc nhiên thấy tôi không mặn mà. Sáng hôm sau anh ta đi San Antonio. Còn lại một mình tôi ở New Orleans. Tối hôm trước tôi đã gọi về trang trại bên Arizona nhưng cả Catherine và hai ông bà đều đi ăn tối ở nhà bạn. Lúc sau tôi gọi nữa, diễn một màn kịch ngắn với ông bố dượng vợ nhất định không chịu đánh thức “con gái tôi đi ngủ muộn”, cuối cùng vẫn nói chuyện được với vợ tôi. Cô từ chối không chịu đến Orleans với tôi. Orleans chẳng hơn gì New York, ở trại thích hơn, có khi sẽ trở về Pháp cũng nên, còn đang tính. Trên điện thoại cũng thấy rõ cô ấy đang căng thẳng thần kinh. Tôi hai lần khuyên cô nên đi khám bác sĩ xem, cô cứ uống lén những viên thuốc làm tôi lo lắm. Cả hai lần cô đều giận dữ bác đi, lại có cả bố mẹ, nhất là ông bố tích cực ủng hộ. Chẳng biết ông ta mò đến chỗ điện thoại làm trò gì? Tôi cáu sườn gác máy luôn.

Tôi tản bộ trên đường phố New Orleans, một trong mấy thành phố ở Hoa Kỳ mà người đi bộ thấy dễ chịu, ít ra cũng ở khu trung tâm. Tôi bực mình, chịu không nổi nữa. Tám tháng chờ đợi từ bữa tên Horst thách thức đã làm thần kinh tôi mệt mỏi, cộng với những trục trặc trong cuộc sống vợ chồng. Thậm chí tôi còn mong cho trận đòn xảy ra, nếu thực sự có trận đòn ấy, vì có những ngày tôi nghi hoặc: Phải chăng mình đang là nạn nhân một trò bịp lớn? Tuy nhiên, tôi thấy giả thiết này không đứng được mỗi lần nhớ lại cặp mắt của Horst trong khách sạn Biltmore ở New York.

Cú điện thoại của Marc Lavater:

— Anh làm gì ở New Orleans thế?"

— Sao anh biết tôi ở đây?

— Paul Hazzard nói. Ta cần gặp nhau Franz. Hai ngày nữa, à ba ngày, ngày 15 tháng giêng tôi sẽ tới New York.

— Tôi sẽ đến. Có chuyện gì vậy?

— Rục rịch ở Genava. Yahl đã lên đường. Lão đã đến khách sạn Brown ở London từ tối qua. Qua cuộc điều tra kín đáo ở bộ phận tiếp tân được biết lão đang chờ người tới gặp. Theo anh đoán, đó là người nào?

— Mẹ kiếp, tôi hơi sức đâu chơi trò đoán câu đố!

— Tên Horst. Chưa hết đâu Franz. Lão còn chuyển dịch vốn qua trung gian của Hubrecht, cựu phụ tá của lão mà anh ta nghe nói. Riêng một ngày hôm qua đã bảy triệu dôla. Từ Zurich chuyển bốn triệu sang New York, ba triệu sang New Orleans. Anh tới đấy hôm nào?

Rõ ràng không phải là tình cờ mà số tiền trên được chuyển vào ngân hàng phố Carondelet ở Louisiane lúc mười giờ sáng, đúng lúc Paul Hazzard và tôi đang đi tìm ngôi nhà của tổ tiên Thibodeaux giữa làn sương mù dày đặc.

— Còn số tiền chuyển về New York thì nộp vào tài khoản người tên Solon R. Ridgewood, để ở ngân hàng phố FuIton khu Manhattan.

— Solon R. Ridgewood là tên nào?

— Không rõ. Đang điều tra. Franz này, đang có âm mưu gì đấy ta chưa biết nhưng gần lắm rồi.

— Horst hiện nay ở đâu?

— Trên đường đi London, chắc sắp tới nơi.

— Phải bám chặt hắn từ bây giờ trở đi, suốt ngày đêm.

— Làm sao giám sát cả quả đất này được?

— Sao không được?

— Bình tĩnh, Franz.

Thì bình tĩnh! Tôi bèn dặn Marc đến khách sạn Royal Sonesta ở New York chờ tôi tới. Tôi gác máy.

* **

Khách sạn Royal Sonesta nằm ở phố Bourbon ngay giữa trung tâm Vieux Carré. Thoạt nhìn không thể ngờ nó có đến năm trăm phòng, mà lại không đến nỗi ồn ào như ta tưởng tuy nằm giữa vô số vũ trường thoát y, quán nhậu có ban nhạc sống, ban nào cũng vỗ ngực chỉ có mình chơi đúng bài bản Nam Mỹ thứ thiệt, đua nhau gào hết cỡ để lấn át nhau. Giữa lòng khách sạn có chiếc sân trong yên tĩnh lạ lùng. Trước khi nhận cú phôn của Lavater tôi đã ngồi đây ăn trưa. Rồi về phòng gọi đi một loạt nơi, cho Catherine, cho các luật sư của tôi ở New York. Lúc mười một giờ tôi cuốc bộ ra ngoài đường phố. Ở New York có hai chỗ cho dân Mỹ trác táng lui tới: Sòng Las Vegas chỗ tôi đang đi, French Quarter với những đường phố được đặt tên Bourbon, Chartres, Dauphine, Bienville, Ursulines hoặc Toulouse, với ngôi chợ bán rau quả đầu mùa đáng đặt ở Toulouse hoặc Nice bên Pháp, nơi có giáo đường kề ngang bên tiệm cà phê Thế Giới. Riêng tôi thì lại chú ý nhiều hơn đến tình trạng dơ bẩn trên đường phố, nhà cửa xuống cấp, sự thấp kém quá đáng của các trò tiêu khiển. Ở đây, mọi thứ đều nhiễm mùi bùn. Chôn người chết cũng không xong, trong nghĩa trang, các ngôi mộ đều phải đắp cao từ hai trăm năm chục năm nay vì không thể chôn sâu bất cứ vật gì xuống nền đất xốp. Không thể nhìn thấy sông Mississippi, nó bị con đê khổng lồ che khuất; như thế lại hơn vì nước sông màu xám xịt bốc mùi thối. Người nào mơ tưởng sẽ gặp ở đây dòng sông rực nắng vàng chở theo những con tàu guồng sẽ nhanh chóng vỡ mộng, cái cảnh gọi là đẹp mắt mới lạ tinh tế của cảnh New Orleans nào có khác gì cảng Newcastle hoặc Hambourg.

Đúng lúc cô ta băng qua đường phố Bourbon cách tôi chừng ba chục mét thì tôi nhận ngay ra bộ tóc đen nhánh, đôi vai, dáng nghênh, đầu khinh khỉnh. Cô bận quần jean, sơmi sắn tay, hai chiếc máy ảnh lủng lẳng bên tay trái. Rõ ràng cô ta chưa thấy tôi. Tôi đang trên đường đi tới ngân hàng phố Carondelet ngó qua nơi Yahl cách đây hai mươi bốn giờ vừa chuyển đến ba triệu đôla, trùng hợp một cách đáng lo ngại với việc tôi đặt chân đến Louisiane. Lão chuyển tiền sang nhằm mục đích gì, tôi chưa biết. Không do dự tôi bám theo Sharon Maria De Santis.

Không ra vẻ người đi tới nơi hò hẹn, la cà, dán mũi vào cửa kính các tiệm đồ cổ trên đường Royal. Tôi đi theo phía sau cách chừng ba chục mét. Tuy phố này hẹp, khác hẳn các đường phố khác trong thành phố của Mỹ, nhưng không lo bị cô phát hiện vì có rất đông người đi trên hè. Đi một quãng xa, cô ta rẽ phải đi vào con phố nhỏ Pirate Alley bên hông nhà thờ, ra quảng trường Jackson. Lại nhởn nhơ la cà trước các bức họa trưng bày ngoài trời dọc theo hàng rào công viên. Cứ thế hai người theo nhau đi hết một vòng quanh công viên, thỉnh thoảng mấy chú xà ích trên xe ngựa lại vẫy gọi. Cuộc bám đuôi này thật thú vị: Lần này các vai bị đảo ngược.

Cuối cùng cô ta vào ngồi trong quán cà phê Pontalba ở góc đường Chartres và quảng trường. Ngay lúc ấy tôi chợt có ý muốn rất ngu ngốc: Đến ngồi bên cô ta, nhưng rồi lại thấy nên nán lại xem đã. Và thấy ngay ý nghĩ ấy là đúng: Vừa vào tới nơi cô ta liền rỉ tai một ả hầu bàn, sau đó ả này quay lại ra dấu. Đồng hồ của tôi lúc này chỉ đúng mười một giờ ba mươi. Cô gái nói điện thoại rất ngắn, ghi cái gì đó lên cuốn sổ tay nhỏ đặt lên bàn rồi ngồi xuống. Một loáng thôi, cô thò tay vào chiếc túi giống bao đạn đeo ở thắt lưng chắc để lấy tiền trả. Xông tới ngay. Đang đứng rình ở cửa rạp hát, tôi nhảy vài bước băng qua đường đến bên cô ta hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha:

— Quiere dinero? (cần tiền?)

Cô quay người nhìn tôi, không tỏ ra ngạc nhiên bao nhiêu, trong đôi mắt đen láy còn thoáng vẻ thích thú nữa:

— Ai chẳng cần tiền?

Một lần nữa tôi sững sờ thấy cô thật giống Sarah Kyle, cô gái đã chung sống với tôi hơn một năm trời trước khi tôi lấy vợ, sau đó đã tự ý rời xa tôi khi thấy tôi gặp Catherine. Sarah có mái tóc hung hung ngả màu hạt dẻ, đôi mắt biếc, người Ireland; Sharon tóc nâu, mắt đen, chắc chắn là người gốc Ý. Nhưng hai khuôn mặt gần như nhau, đều thóp ở phía dưới, hai nụ cười nửa miệng y như nhau, và cái kiểu nhìn giễu cợt nhưng không chọc tức cũng thế. Cô thợ ảnh này còn nhìn tôi với vẻ gần như thân thiện nữa. Tôi nói:

— Xin có lời quở trách cô: Toàn chụp nghiêng bên phía tôi xấu trai.

Cô ngắm nghía: “Thử quay phía kia xem nào”. Lại nhìn chằm chằm rồi gật gù: “Anh nói đúng. Phía trái khá hơn. Rất lấy làm tiếc”.

Tôi ngồi xuống.

— Không thật đẹp nhưng có khá hơn, - cô nói tiếp. - Cho thêm bia, anh.

Cuốn sổ nhỏ vẫn nằm trên bàn cẩm thạch. Tôi gọi hai vại; trong lúc ngồi đợi, cô nhìn thẳng mắt tôi với vẻ dạn dĩ thản nhiên, hơi ranh mãnh. Tôi hỏi:

— Bữa nay không chụp à?

— Ờ nhỉ, may có anh nhắc.

Cô đứng dậy lấy máy ra khỏi bao da, lùi xa vài bước rồi điềm nhiên bấm vài pô. Trở lại ngồi xuống ghế.

— Chụp nghiêng bên trái theo đúng yêu cầu.

— Cô tên là Sharon Maria De Santis đúng không? Thường gọi là gì, Sharon à?

— Maria.

— Hai lăm tuổi, ly hôn, con gái lên ba.

— Sắp lên bốn.

— Hiện gửi cho ông bà già ở Flushing. Làm cho chủ tên là Yates. Chồng cũ là bác sĩ, đã tái giá, một con, hiện ở vùng gần thác Niagara.

Vừa nói tôi vừa nhìn cuốn sổ tay. Bia được mang tới. Tôi không đụng tới, cô ta vừa nâng cốc lên môi thì tôi vớ quyển sổ lật tìm trang viết cuối cùng “Royal, phòng 265”. Phòng tôi trọ. Cô thản nhiên đặt cốc xuống mỉm cười: “Ừ, đấy!” Thái độ hồn nhiên thư thái của cô làm ai mà chả sững sờ. Cứ như thế những lần chạm trán trước đây ở Amsterdam, San Francisco, Paris đã kết hai chúng tôi thành bạn cố tri. Được, đã thế thì tôi cũng chơi. Tôi ngỏ lời mời cô ăn trưa, cô khẽ nhún vai: “Sao lại từ chối?” Tuy biết tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, theo báo cáo của Callaway, cô không biết tiếng Pháp, và bản kê món ăn to dùng của tiếng Antoine, không phụ đề tiếng Anh làm cô phân vân. Để một lát, tôi hỏi cô có thích món sò huyết nâu kiểu Rockefeller không, cô phớt tỉnh trả lời: “Ghê muốn chết!” Thế cô còn làm gì ở New Orleans này ngoài việc chụp ảnh tôi? Chẳng làm gì khác. Đến lúc này thái độ cô mới thay đổi. Bàn tay cô duỗi ra, ngón tay lướt nhẹ qua tay tôi “Ông Cimballi, em đâu có thích làm chuyện đang phải làm”, Tôi nghĩ bụng: Cô ta không làm thì sẽ có người khác làm, nhưng không hiểu cô thực lòng hay đang đóng kịch đây. “Thà cô làm tôi còn thấy thú vị hơn người nào khác”. Cô ra dấu cảm ơn, cúi đầu xuống rất duyên dáng. Nhìn vào các lọn tóc ngắn phủ trên gáy cô, nhìn chiếc cằm và cặp môi cô, trong ký ức tôi hình ảnh nàng Sarah lại dồn dập tràn về.

— Trông cô thật giống người tôi đã từng quen thân.

Cô chế nhạo:

— Người ấy hẳn là hấp dẫn lắm!

— Nhất là khi vừa cạo nhẵn thín.

Cô bật cười: “Một không!“ Bằng tiếng Pháp, chắc đó là từ duy nhất cô biết. Bữa ăn kết thúc bằng tách cà phê hầm kinh khủng, khi ra ngoài đường cô đột nhiên bảo tôi: ”lúc anh sắp tới đây, họ phôn cho tôi báo anh trọ ở Royal Sonesta.

— Ai phôn?

— Văn phòng Yates, như mọi bận.

— Họ bảo có phải đến New Orleans lúc nào?

— Tối qua, ở New York. Sáng nay tôi lên máy bay.

Thế nghĩa là tối qua Yates còn chưa biết tôi vào khách sạn nào nhưng hắn đã biết tôi đang ở Louisiane. Không phải do Paul Hazzard, anh ta đã trực tiếp báo giữ chỗ ở khách sạn Royal Sonesta. Nghĩa là chúng theo dõi tôi từ lúc tôi rời khỏi Texas, có khi từ lúc tôi rời trang trại Arizona không chừng. Lo lắng và bực dọc.

— Họ trả công bao nhiêu?

— Mỗi tuần bốn trăm năm chục đôla, cộng phụ phí.

Cô ta hiểu ngay tôi định đi đến đâu. Cô lắc đầu sau một lúc do dự:

— Đừng, xin đừng mặc cả. Tôi không nhận lời đâu.

— Mỗi tuần hai ngàn.

Chúng tôi đang đi trở lại Royal Sonesta.

— Không được. Tôi sẽ không làm lâu dài với Yates. Đang sắp có việc làm bên Brazil.

— Tôi cũng có thể kiếm việc làm cho cô. Sau này.

Cô sóng bước bên tôi, hình như định nhận lời. Mãi mới thốt lên: “Không. Dù sao, xin cảm ơn”.

Đến cửa khách sạn cô tách ra chụp vài pô, trên mặt còn đọng vẻ phân vân trước đề nghị của tôi. Để đối lại, mà có lẽ chỉ để pha trò thôi, tôi bèn làm những điệu bộ ngông nghênh nhất. Cô nàng tủm tỉm cười, gật đầu: “Anh thật dễ thương”. Tôi chưa kịp quay đi cô đã xấn đến hôn lên môi tôi. “Cảm ơn đã mời ăn”. Rồi bỏ đi, chỉ quay lại nhìn một lần giơ tay vẫn nhẹ. Cô gái kỳ lạ. Nên nghĩ về cô thế nào đây?

Lúc tôi đi vắng Lavater đã gọi điện đến khách sạn, để lại lời nhắn trong đó các tên người đều viết tắt: Horst đã từ New Orleans tới London gặp Yahl, lúc này bên ấy đang chín giờ tối. Hắn tới New Orleans gần như cùng một lúc với tôi. Tôi vẫn đang có mặt ở đây, nơi Martin Yahl đã chuyển đến ba triệu trong số bảy triệu đôla của lão.

Thật khó hiểu.

Ngay tối đó tôi tới New York.

Đợt nghỉ cuối năm trong trang trại, cuộc thăm viếng Thibodeaux cùng với Paul Hazzard vừa qua giống như một đoạn ghi thêm trong ngoặc đơn. Bây giờ đã đến lúc và đã cấp thiết phải kiểm thật cặn kẽ từng khoản đầu tư của tôi. Quần Vợt Trên Trời, Săn Thú, Bạc, Dầu Mỏ, Cà Phê, với những người được tôi giao phó việc điều hành các công việc này.

Trước hết, Rosen.