Chương 5
Theo chỉ dẫn của gã Thổ tới Rio. Tôi tiếp xúc với bạn hàng tốt nhất với bên ấy, một gã Brazil nhỏ con, lịch sự, hơi kín đáo nhưng rất nhanh nhẹn, mỗi lúc cất tiếng là múa tít hai bàn tay bé tí, đúng là một con điên thực thụ (Gã Thổ đã báo trước cho tôi chi tiết này). Tên anh ta là Joachim Gigio, thường gọi là Gigi. Để bắt chuyện tôi bảo:
— Tôi có quen một anh cũng tên là Joachim hồi ở bên Kenya.
— Đẹp trai chứ?
Tay anh ta gẩy gẩy chiếc cổ áo sơmi hồng mở rất rộng viền đăng ten.
— Không thể tưởng tượng được. Đẹp như thiên thần.
Mỗi lần nhớ đến Joachim thứ thiệt trước đây ở Kenya nay đã sang Florida, một gã nặng tạ hai lúc lòng không dạ đói có vẻ mặt của tên sát nhân, là mỗi lần tôi phì cười. Gigi dẩu môi rất điệu: “Anh nói làm tôi thèm sang Kenya quá đi!”. Gã Thổ đã rụt rè tả cho tôi nghe về Gigi bằng một câu ngắn ngủi. Hắn thuộc giới kinh doanh tài chính. Hiểu ngầm: Một tên dắt mối vay tiền bạc rất lẹ, chỉ sau một ngày thậm chí một giờ đã kiếm được cho anh năm sáu triệu đồng đôla nếu hắn biết chắc chắn anh sẽ trả được nợ. Có thể nói hắn ta là gã Thổ miền nhiệt đới.
Hắn có một tòa nhà đồ sộ ngay trên vũng Rodrigo Freitas, hai tầng sáu trăm mét vuông, có bể bơi trên sân thượng. Đồ đạc trong nhà hết sức xa hoa chứng tỏ chủ nhân biết chơi và có điều kiện thỏa mãn thú chơi. Hắn bảo tôi: “Gã Thổ đã nói với tôi khá kĩ về anh. Nói anh đang quan tâm đến cà phê?”
Gã Thổ đã dặn tôi: “Franzy... Này dừng gọi mình là Franzy”. Franz anh có thể hỏi Gigi bất cứ cái gì, tin tức, tiền nong, vũ khí, đàn ông và đàn bà. Hắn quen tuốt, quen tất cả bọn nhà binh to đầu ở Nam Mỹ. Đừng xét đoán sai về hắn, nhất là vẻ ngoài, hắn lớn tuổi hơn tuy trông còn trẻ, và làm ăn rất giỏi”.
Gigi hỏi tôi có thấy trời nóng quá không? Có muốn tắm không? Không cần áo tắm? Tôi đáp có muốn tắm, nhưng có áo tắm thì hơn. Một lát sau hai người bì bõm trong bể bơi và tôi chợt nhận thấy đáy bể bằng thủy tinh trong suốt thành ra người ở dưới hiện tầng triệt có thể nhìn rõ chúng tôi trong bể. Lúc ấy có ba bốn chú choai choai trần trụi như bàn tay nằm tắm nắng đang ngước mặt nhìn lên. Khung cảnh thật ngộ.
Sau khi nghe tôi trình bày, Gigi nói: “Được. Tôi đã hiểu anh cần cái gì. Trước hết ta hãy nói về cái anh gọi là OPEP cà phê, thực ra là nhóm Bogota đang tồn tại và đang hoạt động. Chắc anh biết họ đã bỏ ra năm ngoái số tiền sáu trăm triệu đôla để giữ giá, hơn nữa, để đẩy giá lên. Theo tôi biết sự móc ngoặc giữa Brazil và Bolivia sẽ tiếp nối sang năm nay.”
— Điều ấy cần được kiểm tra.
— Tất nhiên tôi sẽ kiểm tra. Tôi rất mê tên của anh Franz.
Kiểm tra đi, và cho tôi biết kết quả. Thường xuyên báo tôi biết điều gì có thể xảy ra. Đồng ý, anh có thể gọi tôi là Franz.
— Bây giờ đến các khoản vặt vãnh...
Hắn nằm ngửa trên mặt nước hất đầu thẳng ra phía sau. “Nhìn thử coi?” Tôi cũng làm như hắn nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài bầu trời Rio xanh biếc.
— Anh không thấy được nhưng các vệ tinh thời thiết vẫn bay, vẫn cung cấp thông tin cho các cơ quan chuyên trách đều đều hằng ngày. Với trình độ hiện nay chúng chưa dự báo được sẽ có băng giá hay không có băng giá trong mấy tháng tới. Nhưng vai trò của chúng ngày càng quan trọng khi sắp tới vụ thu hoạch, từ đầu tháng sáu đến cuối tháng tám.
— Có giả mạo được không?
— Giả mạo các số liệu do vệ tinh cung cấp à? - Hắn trố mắt nhìn tôi - nghĩa là sẽ có người chịu chi thật bộn tiền để lật ngược các số liệu vệ tinh, đáng lẽ có băng giá lại thành thời tiết tốt? Hoặc ngược lại. Phải không?
— Được hay không được?
Hắn tủm tỉm: “Bạn Franz thân mến, ý của bạn thật kỳ cục. Chỉ có thể trả lời thế này: Kể tên tất cả những người cần mua chuyện giả mạo này rồi bàn với họ xem sao”.
Đây cũng là chiến thuật tôi đã áp dụng ở Uganda và ở Bờ Biển Ngà.
— Anh làm đi.
— Bạn Franz thân mến, tôi cần có tiền lẻ.
— Anh sẽ có.
Và hễ hắn nghe loáng thoáng được điều gì có liên quan dù rất xa đến cà phê thì dù ban ngày hay ban đêm hắn phải lập tức báo cáo ngay theo thứ tự: Tôi, Lavater, Rosen. Tôi trao cho hắn bản ghi các số điện thoại, địa chỉ. Hắn mời tôi ở lại ăn tối.
— Bạn Franz rất quý mến, tôi sẽ tổ chức cho bạn một đêm tuyệt vời.
Theo đà này, chắc hắn sẽ gọi tôi là Franz thương yêu mất. Tôi vội rút lui. Vả lại tôi còn những hai chuyến bay nữa.
Lúc này tôi đang bay chuyến thứ hai trên chiếc máy bay du lịch xinh xắn đưa tôi từ La Paz, đến Cochabamba, một thành phố khác của Bolivia. Dưới cánh máy bay trải dài sườn Đông dãy Andes hoang dại khó tưởng tượng nổi, với những mỏm nâu có đỉnh sắc nhọn, chắn ánh nắng chiều vạch một vệt đen rất đậm kéo suốt triền núi. Tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp với viên phi công đồng thời là chủ nhân chiếc máy bay. Anh ta người gốc Pháp. Thật tình cờ, anh là người anh em họ xa với Françoise Lavater, vợ của Marc, sự tình cờ làm tôi thiếu chút nữa thì sinh nghi. Trong lúc bay dọc theo triền dãy Andes, anh ta kể chuyện về xứ Bourbon, về Chagny nơi anh đã ở hồi năm năm trước. Sang Bolivia anh trở thành đại địa chủ và làm chơi bời nghề xuất nhập khẩu. Kể chuyện bà nội người Pháp lấy chồng người Bolivia giầu sụ, chuyện vớ vẩn tôi cóc cần biết. Và tỏ ý tiếc chuyến bay ngắn ngủi.
— Anh không thể nán lại lâu hơn sao?
Chắc là không. Nhiều việc lắm. Chúng tôi hạ cánh xuống Cochabamba tuy ở tít dưới chân thung lũng rất sâu nhưng vẫn cao hơn mặt biển hai ngàn sáu trăm mét. Theo yêu cầu của tôi anh ta chỉ cho xem những cây cà phê thứ thiệt, trồng dưới đất hẳn hoi, trông chẳng lấy gì làm ghê gớm. Tổ chức một bữa tiếp tân để tôi tiếp xúc với một vị tai to mặt lớn trong ngành trồng cà phê hai quan chức cỡ bự của các bộ Nông Nghiệp và Thương Mại, một chuyên viên của thị trường cà phê Bolivia và một tay dân sự xem ra phải là một đại tá. Một buổi tối tẻ nhạt muốn chết khiến tôi thầm rủa Marc Lavater sao lại đưa tôi vào cuộc điều tra buồn ngủ này. Họ nói chuyện về các ông tướng mà họ tôn thờ, về những người Indiens “đáng tống khứ khỏi đất nước Bolivia”, về Salicla Al Mar, vụ định mở đường thông ra Thái Bình Dương nhưng bị nước Chile của ông tướng tốt bụng Pinochet bạn thân của họ tranh chấp. Hỏi tôi ở bên Pháp tôi có biết “nhà cách mạng” Régis Debray[23] không. Không, tôi không biết, tôi chỉ quan tâm đến cà phê thôi. Họ ngạc nhiên: Cà phê à? Tại sao tôi lại phải lo lắng về chuyện cà phê? Tốt đẹp lắm mà, các thỏa thuận giữa chúng tôi với người Brazil có hiệu quả lắm và sẽ tiếp tục như vậy. Đang có âm mưu phá giá à? Họ cau mặt: Senor ơi, Bolivia là xứ sở của trật tự. Chuyện tới đây thì đoàn nhạc công kéo đến, toàn người Indiens: Đàn bà bận váy rộng màu đỏ, da cam, màu xanh, đội mũ rơm chỏm cao, đàn ông khoác portant đội mũ kiểu vùng Andin, gọi là chullo có tai. Họ nhảy múa với bộ mặt màu da đồng vô cảm như mặt ma, không một chút vui tươi nào, trong lúc bọn kia nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi giả bộ không nghe hiểu, nên họ tận dụng lợi thế bàn tính hết với nhau. Và tôi thấy lợm giọng. Nhớ lại một cảnh trong vở Kaputt của Malaparte[24].
Sáng hôm sau nhân có chuyến bay thẳng Cochabamba - Rio, tôi lại lên đường. Máy bay của hãng Lloyd Bolivia, đáng nghi ngại chẳng khác gì mấy ông bạn cùng dự tiệc tối qua. Mà lại còn phải cảm ơn nữa.
Bình thường máy bay vẫn hạ cánh xuống sân bay quốc tế Galeao. Nhưng vì có trục trặc kỹ thuật, viên chỉ huy bay thông báo sẽ đổ xuống sân bay Santos Dumont ở FIamenco. Chỗ này về khách sạn càng gần hơn nên tôi không thấy có gì trở ngại.
Điều đáng ngạc nhiên là tuy có sự thay đổi này, nhưng khi tôi vừa lọt qua các trạm kiểm soát là thấy ngay tên thợ chụp ảnh thứ nhất của Yates tiến đến. Nói tên thứ nhất vì thường vẫn có hai. Bất giác tôi đưa mắt tìm tên thứ hai. Tên này thuộc giống cái: Cô Maria De Santis. Tôi đi qua trước mặt cố nhìn vào mắt cô ta nhưng cô thản nhiên bấm máy như mọi bận. Cô nhìn tôi có một thoáng mắt, cặp lông mày hơi động đậy ra ý bảo: “Đừng nói.” Tôi bỏ đi.
Tôi vào Meridien ở Copacabana. Lại tập bài thể dục thường lệ với các múi giờ: Rio và Paris chênh nhau bốn tiếng. Vậy bên ấy bây giờ là mười sáu giờ mười lăm phút. Phải sau nửa giờ mới nghe tiếng Marc Lavater trong máy:
— Anh và trực giác của anh thật vô tích sự!
Tôi gọi anh ta chủ yếu để thở ra cơn oán hận trong lòng:“Mac này, bọn khốn kiếp ở Bolivia là đồ rác rưởi mạt hạng nhất tôi đụng phải từ trước đến giờ!” Nhưng anh ta vẫn điềm tĩnh như thường, lại còn tỏ vẻ tin rằng chuyến đi của tôi có kết quả; anh một mực đòi biết tỉ mỉ về cuộc thương thảo.
— Gã gặp ở Rio thế nào?
Anh ta không biết tên gã là Gigio. Vì tôi chỉ nói qua loa rằng gã Thổ có giới thiệu cho một gã.
— Tên hắn là Gigio. Joachim Gigio. Hắn sẽ điện cho anh, hoặc tôi nếu có chuyện khác thường xảy ra.
— Tốt.
Một thoáng yên lặng. Sau đó Marc báo tin anh sắp rời Paris đi Roma và Naples, ở đây anh sẽ gặp Hassan để hoàn tất việc dựng lên công ty tay ba của chúng tôi. Tuy mọi vấn đề đều đã giải quyết xong, ngân hàng Curacao đã ra đời, ngân hàng Liechtenstein cũng vậy, các khoản vốn đã góp đủ. Chỉ còn khởi động cho bộ máy chạy thôi. Nên anh phải sang đó. Chính lúc tôi gọi cho anh là lúc anh sửa soạn ra sân bay Orly. Tôi hỏi:
— Chừng nào anh về?
— Ngày kia. Sáng 23. Chắc lúc ấy anh đã trở lại New York?
— Hẳn thế. Nhờ anh tặng một li kem của tôi cho Hassan.
Thực ra, đứa Con Sa mạc đã có đủ tiền ăn kem vì tôi vừa chuyển vào tài khoản công ty của chúng tôi số tiền mười triệu đôla. Nhưng gã chỉ được đụng vào đó nếu được Marc và tôi cùng thỏa thuận. Sự thận trọng khôn ngoan.
Sau Lavater tôi gọi Philip Vandenberg ở New York, lúc này ở bên ấy chưa đến mười giờ. Anh ta đã có mặt tại văn phòng rồi. “Cần tôi à? Sau đó bốn mươi tiếng nữa tôi sẽ tới New York?”.
— Được, tôi sẽ đợi.
Cả Rosen và Lupino đều trả lời tôi như thế.
Đến lượt Gigio. Anh ta kêu: “Làm gì đã có kết quả!” Mới gặp nhau cách đây có hai mươi bốn tiếng!
Sau những cú phôn dồn dập, tôi vừa định gác máy thì được báo có người gọi cho tôi;
— Em cần gặp anh, - cô nói. - Gặp riêng.
— Ngay bây giờ?
— Ở phường Leblon, số 1235 đại lộ Ataulfo de Paiva, tiệm Baco. Sau nửa giờ nữa em đến đấy.
Cô vẫn bận chiếc quần vải với chiếc blouson da như khi tôi gặp ở sân bay Copacabana. Đang ngồi uống bia.
— Bolivia chắc là đẹp?
— Không đẹp nếu mình là dân Bolivia thực thụ.
Cô liếc nhìn xung quanh với vẻ lo ngại thoáng qua, khó thấy:
— Này anh, em không muốn họ thấy chúng mình gặp nhau. Nhưng lại có việc cần nói. Anh có mang theo xe không?
Lát sau, hai xe của hai chúng tôi nối nhau lăn bánh, cô ta tự tay lái chiếc xe của mình. Chúng tôi đi theo hướng Đông xuyên qua thành phố, tôi đã tưởng cô đưa tôi trở lại sân bay Galeao nhưng không phải, cô rẽ lên cầu Niteroi. Qua cầu đã đến bãi biển, sau lưng là vũng Itaipu tuyệt đẹp.
Xe cô đỗ lại trước ngôi biệt thự xinh xắn, khiêm nhường, đứng cô đơn một mình với hàng hiên là bãi cát. Quang cảnh thật đẹp. Tôi sững sờ trước cảnh tĩnh mịch bao phủ quanh đây, đi tới bên thiếu phụ.
— Làm gì bây giờ?
Cô tủm tỉm cười ranh mãnh:
— Thú nhận đi, anh tưởng bị dắt vào bẫy phải không?
— Sợ thật đấy. Bây giờ vẫn còn run. Ai ở ngôi nhà này vậy?
— Em. Em đã từng ở Brazil mà. Tắm không anh?
Cô cởi chiếc blouson da mỏng tang, lúc ấy tôi mới biết bên dưới không còn xống áo gì khác. Đôi vú nhỏ nhắn nhưng chắc, rám nắng rán đều. Đến lượt chiếc quần tuột xuống. “Quay mặt đi một lát nào”. Tôi tuân lời, khi quay lại đã thấy cô thay slip bằng mảnh áo tắm kiểu Brazil gọi là tanga để hở suốt hai bên hông và thực ra cũng chẳng che đậy gì nhiều. “Em xuống tắm đây. Anh tắm hay không tùy thích. Sau đó sẽ nói chuyện”. Chưa dứt lời cô đã xuống đương đầu với con sóng lớn của Đại Tây Dương và các đợt sóng cồn mà bãi tắm nào ở Rio này đều không tránh khỏi, nó không thuận lợi cho việc trổ tài “bơi trườn”. Không mang theo áo tắm, tôi mặc quần lót lao xuống biển. Nước không nóng lắm tuy đang giữa mùa hè, khác với nước biển Caraibe.
Chúng tôi cùng lên bờ. Sóng bước trên bãi cát. Không một bóng người trong phạm vi mấy cây số xung quanh.
— Em chỉ được báo là anh đã đi Bolivia. Tay đồng nghiệp và em chực sẵn ở sân bay Galeao nhưng đến phút cuối cùng mới được tin anh xuống sân bay Santos.
— Ai báo?
— Một gã làm cho Yates, cũng như bọn em. Gã không xưng tên nhưng nghe trong điện thoại em nhận ra gã là người Brazil, phóng viên, tên Cabrai. Cánh làm cho Yates có nhiều người là phóng viên.
— Họ có nói anh sang Bolivia làm gì không?
— Không, không bao giờ họ đả động đến điều này. Công việc bọn em là chụp ảnh anh ở các nơi công cộng, thế thôi.
— Thế em biết anh sang Brazil lúc nào? Và em sang đây lúc nào?
Cô vắt nước biển trên tóc. Nước chảy từng giọt xuống núm vú. Trời vẫn rất nóng hơn 30 độ C, tuy ngày đang tàn.
— Sáng bữa kia, 19. Evans cùng đi với em, rời New York bằng chuyến bay mười một giờ năm mươi.
Sau tôi gần bốn tiếng.
— Thế có biết anh đã làm những gì ở Rio không?
— Không. Anh vừa đến thì họ báo bọn em là anh đã giữ chỗ ở khách sạn Meridien phố Leme. Chúng em tới đấy thì biết anh chỉ rẽ qua để gửi hành lý. Evans gọi điện cho ai đó không biết. Chúng em nháo nhào đến sân bay thì anh đã vù đi La Paz. Quay đi chỗ khác một tí nhé. Nhưng thôi, anh thích nhìn thì cho nhìn.
Một lát, tôi không nhúc nhích, tim giật thót một cú. Bốn mắt dán chặt vào nhau.
— Xong, có mấy hạt cát trong áo tắm. Sóng cồn thật phiền.
— Tại em có sáng kiến mặc áo tắm vừa to vừa thùng thình thế kia.
— Vì tính em cả thẹn lắm ông tướng ạ.
— Ban nãy em bảo có chuyện cần nói.
Lúc này sao tôi thấy nói chuyện làm ăn khó thế! Cô điềm nhiên bảo: “Tay Yates cứ đòi ăn nằm với em. Ý định ấy lồng lộn trong lòng hắn từ bao giở bao giờ rồi ấy. Hắn gan lỳ lắm cơ. Mò đến New York để xin nộp đơn.”
— Chuyện tình cảm của em hấp dẫn không thể tưởng tượng được.
— Gã đến mời em đi ăn tối. Cuối cùng lại hóa ra có những ba người. Người thứ ba cao lớn, tóc vàng, môi đỏ, bốn mươi tuổi, mắt màu sáng. Tên là Horst. Erwin Horst. Quen không?
— Quen.
— Hắn cũng biết anh đấy. Gọi anh là nghệ sĩ nhảy múa. Dù hắn và Yates không nói tên, em cũng hiểu được đó chính là anh.
Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện. Tôi đừng lại, ngồi xuống, thọc hai tay xuống cát ấm. Maria De Santis đi thêm một hai bước nữa mới biết tôi đã dừng lại bèn quay gót đi trở lại phía tôi. Cô hỏi: “Anh có người bạn là dân Ả Rập à?”
Tôi ngửng đầu ngước nhìn thẳng vào đôi mắt đen láy. Cô tiếp:
— Họ có nói đến một gã Ả Rập và bảo mọi thứ đã thanh toán xong với hắn ta.
— Có nói tên không?
Lắc đầu: “Chỉ nói: Gã Ả Rập”
— Họ còn nói những gì? Em cố nhớ thật đúng từng câu từng chữ coi.
— Yates hỏi: “Tên Ả Rập thì sao?” Horst trả lời: “Thanh toán rồi”. Chỉ có thế.
Tôi quay nhìn ngôi biệt thự xinh xắn phía sau cách chưa đến hai trăm mét:
— Ở nhà có điện thoại không?
— Có đòi gì thêm nữa không?
Tôi cố lục trí nhớ, gắng sức một cách tuyệt vọng, cố nghĩ ra điều Marc Lavater vừa nói qua điện thoại cách đây vài ba tiếng, lúc tôi liên lạc với anh vào lúc anh sắp sửa rời Paris đi Roma. Từ Roma anh sẽ đi Naples gặp Hassan Fezzali. Nhìn đồng hồ tôi nhẩm tính: Lúc này nhất định Marc đã tới Roma, không chừng đang trên đường tới Naples. Bằng máy bay hay đường bộ? Tôi đứng phắt dậy.
— Về nhà đi em. Anh cần gọi điện ngay.
Bây giờ nhớ lại lúc ấy tôi không cảm thấy thực sự lo lắng, mà chỉ thấy tức giận và gần như thấy yên tâm nữa: Đòn đầu tiên đánh vào Quần Vợt chỉ là đòn nghi binh chúng mới nghĩ ra; đòn thứ hai này đánh vào dầu mỏ vừa được Maria De Santis gợi cho tôi đoán biết mới là đòn đã được chuẩn bị từ lâu, đúng với điều tôi đã chờ đợi lâu nay. Fezzali có đồng lõa trong vụ này không? Điều chắc chắn: Phải báo động ngay cho Marc. Tôi nhắc lại:
— Nhất thiết anh phải gọi điện ngay.
— Không chậm lại một tí xíu được à?
Cô nói với giọng bình tĩnh dịu dàng, và đây là lần đầu tiên từ khi biết cô tôi thấy trong đôi mắt đen kia không còn ánh giễu cợt mọi bận. Cô đến bên tôi, cởi bỏ mảnh tanga. Trong cuộc đời có những lúc ta thấy rõ mình quả đúng là một thằng thộn. Lúc ấy là một lúc như vậy. Tôi buồn bã tin chắc lúc này dù mình làm gì nói gì đi nữa cũng chỉ khiến tình thế càng nghiêm trọng hơn và càng làm nổi bật thêm sự ngốc nghếch của mình, nên tôi chỉ vuốt má cô ấy, ôm hôn rồi co cẳng chuồn.
Thành phố gần đây nhất là Niteroi. Vào giờ này dĩ nhiên bưu điện đã đóng cửa, các văn phòng của công ty Embratel cũng thế (tôi định gửi điện tín cho văn phòng Lavater ở Paris, xong mới chợt nhớ ra là do chênh lệch múi giờ nên lúc này ở Paris đã gần nửa đêm nên sẽ chẳng có ai nhận điện). Thì gọi tổng đài của khách sạn chính Samangua nhưng vì mới có một chuyến bay riêng của du khách vừa tới nên ở đấy hết sức nhộn nhạo. Không hy vọng có thể dàn xếp được với các vị Brazil có nết nhởn nhơ rất dễ thương này. Không hiểu Marc Lavater đã vào hoặc sẽ đến khách sạn nào ở Naples. Tốt hơn hết là tôi trở về Rio tìm trong các cuốn niên giám.
Về đến Meridien đã gần chín giờ. Đầu óc rất căng thẳng. Tôi tung thật nhiều tiền trà nước cố nhờ gọi về biệt thự Chagny: Không ai trả lời, ngay bà phục vụ người bourguigno - Ba Lan cũng không có nhà; gọi về văn phòng, về nhà riêng Lavater ở Paris phố Lille, không ai đáp; gọi cho bạn bè ở Paris, không, họ không biết Marc hiện ở đâu, Françoise cũng không, họ sẽ tìm hiểu và nếu có kết quả sẽ gọi cho tôi sau; tôi gọi phụ tá của Marc là Cannat, anh ta không có nhà, hình như ở Cung Thể Thao Mùa Đông nhưng không biết đích xác, có lẽ ở Alpe D'Huez; xin được hai số máy của Fezzali ở Cairo: Không có trả lời; gọi cho Riyad, không có trả lời; gọi số máy ở Kuwait, không có trả lời ngoài một gã nào đó xì xồ bằng tiếng Ả Rập chịu không hiểu nổi; tôi chỉ nghe tiếng đổ chuông trong phòng vắng người khi gọi hai số máy của Adriano Letta ở Roma.
Cùng lúc với tôi, một người giúp việc giám đốc khách sạn đã vui lòng giúp một tay, quay số gọi các khách sạn. ở Naples với hy vọng tìm dược một nơi Lavater hoặc Fezzali đã giữ chỗ. "Không có ở Excelsior, cả ở Vesuvio, San Germano, Parkers, Royal, cả Majestic đều không. Hay là các vị ấy đến những khách sạn rẻ tiền hơn, tôi làm sao lường hết được thói keo kiệt của Fezzali!
— Thử gọi các khách sạn ở ngoại vi xem.
— Họ đều không có telex.
Mất bao nhiêu thì giờ tìm kiếm, đến tận lúc ở Rio mười một giờ đêm, tức ba giờ sáng bên Châu Âu. Tôi còn nhớ đến lúc ấy tôi bắt đầu chuyển từ nóng ruột sang lo lắng, một nỗi lo âm ỉ bắt nguồn từ trực giác báo cho biết đã xẩy ra chuyện không hay. Cuối cùng tôi quyết định gọi sang London cho Ute Jenssen.
— Anh rất biết lúc này là mấy giờ, Ute ạ. Nhưng nếu không có việc nghiêm chỉnh thì anh đã chẳng quấy rầy em giữa đêm hôm thế này.
Tôi nói rõ điều muốn nhờ cô ta giúp. Cô quát lên: “Thế mà kêu là việc nghiêm chỉnh! Naples có hàng ngàn khách sạn ở cả nội và ngoại thị, Fezzali và Lavater có thể vào bất cứ cái nào. Và theo em nghĩ thì lúc này họ đang ngủ yên. Còn anh thì định bắt em xung trận chỉ vì trực giác của anh.”
Cậu trợ lý giám đốc đến giúp tôi đã bỏ đi ngủ nhưng...
— Đồng ý, Franzy. Em sẽ ra khỏi giường nệm âm êm, sẽ thuê một chiếc Boeing và bay đi Naples. Còn nếu anh muốn biết ý riêng của em thì...
— Không cần biết.
... nhưng trước khi về phòng ngủ, cậu ta đã có sáng kiến: Gửi một bức telex cho văn phòng Hãng Hàng Không Pháp ở Naples đặt ngay tại sân bay. Bây giờ họ trả lời: Một hành khách tên là Lavater đã tới đây lúc mười chín giờ bốn mươi phút.
Sau đó là sáu tiếng khắc khoải chết người. Ute là người đầu tiên phá vỡ sự yên lặng.
— Có tin chẳng lành, Franzy.
Tôi ngắm nhìn Copacabana từ bóng đêm bước ra. Ánh bình minh sơ khai soi rõ một người đàn ông đang nhún nhẩy dọc theo lằn ranh giữa bờ cát và nước biển. Hòn Chóp Nón hiện ra, phía trên đồi Leme.
Hassan Fezzali đã mất tăm. Không để lại chút dấu vết. Hắn không đến khách sạn đã dặn giữ chỗ trước: Khách sạn Parco Principi ở Sorrente, cách Naples bốn tám kilomètres.
Nhưng đã tìm được Marc. Bị tai nạn xe hơi. Không chết nhưng ở trong tình trạng nguy ngập. Tiếng Ute Jenssen:
— Em đã xem vết tích tai nạn, tưởng chừng anh ta định tự sát.
Chú thích:
[22] Cô nàng xinh tươi ở trên biển - nguyên văn tiếng Anh.
[23] Régis Debray: Người Pháp, có thời đánh du kích dười quyền Che Guevara, sau vào đảng hội Pháp, trở thành cố vấn đối ngoại của Tổng Thống Pháp F. Mitterand.
[24] Malaparte: nhà văn Ý.
[25] Claude Monet: Danh họa Pháp (1840-1926).