Chương 7
Chagny. Marc từ Ý được chuyển về đây. Anh hoàn toàn không đi lại được, cả nửa dưới người bó bột cứng nhắc, hơn nữa còn bị chiếc mũ thạch cao giữ chặt cổ. Anh không chịu nằm trong phòng mọi khi mà đòi nằm ở phòng đọc sách, phải đặt giường của anh tại đó.
Hai chúng tôi chỉ có một lần trao đổi về vấn đề Hassan Fezzali mất tích (anh vẫn kiên trì ý nghĩ cho đấy không phải do cố ý, đúng là Hassan bị bắt cóc). Dù thế nào mặc lòng, anh cũng thừa hiểu qua kinh nghiệm nghề nghiệp rằng vụ mất tích này có ảnh hưởng như thế nào đến anh và đến bản thân tôi: Bị giam mười triệu đôla đúng vào thời điểm các cố gắng về tài chính của tôi đã tới cực điểm, có thể nói là quá mức. “Quá mức thật đấy Franz, và theo ý tôi thì...”. Anh chợt dừng, thoáng mĩm cười cay đắng: “Nhưng tôi là cái thá gì để mà khuyên anh nên thế này thế nọ? Chính tôi đã cam đoan rằng áp phe dầu lửa rất chắc ăn... Chắc ăn thật. Có điều là cái mình không thể dự liệu trước đã ập đến”.
Biệt thự Chagny chật cứng các cô cháu, cậu cháu, tất cả đều nhìn tôi bằng cặp mắt càu cạu. Chắc chẳng mấy lúc nữa họ làm tôi hiểu rõ tôi là kẻ không mời mà đến.
Ngày 28 tôi về Paris, gặp Ute từ Đức sang. Cô nàng đang giáp chiến dữ dội với tổ chức rõ ràng do Horst dựng lên để tranh giành địa điểm. Lão Horst đúng là có mặt khắp mọi nơi! “Một cuộc chiến thật dữ dằn, Franzy. Nhưng bọn em không lùi bước!” Cô đưa ra nhiều con số, lần nào chả thế.
— Tiếc rằng anh không thể chi viện thêm được cho Ute.
— Còn em thì rất tiếc cho Marc. Anh sẽ thấy thiếu anh ấy rất nghiêm trọng.
— Anh hiểu.
Cũng tại Paris tôi lại bàn thêm với Cannat. Anh đảm trách việc tìm cách thu hồi vốn cho công ty Liechtenstein đồng thời gánh vác các trách nhiệm do Marc Lavater chuyển giao cho. Vì chắc chắn phải sau nhiều tháng nữa anh mới trở lại làm việc. “Nếu còn trở lại được”, Cannat nhận xét.
Đây cũng là một tên phản thùng ngành tài chính. Ba mươi tuổi, nhanh nhẹn, cứng rắn, có hơi hướng của Vandenberg trong cung cách nhìn nhận mọi vấn đề với con mắt hoàn toàn lạnh lùng.
— Marc sẽ trở lại.
— Cứ hy vọng thế.
Theo như đã bàn, anh ta nhờ sự chi viện của một nhóm luật gia quốc tế cừ khôi để giải quyết vụ công ty Liechtenstein.
— Dù vậy, sẽ rất lâu mới xong như tôi đã báo trước.
— Thì cứ làm hết sức mình đi.
Sáng 29, đi New York. Không định nén lại lâu. Tôi sẽ tiếp tục đi thẳng tới Phoenix và trang trại. Nhưng lại bị Vandenberg níu chặt qua điện thoại. Tôi đến văn phòng anh ta. Câu chuyện của anh vỏn vẹn trong vài từ: Giá bạc tiếp tục lên mạnh đến chóng mặt, bọn Texas vẫn tuần tự mua vào khối lượng rất lớn. Đã vượt quá khối lượng kinh khủng một trăm năm chục triệu once. Mọi dấu hiệu đều cho thấy chúng sắp đạt đến hai trăm triệu. Khoảng hai phần ba số bạc nằm trong tay tư nhân toàn thế giới, ngót tám chục phần trăm sản lượng năm của các nước Phương Tây. Theo thời giá, ước tính vào khoảng mười tỉ đôla.
Văn phòng Philip Vandenberg so với tất cả những phòng làm việc tôi có dịp quan sát thì rất độc đáo, về mặt nào đó nó là nơi đẹp nhất. Tường ốp ván gỗ sồi, trần lợp cũng bằng gỗ sồi, sân cũng vậy, trải tấm thảm Tàu mầu xanh biếc như mắt người sử dụng căn phòng. Trên tường không có gì khác ngoài bức tranh của Claude Monet[25].
— Theo anh, tôi nên làm gì bây giờ?
— Có lẽ nên thả trôi theo giòng như vẫn làm từ trước đến nay.
— Không thể cứ lên giá mãi thế này.
— Chẳng có cái gì mãi mãi.
— Anh cho rằng tôi còn đủ thì giờ?
Đây cũng là ý kiến của ba chủ nhà băng tôi đã tham khảo.
— Theo tôi: Nhiều tháng nữa.
Mười triệu đôla bị kẹt ở Liechtenstein không sử dụng được, có thể trong thời gian còn dài. Và mươi triệu khác tung vào vụ tích trữ bạc này...
Cimballi, có lẽ đã đến lúc phải cân nhắc thận trọng.
Ngồi trên máy bay vượt qua Đại Tây Dương, và cả lúc ngồi taxi từ sân bay Kennedy, một lần nữa tôi lại kiểm tra các số liệu với niềm thích thú gần như say mê tôi vẫn có khi làm việc này. Tất cả ý kiến đều thống nhất, mọi người ở khắp bốn phương tám hướng đều xác nhận với tôi: Giá bạc có thể, nhất định sẽ còn lên nhiều. Thực ra sự lựa chọn của tôi rất đơn giản. Chỉ có một trong hai cách: Hoặc là vẫn để lại tiền trên thảm với hy vọng giá bạc còn lên nữa và sẽ được lãi to.
Xin nhắc lại tất cả không trừ một ai đều xui tôi ngả theo phương án này, kể cả Vandenberg xưa nay vẫn thận trọng hơn ai hết. Nhưng tôi vẫn không quên điều Vandenberg đã tiết lộ: Horst đã tiếp xúc với anh ta và đã rủ anh ta, hoặc định rủ anh ta, chắc chắn như thế, móc ngoặc với lão để đánh tôi. Theo lời anh ta thì cuộc thương lượng đã không thành vì anh ta từ chối không tiếp lão ta, anh ta là người tử tế trung thực. Có thật thế không? Và nếu trong vụ này có cạm bẫy thì cạm bẫy nằm ở chỗ nào đây? Qua Fezzali, tên Horst đã cho thấy bằng chứng rõ ràng về điều tôi không hề ngờ tới: Chúng căm thù tôi đến mức dám ra những ngọn đòn kỳ quái vô liêm sỉ nhất.
Giả thuyết rằng Horst đã thật sự tiếp xúc với Vandenberg. Biết đâu lão cố làm ra thế để tôi được báo tin? Nhằm khích tôi dấn sâu hơn nữa vào vụ buôn bạc, hoặc ngược lại, để tôi chờn không dám mạnh tay nữa trong áp phe ngon lành này, tôi bảo luật sư:
— Để tôi suy nghĩ thêm.
Thản nhiên: “Đấy là việc của ông, ông Cimballi”. Nói chung tôi chỉ dừng chân ở New York độ ha bốn giờ. Nhưng tôi quyết định ở lại lâu hơn. Từ văn phòng Vadenberg tôi gọi về Arizona và trang trại, một lần nữa chuông lại đổ rất lâu mới có người hầu đến cầm máy. Một cô hầu, tôi chỉ nhớ mang máng hình như đã lớn hoặc hãy còn con gái, đã từng gặp trong bếp thì phải. Cô mới di tản từ Mexico tới nên nói tiếng Anh còn bập bẹ. Còn tôi tuy nghe hiểu tiếng Tây Ban Nha nhưng vẫn bị lúng túng khi nói qua diện thoại; điều này vẫn xẩy ra với tôi khi đụng đến tiếng nước ngoài.
— Señora đâu?
Người hầu gái đáp: Đi khỏi. Đi en el coche với cháu bé. Đi Phoenix à? No sé. Thế bố mẹ bà chủ, ông bà Jeffries đâu? Marcharse, cũng đi khỏi. Không còn ai ở nhà! No senor. Các bạn của bà chủ ở Los Angeles tới và định ở chơi đến cuối tháng? Cũng đi khỏi. Mọi chuyện nực cười và bi thảm đều từ câu “đi khỏi” này mà ra. Câu trả lời mà tôi hiểu sai đi trong lúc bận rộn vì công việc, và là sự rụt rè của cô hầu gái không quen nói chuyện điện thoại. Tôi nhắn: Khi Señora về phải báo cho bà biết hôm nay tôi không về nhà như đã báo trước, mai mới về được, cô hiểu chứ? “Nhắc lại xem”. Cô ta ngoan ngoãn nhắc lại, không, cô không quên đâu. Tôi gác máy.
Lúc ấy vào khoảng mười một giờ ba mươi ngày 29 tháng giêng.
*Đó là một phóng viên tài chính của tờ Bưu Điện Washington. Tôi đã gặp ba bốn lần và có thiện cảm đến mức mời anh ta “vào một dịp hè nào đó” sẽ đến chơi nhà ở St. Tropez, nơi rất có sức quyến rũ các bạn người Mỹ của tôi. May sao lúc này anh ta đang ở New York và lại thu xếp được để có thì giờ rảnh vào buổi ăn trưa. Ngồi ăn trong phòng Rainbow trên lầu sáu mươi lăm cao ốc R.C.A của Trung Tâm Rockefeller. Tôi thuật lại chuyên đang làm tôi phân vân. Anh ta cười phá lên:
— Tôi đang tự hỏi ai sẽ chi bữa chén này. Bây giờ những lo ngại những đắn đo của tôi đã biến hết. Anh là người phải chi. Người biết nhanh chân nhảy lên con tàu tốc hành Texas - Ả Rập - Brazil bao giờ cũng là người sung mãn.
— Trong bao lâu?
Anh ta thôi cười, đưa cặp mất sắc sảo của con nhà báo chăm chú nhìn tôi với vẻ đột nhiên đánh hơi thấy có chuyện.
— Anh có lý do để nghĩ rằng sẽ không được lâu?
— Tôi đang hỏi anh.
Anh ta lắc đầu.
— Người ta vẫn cho rằng bạc trị giá bằng một phần mười vàng, vàng trị giá bằng hai mươi chín thùng dầu mỏ. Nhân thể xin nói luôn, đó là lập luận của bọn Ả Rập, bọn Venezuela để chứng minh giá dầu của họ là phải chăng.
— Tôi cóc cần biết cái đó.
— Được thôi. Nhưng này, giá vàng giá dầu không ngừng tăng, à tôi chưa thấy có thể giảm. Vậy giá bạc sao lại không tăng theo?
— Ngộ nhỡ việc bạc lên giá này là do một nhóm nào đó tìm cách nắm giữ vị trí “hòn đá tảng” để họ tùy ý đặt ra bất cứ giá nào thì sao?
— Anh đừng cường điệu, không thể tùy ý đặt bất cứ giá nào. Không thể thô bạo đến mức ấy. Nhưng tất nhiên họ vẫn cứ làm, không có luật lệ nào cấm đoán họ. Vả lại bọn Texas không phải tay vừa, chúng có đủ phương tiện: Mười tỉ đôla, có khi hơn, nặng cân lắm đấy.
Tôi chưa đụng tay đến con tôm hùm vừa mang lên. Biết nói gì bây giờ? Chẳng có gì để nói, trừ nỗi lo trực cảm là trong việc này có thể có gài bẫy. Tôi hỏi:
— Ai sẽ có lợi nếu giá bạc hạ?
— Bọn đầu cơ nào nhằm vào sự tụt giá đó, tất nhiên. Nhưng đấy không phải là chủ yếu. Phải nói: Những người sử dụng đến bạc.
— Ai vậy?
Nhún vai: “Đại loại các nhà công nghiệp ngành ảnh, ngành phim. Làm phim phải dùng đến bạc. Nhưng tôi không thạo chuyện này lắm”.
— Liệu có tồn tại một lobby ngành phim ảnh, một nhóm gây sức ép có các chính khách tham gia không?
Anh ta cười khẩy: “Lạy Chúa! Có lobby tã lót, Lobby đậu phộng chiên, thì tại sao anh không có lobby phim ảnh?”
— Bọn nào làm ô dù cho lobby này ở Hạ Viện, ở Thượng Viện, trong Chính Phủ? Tên nào đã lộ mặt khi tham luận?
Im lặng. Anh ta nhìn soi mói: “Anh định đi đến đâu thế?“ Tuy nhiên hẳn là câu hỏi tôi vừa nêu vẫn đang lồng lộn trong đầu anh ta. Anh đặt khăn ăn xuống. ”Đợi tôi”. Đứng lên, đi về phía đặt điện thoại, sau mười lăm phút mới trở lại, ngồi xuống:
— Chủ yếu do một Thượng Nghị Sĩ. Gần đây ông ta tuôn ra nhiều lời lẽ cay độc, tự xưng là người bênh vực các tay buôn nhỏ trên thị trường bạc. Theo lão ta thì những người buôn bán nhỏ là sức sống của đất nước, của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ sâu sắc và trung thực, và táo bạo v.v.. đang bị bọn đầu cơ Ả Rập - Texas khốn nạn tấn công rất dã man. Nhất là bọn Ả Rập bị lão căm lắm. Nếu có một kẻ như anh hỏi thì đấy là hắn.
Anh ta ngắm đĩa thức ăn với vẻ khoan khoái: “Anh đã cho đổi con tôm hùm tôi đang dùng dở lấy một con mới toanh”.
— Tôi có tấm lòng vàng.
Nữ thư ký của vị Thượng Nghị Sĩ nói giọng miền Nam:
— Anh vừa cho biết quý danh là '?
— Horst, Erwin James Horst.
— Ông vui lòng đánh vần cho, ông Horst.
Tôi quật luôn lá bài thứ hai. Nói: “Vô ích. Cứ thưa với Thượng Nghị Sĩ là tôi muốn gặp theo ủy nhiệm của ông Martin Yahl.
Thế mà ăn. Rất ngon lành. Chiếc bẫy thô sơ có hiệu quả ngoài mong muốn. Rõ ràng tên tuổi lão Yahl rất quen thuộc với nữ thư ký ngài Thượng Nghị Sĩ, tuy đáng lí ra cô không biết mới phải.
— Ô, ông Yahl à? Xin cầm máy cho, tôi sẽ gọi cho Thượng Nghị Sĩ...
Tôi gác máy luôn không đợi nữa. Thế là rõ. Tôi quay số máy của Philip Vandenberg:
— Cimballi đây. Tôi đã hứa với anh là sẽ suy nghĩ thêm. Bây giờ nghĩ xong rồi. Bán hết bạc đi. Bán nhẵn nhụi.
Dĩ nhiên ngay lúc đó tôi chưa lường hết sự khôn ngoan của quyết định ấy. Phải sau vài tuần lễ. Nhưng mọi việc đã diễn ra gần như do phù phép nghiệt ngã như máy. Mở đầu là chiến dịch báo chí như thường lệ. Và cũng theo lệ, tiếp sau là chiến dịch phản công của bọn Texas có trong tay kho của cải huyền thoại. Họ nghênh chiến và chịu thua trận.
Vì có hai quyết định của Chính Phủ.
Quyết định thứ nhất nhằm mục đích bảo vệ các nhà đầu tư ít vốn. Nó thay đổi lệ ký quỹ khi làm hợp đồng mua bán bạc. Hồi tôi bắt đầu kinh doanh món hàng này, tiền ký quỹ ấn định vào khoảng từ năm đến mười phần trăm giá trị của hợp đồng tùy theo sự tín nhiệm đối với người bỏ vốn; do đó bất cứ ai cũng có thể - nói một cách đại cương - chỉ ứng ra có mười đôla để mua được số hàng giá một trăm đôla. Bây giờ chính quyền liên bang quyết định: Nâng mức ký quỹ bắt buộc lên mười đến ba chục phần trăm. Quyết định này dẫn tới hai hậu quả: Hạn chế những người ít vốn lao vào thị trường (một cách bảo vệ họ chống lại bản thân họ), và do đó làm giá bạc hạ xuống.
Khi công bố quyết định thứ hai, giá bạc càng tụt nhanh, tỉ lệ sụt giá càng cao. Quyết định này hạn chế số lượng hợp đồng mà một người hoặc một nhóm bất kể thành phần như thế nào được phép chính thức ký kết. Thế là bọn Texas và các cộng tác viên Ả Rập của họ buộc phải bán ra. Và bán ra một thị trường đã vắng bóng những tay buôn ít vốn như trên đã nói. Do đó, họ phải bán lỗ.
Trước đây họ mua vào với khối lượng rất lớn làm giá vọt lên kinh khủng, bây giờ bị ép phải bán tống bán tháo nên giá bạc tụt xuống càng khủng khiếp gấp bội. Chỉ trong vài ngày mọi việc đã kết thúc một cách tàn nhẫn không nói xiết. Giá một once chỉ còn hai mươi đôla. Nhóm Texas mất đi tám tỉ. Tức: Ba trăm sáu mươi triệu franc Pháp, ba mươi sáu tỉ xu. Nhưng không vì thế mà bọn Texas bị sạt nghiệp.
Riêng phần tôi, tôi đã nhanh chân rút ra khỏi cuộc chiến khổng lồ vượt quá sức mình đến mức đáng mỉa mai. Và rút ra được không phải chỉ giành lấy có vinh quang suông. Trong thực tế, cú phôn đơn giản gọi cho nữ thư ký của vị Thượng Nghị Sĩ tôi không biết mặt và sẽ không bao giờ gặp (nhưng lão ta lại quen thân tay chủ ngân hàng Thụy Sĩ về hưu tên là Martin Yahl, và tôi chỉ cần nắm được bằng chứng ấy thôi là đủ) đã mang về cho tôi chừng chín triệu đôla.
Lúc ấy, và đến tận bây giờ tôi vẫn chưa rõ vai trò của Martin Yahl trong vụ này, ít có khả năng, hơn nữa dứt khoát không có khả năng lão nhúng tay vào đây. Tuy lão rất có nhiều tiền, có nhiều liên hệ với các chính khách Hoa Kỳ, nhưng chắc chắn những cái đó không cho phép lão lôi kéo những nhóm công nghiệp khổng lồ và lôi kéo chính quyền liên bang theo đuôi lão. Hơn nữa, lại là trong đòn đánh thẳng vào thằng bé Cimballi cô độc, dễ thương và yếu ớt thế này. Có lẽ thực ra là lão đã phân tích đúng tình hình vào đúng lúc, trước cả tôi nữa. Và lão đã tận dụng được, nhờ có chiếc ô Thượng Nghị Sĩ.
Nhưng ngày 9 tháng giêng ấy tôi chưa nghĩ đến đấy. Chỉ mới vừa quyết định rời bỏ vị trí trên trận địa bạc và chưa thật tin mình đã hành động đúng. Tôi đã đi nước thận trọng, tuy thận trọng chưa bao giờ là đặc điểm chính trong Vũ Khúc của tôi. Quyết định ấy để lại dư vị thật khó chịu.
Từ cabin điện thoại của phòng Rainbow ở gần trên đỉnh Trung Tâm Rockefeller tôi gọi cho Philip Vadenberg. Đúng như tôi đã dự đoán, lệnh miệng tôi truyền qua điện thoại chưa đủ hiệu lực với anh ta.
— Tiện thể anh sang New York, tôi muốn có một lệnh viết ngay trong ngày. Sẽ có người chạy giấy đến chỗ anh nhận.
— Cứ làm tới đi.
— Không có lệnh viết chưa làm.
Tôi còn nhớ lúc ấy suýt nữa thì phì cười. Xét cho cùng, nhiều lúc mối quan hệ với Vandenberg làm tôi thích thú, sự nóng nảy mà hai người không bao giờ bỏ lỡ dịp biểu lộ đối với nhau trở thành ngồ ngộ.
Hơn nữa nghĩ cho kỹ thì quyết định vừa rồi làm tôi nhẹ hẳn người. Đúng là cất được một gánh nặng. Nhất là vì số lãi lớn trong vụ buôn bạc này giúp tôi khôi phục được tình hình tài chính đang làm tôi lo lắng sau khi Fezzali mất tích. Tuy số lãi này không làm tôi bốc, tôi đã dự kiến từ nhiều tuần trước và đã quen với ý nghĩ đó.
Lúc này đã gần ba rưỡi chiều. Cứ mưa ở New York, không mưa to, chỉ là mưa phùn lạnh buốt không trở ngại tôi nhiều. Tôi lững thững tản bộ, mơ màng nghĩ đến hòn đảo của tôi, đến hàng hiên rộng mở cho hàng ngàn chim tự do. Cũng nghĩ đến Vandenberg - điều không lấy gì làm mơ mộng - đến lời hẹn thề sẽ đến vào lúc năm giờ để trao cho anh ta tất cả các giấy tờ cần cho việc thanh toán hàng. Phần chủ yếu để giải quyết xong bằng bức điện mật gửi cho chủ ngân hàng của tôi ở Bahamas. Chỉ còn mỗi việc gửi cho Vandenberg một tờ xác nhận, đã viết xong và bỏ vào phong bì.
Chợt tôi sực nhớ ra: Vì có dự định bay thẳng đi Phoenix nên tôi không hề chuẩn bị gì để ngủ lại New York. Chỗ này không xa khách sạn Pierre mấy, tôi cuốc bộ về đó. Ban tiếp đón tươi cười nghe tôi trình bày và đính chính ngay khi tôi giải thích việc quên không giữ chỗ trước:
— Đâu có chuyện đó, ông Cimballi. Phòng ông vẫn thuê đã được giữ lại rồi.
— Ai bảo?
— Thư ký của ông.
Ô kìa! Thế ra bây giờ tôi lại có một cô thư ký riêng nữa cơ đấy! Tôi hỏi:
— Nam hay nữ?
— Nam.
Anh ta gọi điện vào khoảng trưa, gần khoảng tôi trên đường đi tới Trung Tâm Rockefeller sau khi từ giã Philip Vandenberg và hẹn chàng phóng viên tờ Bưu Điện Washington cùng đi ăn trưa. Nhân viên tiếp đón còn nói thêm:
— Họ còn mang tới cho ông một gói to.
Tôi lên phòng. Gói hàng đặt ngay một chỗ dễ trông thấy trong phòng khách. Dài suýt soát một mét, dầy độ hai mươi lăm centimètres. Bọc ngoài bằng tờ giấy đen vừa khít. Không kèm theo danh thiếp, không đề từ đâu tới, địa chỉ người gửi.
Ngộ nhỡ đây là một quả mìn? Đầu nhà ngươi sẽ nát bét, Cimballi! Nhưng tôi cứ mở gói. Toàn những tấm ảnh màu. Khổ chín mươi nhân tám mươi centimètres. Độ sáu mươi bức, xếp theo thứ tự thời gian, bức trên cùng là bức chụp trước tiên. Chụp Cimballi Franz đứng trước khách sạn Amstel, ở Amsterdam cùng với Maria De Santis. Chụp đúng lúc tôi mỉm cười nói với thiếu phụ câu đại loại: “Vừa gặp em, anh cảm thấy ngay một tình yêu sét đánh đúng không?” Tất nhiên tấm ảnh không thể hiện lời tôi nói, chỉ ghi lại hình ảnh hai người đang tươi cười chuyện vãn trước một khách sạn bên Hà Lan. Maria De Santis đứng cách tôi chưa đến một mét; trên ảnh không có chiếc máy ảnh cô cầm trên tay vì bị tôi che khuất. Cũng không có hình Adriano Letta và phóng viên tờ Fortune là MacQueen, tuy họ đứng rất gần đấy vì thợ ảnh lấy khuôn hình rất hẹp. Trên bộ mặt Maria De Santis chụp chính diện, đôi mắt đen như đang dán vào tôi với vẻ rất bồng bột và dịu dàng. Năm bức ở Amsterdam, năm ở Francisco chụp Maria De Santis đi sau tôi từ sân bay ra, chụp cô đứng bên tôi đợi nhận hành lý. Và chụp hai chúng tôi sóng bước trên con dốc đồi Telegraph gần nhà Li và Liu, cô đang nhìn tôi bằng cặp mắt nồng nàn yêu đương. Còn rất nhiều tấm chụp ở New Orleans. Hai người ngồi trước các vại bia, chuyện trò vui vẻ ở hiện tiệm cà phê Pontalba (ở Hoa Kỳ rất hiếm nơi có hiên nhìn ra phố như ở đây), cảnh hai người ngồi riêng với nhau ở Antoine, cảnh đi bên nhau trên đường Royal, chắc đang định vào khách sạn Royal Sonesta. Đến trước cửa khách sạn, một gã thợ ảnh chộp được lúc cô đang bấm máy còn tôi thì làm đủ điệu bộ một thằng thộn. Cuối cùng là ảnh chụp ở Rio. Chẳng thiếu cảnh nào. Có những tấm chụp qua kính tele phóng rất to nhưng vẫn rất nét, chụp cô ta trần truồng bên bãi tắm Itaipu, nhìn tôi với cặp mắt đờ đẫn trong khi tôi vuốt má cô rồi ôm hôn cô.
*Chuông đổ vô hồi, nhưng tôi vẫn cứ gọi, mãi rồi cũng phải có người đến cầm máy. Nhưng không, hình như ngôi nhà đã bị bỏ trống. Chẳng lẽ Catherine đi khỏi trang trại mà không báo cho tôi biết? Đi đâu, về Châu Âu cùng với bố mẹ và Marc Andrea chăng? Dù sao thằng bé cũng là con tôi, tôi có quyền biết nó đang ở đâu chứ. Hay là đã xảy ra chuyện gì rồi? Làm gì bây giờ? Tôi thấy vô cùng lo lắng tuy không có duyên cớ rõ ràng.
Tôi bèn gọi cho quận trưởng địa phương. Ông ta tỏ vẻ ngạc nhiên, làm gì có chuyện bất thường, người nhà đi vắng hết, có thế thôi. Nhưng thấy tôi nài nỉ ông ta bằng lòng đi đến tận trang trại xem sao. Sau nửa giờ bất tận, quận trưởng gọi đến. Tôi cảm ơn. Rồi gọi cho Flint ở New York. Anh ta nhấc máy ngay. Tôi bảo:
— Máy bay đâu?
— Ở sân bay La Guardia.
— Bốn lăm phút nữa cất cánh đi Arizona.
Tôi linh cảm một tai họa ghê gớm.
Chú thích:
[25] Claude Monet: Danh họa Pháp (1840-1926).