← Quay lại trang sách

Chương 8

Tôi lê chân dưới trần xây cuốn các căn phòng bằng gạch không nung, lần lượt đi từ phòng này sang phòng khác hai lần, ba lần. Sự im lặng thật nặng nề, sự trống vắng đầy lo âu. Cuối cùng tôi ngồi xuống chiếc ghế bành. Mệt mỏi cùng với sự thiếu vắng sinh khí trong ngôi nhà nặng trĩu đôi vai. Tôi thấy như mình đã hóa đá.

Tiếng xe hơi. Tôi ra ngoài. Flint đến cùng ông quận trưởng, ông này hỏi:

— Đầy tớ cũng không có ai?

— Không.

— Ông có mướn người giúp việc chứ?

— Có năm người, ba nữ hai nam.

— Chắc ông có địa chỉ của họ ở đâu đó?

Ông ta tiếp. Rõ ràng khi thấy tôi gọi cho ông ta ở New York, ông nghĩ đây chỉ là chuyện vặt vãnh, chuyện vợ chồng xích mích thôi. Ông ta cùng tôi đi lục lọi tìm giấy tờ còn lại. “Đây rồi, có cái này”, giấy tờ của lái xe người Mĩ gốc Mexico như tất cả các người giúp việc trong nhà. Quận trưởng ra xe dùng vô tuyến điện gửi đi một mệnh lệnh. Đêm xuống từ lâu rồi, bây giờ đã mười giờ, theo giờ vùng núi. Từ Paris ra đi sáng 29, đến lúc này tôi đã thức trọn hai mươi sáu tiếng không được ngả lưng.

Quận trưởng cảnh sát quay vào:

— Có thể bà Cimballi đột ngột đi xa, bế theo cậu bé?

— Nếu thế, sao lại bỏ hộ chiếu, giấy tờ, túi xách, tất cả vali lại?

— Hay đến nhà bè bạn chơi và về muộn?

Nhưng tôi và Flint đã gọi điện đi khắp chốn. Từ mấy ngày nay bạn hữu không hề gặp cô.

— Tôi có xuống gara xem, - quận trưởng nói, - có hai chiếc xe trong ấy.

Vậy là thiếu hai chiếc nữa: Chiếc Truck bọn người ở vẫn dùng chạy loanh quanh và chiếc Range Rover. Flint thuật lại tỉ mỉ: Chúng tôi ra đi từ La Guardia tới Phoenix, rồi tới đây lúc trời chưa tối, gần như tất cả các ngọn đèn trong nhà đều còn đang cháy trong các phòng ở (trừ các phòng của người hầu vẫn gọn gàng, cửa đóng chặt, đèn không thắp). Các cửa đều thấy để ngỏ, dường như chủ nhà bỏ đi một cách vội vã. Nhưng vali vẫn còn kia, vẫn đóng chặt. Flint nhận xét: “Đến lúc tìm thấy các giấy tờ của chị ấy để lại tôi mới bắt đầu thấy lo. Nếu ra đi bình thường hẳn là chị ấy phải mang theo giấy tờ tùy thân”.

Tiếng máy vô tuyến rào rào trên xe quận trưởng. Ông ta ra nói chuyện rồi quay vào:

— Đã tìm thấy lái xe Gil Lopez. Đang ở nhà với vợ con, rất bình thường, khai rằng chị ấy cho tất cả về từ hôm kia, và cho mượn cả chiếc Truck để họ đi cho nhanh. Chị ấy bảo: Phải cho họ thôi việc vì đã bán trang trại cho người khác, anh sắp tới đón chị đi. Người lái xe cho biết có thể tìm được những người hầu khác.

Ông hỏi:

— Thường thường khi về nhà, ngoài chị, cháu bé và người ở, anh còn thấy có ai nữa?

Flint trả lời thay tôi: “Chúng tôi tưởng sẽ còn gặp bố mẹ bà Cimballi và bạn hữu đến ở chơi đây đến cuối tháng là ít”.

Vâng, đã gọi điện hỏi họ, đầu tiên đã làm là việc đó. Không liên lạc được với ông bà Jeffries vì số máy ở đại lộ Ségur tại Paris không trả lời. Còn các bạn người Pháp ở California thì trả lời ngay nhưng tỏ ra lúng túng vì họ đã rời khỏi trang trại từ năm ngày trước. Sao lại rút ngắn thời gian nghỉ ngơi? “Anh Franz ạ, xin nói thẳng ra là: Chính Catherine đã tống chúng tôi đi. Anh cũng biết đấy, chị ấy đang có cơn thần kinh mà...”.

Quận trưởng nhìn tôi soi mói. Lúc đầu ông ta cho đây là chuyện cãi lộn giữa vợ chồng những ngoại kiều lắm của. Sau đó thấy không còn người hầu ông ta lại nghĩ đến một vụ mưu sát đẫm máu do các đầy tớ ra tay. Bây giờ ông cho mình đã tiếp cận sự thật. Mấy từ “Cơn thần kinh” làm ông thấy sáng ra. Đúng lúc điện thoại reo.

Cannat đã tìm được bà mẹ Catherine ở khách sạn Megève. Tôi báo tin:

— Catherine đã biến mất cùng với cháu Marc.

Im lặng. Cơn sự hãi ủ dột trong tôi tan dần. Khi bà mẹ vợ bắt đầu hỏi dồn dập rồi cắt luôn. Sự việc dần dần rõ ra. Bố mẹ Catherine rời trang trại từ một tuần trước để trở về Pháp. “Nó ở lại với bạn bè California. Và cho biết ngay tối hôm đó sẽ về với anh ở Los Angeles. Tôi còn giúp nó đóng gói hành lý mà”.

— Cô ấy nói dối. Lần nào con gọi cho cô ấy đều bị cô ấy nói dối, bào rằng mẹ vẫn còn ở trang trại.

— Vô lý! Cách đây ba ngày tôi vừa mới gọi điện cho nó, nó bảo anh đang ở phòng bên cạnh!

— Lúc ấy con đang ở bên Châu Âu.

Còn bố mẹ vợ tôi đã về ở Megève lúc tôi đang gặp gã người Anh ở Geneva. Hai người đều không biết tin Marc gặp nạn, bà mẹ vợ tôi không hỏi thăm anh ta là vì thế.

— Lạy Chúa! Bây giờ biết nó ở đâu, anh Franz?

— Có thể cô ấy lái chiếc Range Rover đi thẳng về phía trước.

Tôi thấy tuồng như mình vừa nói: “Có thể cô ấy đã hoàn toàn phát điên”.

*

Đã tìm thấy bốn trong số năm người đầy tớ. Người còn thiếu là người coi vườn đi về thăm gia đình ở Tucson. Tôi bảo ông quận trưởng:

— Mới sáng nay thôi, khi tôi gọi điện đã nghe có tiếng người trả lời, tiếng đàn bà.

Đó là cô trẻ nhất trong ba người, mới độ mười sáu mười bảy, sợ mất vía trước lực lượng được huy động, lại bị triệu vào giữa nửa đêm. Có, tất nhiên cô có nhớ đã nói chuyện với tôi. Mà cô nói với tôi rất đúng sự thật: Lúc tôi gọi, Señora đã lên đường cùng với cháu bé, cả bố mẹ và bạn hữu nữa. Đã lên đường. Không phải “đi khỏi”.

Cô đã dùng từ Marcharse cứ không nói Salir (đi khỏi). Tôi hiểu sai.

— Señora lên đường từ lúc nào?

— Mới sáng nay.

Cô cũng lẫn y như tôi. Từ hôm qua hay mới sáng nay? Đó là sáng 29 tháng giêng. Khoảng tám giờ. Catherine lái chiếc Range Rover. Đi về phía nào? Cô ta không biết nữa, chỉ nghe tiếng nổ máy xe ngoài sân.

Đến lúc này, sự việc xảy ra đã mười sáu tiếng rồi. Quận trưởng ra lệnh qua vô tuyến điện: Vào tất cả các khách sạn, ôtô, các trạm xe, các đồn cảnh sát lân cận. Và hỏi tôi:

— Chiếc Range Rover có tầm hoạt động bao nhiêu?

Tôi đâu có biết chắc? Bốm trăm kilomètres chăng? Và nhớ ra rằng vì hay đi dạo trên sa mạc, tôi đã lắp trên xe hai can xăng phụ và một can nước.

— Nghĩa là cô ấy có thể chạy một mạch không dừng lại tiếp xăng cho đến tận Utah, đến Colorado, đến New Mexico hoặc California. Dù sao đến Mexico cũng không qua được biên giới vì không có giấy tờ tùy thân. Nhưng chẳng vì thế mà dễ tìm.

Lại tiếp tục cật vấn cô bé hầu phòng lúc tôi từ văn phòng Vandenberg gọi về, cô có mặt tại đây hoàn toàn do tình cờ. Cô cũng bị đuổi việc như mấy người kia, chỉ quay về để lấy chiếc đài bán dẫn bỏ quên. Cô ngạc nhiên khi gặp Señora vẫn còn ở nhà. “Bà chủ nói đi cùng Señor Cimballi sắp tới đón”. Sau khi chiếc Range Rover lăn bánh độ hai ba phút - cô nghe rõ tiếng xe chạy đi chứ không nhìn thấy - thì chuông điện thoại reo. Cô nhấc máy nói, nói: “Señora lên đường rồi”. Cô tưởng là Catherine đi đến nơi hẹn gặp tôi.

Ba xe cảnh sát mới đến mấy phút trước đây đã lao đi. Quận trưởng cũng từ biệt. Chỉ còn Flint ở lại với tôi trong ngôi nhà vắng ngắt. Hai người lại lục lọi tìm kiếm. Còn biết làm gì khác? Tôi đã định đi theo các cảnh sát viên nhưng họ gàn: Biết đâu Catherine bỏ đi trong một cơn nổi khùng nghĩ lại và gọi về từ một nơi nào đó để báo tin?

Nhưng rõ ràng cô ấy đã sửa soạn kỹ lưỡng cuộc đi trốn trong điều kiện hoàn toàn vắng vẻ: Báo tin tôi sắp về để bố mẹ cô trở về Pháp, đuổi khéo số bạn bè đồng hương, buộc đầy tớ nghỉ việc... nói dối tất cả mọi người. Chẳng có nguyên nhân gì khác ngoài nguyên nhân: Một cơn rối loạn tâm thần.

— Franz này!

Flint từ ngoài ban công có cửa sổ kiểu Pháp thông vào phòng ngủ. Tôi chạy ra.

— Nhìn đây. Hình như chị ấy đốt đi cái gì ấy.

Tro đã lạnh. Bới lên, tôi tìm thấy trước hết một mảnh bìa nhỏ, thứ bìa màu đen bọc ngoài gói hàng đặt trong phòng tôi thuê ở khách sạn Pierre. Không chỉ có thế, còn có những mẩu cháy dở dang của tấm ảnh màu nhìn thoáng qua tôi đã nhận ra ngay. Trên đó còn sót lại vài chữ tên của khách sạn ở Amsterdam. Trước khách sạn, cô Maria De Santis và tôi được tên thợ ảnh nào đó chụp trong một khuôn hình căn rất khéo.

*

Bình minh ngày 30 tháng giêng đang ló rạng. Các cuộc tìm kiếm của cảnh sát tuy tiến hành trong phạm vi toàn bang vẫn chưa có kết quả. Cảnh sát các bang lân cận đã được báo động lúc tám giờ sáng, kèm theo nhận dạng Catherine và con tôi cùng số biển xe Range Rover.

Cả đêm tôi không hề chợp mắt mảy may nên sáng ra mệt đến lợm giọng. Lúc mười giờ Flint quay lại với chiếc máy bay du lịch nhỏ đưa tôi lượn khắp vùng. Nhìn tấm bản đồ Arizona trước mặt, tôi mới thấy bài toán thật rộng lớn: Catherine và Marc Andrea có thể ở bất cứ chỗ nào, trên các cao nguyên miền Bắc với Hẻm Núi lớn mà cũng có thể giữa sa mạc Sonora, hoặc Mojave. Catherine có thể tới Las Vegas hoặc trên đường đi Albuquerque hoặc đi Denver. Hoặc về thành phố khổng lồ Los Angeles (đã lục soát biệt thự trên đồi Beverley Hills nhưng không thấy). Cũng có khi cô ấy đã lọt được sang Mexico. Dù không mang theo giấy tờ; nhà chức trách không khắt khe lắm với những người từ Bắc xuống Nam. Vả lại cô có các giấy tờ của xe móc sau kính che nắng, có thể có cả tiền nữa. Các phiếu mua chịu của cô đều còn lại trong xắc tay, nhưng không hiểu cô mang theo bao nhiêu tiền mặt. Chỉ biết cô vẫn có trong tay vài ngàn đôla.

Flint lại nhai lại lần thứ mười những lý lẽ của anh: Chắc không có gì nghiêm trọng; chị ấy bỏ đi ít lâu để trả thù tội tôi hay vắng nhà; chị ấy đã tìm chỗ nấp thật kín và sau mấy ngày nữa mới thò ra, mọi dấu hiệu đều nói lên điều đó, trước hết là cái cách chuẩn bị chu đáo việc ra đi.

Chúng tôi lượn trên vùng núi non phía Đông Nam Flagstaff, từ lâu đài Montezuma đến khu bảo tồn Réserve; ở đây có thể dấu kín cả một sư đoàn bọc thép huống chi một chiếc ôtô đơn độc. Tôi biết rõ cuộc tìm kiếm này hết sức vô nghĩa, liệu chúng tôi hy vọng được vào cái gì đây? Nhưng khốn nỗi không cái gì trên đời này có thể giữ tôi ngồi yên một chỗ mà chờ đợi, vả lại tôi vẫn giữ liên lạc thường trực bằng vô tuyến với cảnh sát Phoenix, họ chỉ có mỗi loại tin để báo cho tôi: Không tìm thấy gì. Flint hạ cánh xuống thị trấn Holbrook lấy đầy xăng rồi lại cất cánh. Bay lên phía Băc, lượn thật thấp trên cánh rừng hóa đá, khu bảo tồn Navajo, rồi ở tận cùng Tây Bắc, trên các bức tượng thiên tạo kỳ lạ trong Thung Lũng Lâu Đài; bay về hướng Tây trên Hẻm Núi Lớn... Tôi gần như đi đến chỗ thù ghét các cảnh thiên nhiên hùng vĩ dưới cánh máy bay, chúng làm cho cuộc tìm kiếm hoảng loạn của chúng tôi lại có dáng vẻ cuộc du ngoạn.

Flint gần như lả đi vì đêm qua được ngủ có vài ba tiếng. Nhưng anh vẫn đòi bay tiếp, tôi bắt buộc anh quay lại trang trại. Độ một giờ chiều thì tới. Nghĩa là Catherine đã lái chiếc Range Rover đi được hai mươi chín tiếng rồi.

Không nhớ tôi có bảo họ trở lại làm việc không, nhưng thấy tất cả đã có mặt. Họ cho biết trong lúc tôi đi vắng có nhiều người gọi điện tới. Nhưng tất cả đều không hay biết việc xảy ra, trưởng bếp Narcisso phải báo họ mới biết, cố bám từng tia hy vọng mong manh, tôi đọc bản kê những người gọi: Li và Liu, Rosen, một nhà buôn bán nhà đất ở California, một người nữa ở Nevada nơi tôi đã mua đất, một diễn viên điện ảnh Pháp có việc qua Los Angeles nhắn tôi phải gọi cho anh ta, và nhiều bạn bè khác.

Có một cái tên lạ hoắc:Jessica Walter ở Taos, New Mexico.

— Đúng là chúng ta chưa hề gặp nhau, - cô ta nói - Tuy tôi đã từng đến nhà anh.

Cô quen Catherine trong cuộc triển lãm ở Los Angeles, gọi tên bạn theo cách thân mật là Kathy. Cô là họa sĩ, đã có lần mở phòng tranh ở Phoenix và nhân dịp đó đã về ở trang trại hai ngày (lúc tôi đi Rio). Tôi cứ để cho cô ta nói một mình, phần vì đang mệt phần vì hy vọng cô sẽ cung cấp được tin gì quan trọng. Nhưng sau đó thấy chẳng ăn thua. Tôi bèn hỏi cầu may:

— Theo chị, cô ấy có thể đi đâu?

Cô đáp: “Không thể biết là...” Rồi đột nhiên kêu lên:

— Lạy Chúa! Tôi nghĩ thế này! Một chỗ tên là Hai Mươi Chín Cây Cọ, ở California, bên rìa sa mạc Mojave, gần đài tưởng niệm quốc gia Joshua. Ở đây tôi có một túp lều. Đã nói cho Kathy biết. Cách trang trại bốn trăm kilomètres đường chim bay.

Thoạt đầu cô chạy về hướng Las Vegas thuộc Nevada. Sau đó quặt xuống Nam, qua Needles trên biên giới giữa California và Arizona. Một lái xe tải cho biết: Chiếc Range Rover bỏ mui, có chú bé con ngồi bên đã vượt xe anh ta rồi rẽ vào đường xuyên qua sa mạc Mojave cho đến lúc rời con đường liên bang để chạy về phía Nam thẳng hướng dãy núi San Bernardino.

Một người giữ cây xăng ở cửa phía Bắc Hai Mươi Chín Cây Cọ nhớ rõ có thấy hai mẹ con gần quãng hai giờ bốn mươi hoặc năm mươi phút ngày 29. Cô phục vụ một tiệm ăn ở cửa Nam thị trấn cho biết có dọn ăn cho hai mẹ con. Nhiều người cắm trại đã báo chúng tôi có thấy chiếc Range Rover. Họ đã nghe thông báo tìm kiếm trên đài phát thanh.

Một viên cảnh sát lên trực thăng cùng với tôi. Trên máy bay đã có một cảnh sát nữa và viên phi công. Họ bốc tôi lên máy bay từ phi trường nhỏ ở Palm Spring, ra sức săn sóc tôi, nói năng thật nhẹ nhàng, với tất cả sự chăm lo đối với người bị sét giáng xuống đầu. Làm tôi muốn gào lên.

Vẫn viên cảnh sát: “Trên núi đầy du khách, người cắm trại, người trượt tuyết. Vào dịp nghỉ cuối tuần thường như thế, vả lại chỗ này cách Los Angeles có chừng sáu mươi dặm, rất tiện”.

Bên trái chúng tôi là các đỉnh núi phủ tuyết, phản chiếu ánh mặt trời làm tôi bị lóa, nước mắt trào ra. Cảm thấy tất cả đều phi thực tế. Tôi mơ màng, tất cả chuyện này không hề xảy ra, tôi đang bay về Châu Âu sau vụ tai nạn của Marc Lavater, một tai nạn cũng trong giấc mơ thôi. Tôi đang về nhà, gặp lại vợ tôi, con tôi. Không có gì xảy ra hết. Tôi hoàn toàn kiệt sức, trống rỗng.

— Đến rồi.

Trực thăng đáp xuống. Nhìn rõ các mỏm đá, các bụi xương rồng như những đài nến nhô cao trên quần hợp gai bát ngát như biển. Sa mạc Mojave ngay kia, hoàn toàn xa lạ với con người. Nhưng khi một viên cảnh sát nhẹ nhàng níu tôi quay lại, cảm giác phi thực càng đột ngột tăng mạnh: Sau lưng tôi là một cảnh khác hẳn, rừng thông và núi tuyết, tôi đang đứng ở ngưỡng cửa hai thế giới không thể hòa hợp với nhau.

— Xin mời ông Cimballi tới đây.

Họ định cầm tay tôi dìu đi, tôi cáu kỉnh giằng ra. Và lảo đảo.

— Ông đi được một mình chứ?

— Đi được đến tận địa ngục.

Cô ta định đưa chiếc Range Rover lên thật cao trên núi làm mũi xe chổng ngược hẳn lên rất nguy hiểm. “Có con đường, có đến hai con đường đi lên căn lều nhưng chắc chị ấy không trông thấy nên cứ thế lao thẳng lên”. Cuối cùng chiếc xe không kham nổi. Bánh xe khoét hai rãnh rất rộng cho đến lúc bị nghiêng hẳn một bên và trượt xuống dốc, tông vào cây bên đường rồi bị chặn đứng.

— Chị ấy xuống đi bộ... Lều ở sau mô đất kia, cách đây độ bảy chục mét.

Sau đó ra sao, không ai biết. Tìm thấy cô cách đây chừng hai kilomètres. Gần chỗ cô ngồi độ mươi mét có một đoàn cắm trại, nhưng họ không nghe, không nhìn thấy. Có vẻ như cô đã lết tới đó, dựa lưng vào tảng đá, tay chân giang rộng, tay cầm hoa. “Chị ấy chích từng này ma túy mà không chết thì kỳ lạ thật. Chúng tôi đã chứng kiến nhiều vụ tương tự. Người nào như chị vợ anh sống sót qua những giờ đầu thì nói chung đều thoát được...”

Cô ta ngồi dựa lưng vào tảng đá, tay chân giang rộng, tay cầm hoa. Và chỉ có một mình.

Mặc dầu mọi cuộc tìm kiếm đã tiến hành và còn đang tiếp tục, vẫn chỉ có một mình. Marc Andrea không có đấy.

*

Bây giờ tôi vẫn còn nhớ Palm Spring, các viên cảnh sát nối tiếp nhau đến báo tin họ mất công vô ích đi càn quét hàng hécta rừng rậm, núi non và sa mạc cùng với hàng trăm người tình nguyện và đội vệ quốc đến giúp sức nhưng tất cả đều không hiểu nổi điều gì đã xảy ra với thằng con chín tháng tuổi của tôi.

Tôi cũng nhớ cả ông bố dượng vợ từ Paris hộc tốc chạy đến, nhè đúng lúc này chứ không lúc nào khác để giải thích dài dòng bằng cái giọng kiểu cách của dân Anh Quốc có giáo dục, đều đều không một lúc nào to tiếng, bằng tất cả những rắc rối đã xảy ra - từ chuyện con tôi mất tích đến tình trạng của Catherine tuy thoát chết nhưng chắc chắn không phải là nhờ vào tôi - tất cả những rắc rối ấy đều do lỗi tại tôi cả. Ông ta còn khoan thai khẳng định rằng - có thể ông không thực sự dùng đến từ này, - rằng tôi rõ ràng là thằng đểu mạt hạng nhất có thể gặp trên đời.