← Quay lại trang sách

Chương 3

Sáng 17 tháng năm tôi hoàn tất các thủ tục nộp sáu triệu đôla kí quĩ bổ sung. Khoảng trưa tôi đến Nassau.

Ở đây tôi có những thói quen, nhất là ở khách sạn Britannia. Flint đưa tôi đến Bahamas, chính anh ta cũng đang vội: Vợ anh sắp đẻ, đứa thứ năm hoặc thứ bảy gì đó không rõ, bản thân anh cũng không biết nữa.

— Tôi có thể đi bằng máy bay hàng không.

— Và gì nữa? - Kẻ thừa kế ba bốn tỉ đôla vặc lại - Tôi có phải là người lái máy bay cho anh không nào?

Anh chổng ngược máy bay, ra về. Tôi gặp chủ ngân hàng mất chưa đến một giờ, đòi anh ta cho xem các bảng cân đối, theo ý thích riêng bao giờ cũng muốn nắm chắc có bao nhiêu trong tay, đến từng đôla lẻ. Nên tôi đến khách sạn Britannia vào lúc mười lăm giờ ba mươi. Được mời chọn giữa bể bơi và bãi tắm biển, tôi thuê bể bơi. Mọi chuyện đều từ đấy mà ra...

Thực ra tôi không nhất thiết phải đến Bahamas, ít ra là vào thời điểm này. Đến giây cuối cùng tôi mới quyết định đi, vì New York đổ mưa. Và chuyến đi bất ưng ý này kéo theo nó một cuộc gặp gỡ, nó tựa hồ như một khoảng trời quang đãng vào lúc câu chuyện đang đi vào chỗ ngoặt, đang sắp kết thúc...

Cô ta đang ở đây cùng với một thiếu phụ nữa, trò chuyện bình thản dưới bóng chiếc dù rập theo kiểu túp liều tranh hoặc váy của các vũ nữ Hawai. Bỗng nhiên các hình ảnh cũ chợt tái hiện, vô cùng sống động, dường như từ lâu chúng vẫn rình chộp thời cơ này để hiện lên: Bờ biển bên Châu Phi, dọc theo Ấn Độ Dương, nụ cười giễu cợt mà thân tình cô gửi cho tôi ở Mombasa bữa tôi bị nhốt trong cũi giải đi; cuộc sống chung trong phòng khách sạn White Sands, tiếp đó tại Hong Kong trong biệt thự Stanley do cô chọn để hai người đến ở; rồi cuộc viễn du tức cười qua Châu Âu từ thời tôi còn đang thử sức mình, đi bỏ mối các đồ dùng vặt vãnh và tìm kiếm phương tiện để nện đòn thù xuống đầu một số kẻ.

Chính là Sarah Kyle.

Thiếu phụ kia đã lánh đi. Sarah không hé môi, chỉ nhướng cao đôi mày tỏ vẻ sửng sốt. Bây giờ qua cặp mi khép hờ, cô liếc sang tôi cái nhìn châm chọc mầu xanh rất quen thuộc mà tôi không bao giờ quên. Mãi tôi mới nói:

— Lần em gọi điện cho anh sau cùng là lúc anh đang ở Hong Kong, trong căn phòng của hai chúng mình, còn em ở đâu thì anh không biết...

— London.

— Bây giờ mới được biết. Nhưng vẫn nhớ mãi điều em nói bữa đó, đúng hơn là đêm đó, sau khi báo tin em rời bỏ anh vì một lý do vớ vẩn...

— Anh sắp cưới vợ, cho dù lúc đó chính anh cũng chưa hay. Đối với em, đó là một cái cớ đúng đắn.

— Em đã bảo: “Sẽ rất thú vị khi một ngày nào đó chúng mình gặp lại nhau, một ngày nào đó hoặc sau hai mươi năm, khi anh đã trở thành tỉ phú”.

— Thế bây giờ có thú vị không?

Nước mắt cô trào ra, tôi cũng xúc động chẳng kém. Tôi gật đầu.

— Thú vị đến cười phá lên được.

Im lặng. Để lấp vào chỗ trống ấy:

— Cũng trong đêm đó em còn nói: “Đừng mua ngôi nhà em đến ở.” Bây giờ anh thực sự là tỷ phú rồi, Sarah.

— Em biết. Đọc trên báo.

— Em làm việc ở Britannia?

— Không.

— Ở Nassau?

— Không.

— Ở Bahamas?

— Không.

Tôi nhìn cô chằm chằm, vẫn là Sarah của Mombasa và Hong Kong hồi nào. Và Sarah của Geneva, bữa hai đứa dắt tay nhau giả vờ sợ hãi khi đi qua ngân hàng của Martin Yahl. Làm sao tôi có thể thấy có nét giống nhau giữa Maria De Santis và cô?

— Lấy chồng rồi?

— Sáu tháng. Chưa đến cũng nên. Anh ta làm em bực.

Thân hình cô mảnh mai, rám nắng đều khắp, chiếc áo tắm trắng hai mảnh nhỏ tí không che kín gì nhiều.

— Vẫn làm trong ngành khách sạn?

— Vâng.

— Anh không hỏi em làm ở đâu à?

Cô tủm tỉm, vẻ giễu cợt:“Không nghe anh hỏi”.

Vẫn là Sarah Kyle vĩnh cửu. Với tôi cô là bức tượng nhân sư với cặp mắt nhìn xanh biếc của con gái Ireland. Và cái vẻ đang nghĩ rằng tôi rất đáng nực cười.

— Ăn tối với anh nhé?

Cho đến lúc này cô vẫn ngồi trong bóng mát, tựa lưng vào cọc dù. Cô thản nhiên nằm lật sấp dưới nắng, tháo móc nịt vú.

— Để nghĩ xem. Đưa cho em ít dầu tắm nắng. Tiện tay.

Cô biết chuyện con trai tôi. “Anh Franz, em vô cùng khiếp sợ suýt nữa thì tìm đến anh. Đáng lẽ em nên đến. Hẳn em là người duy nhất trên đời có thể mang lại cho anh chút gì đó vào thời điểm ấy”. Cô cúi đầu một lát, nhìn đĩa thức ăn, rồi dịu dàng nói với vẻ bình thản trước đây vẫn thường làm tôi bối rối: “Lạy Chúa, em đâu biết mình lại quan trọng đến thế đối với anh!” Nếu không phải là Sarah Kyle, cô gái tôi biết rõ bao giờ cũng làm chủ được bản thân, tôi dám đoan chắc vào lúc này cô sẽ òa khóc. Im lặng rất lâu. Cô xua nó đi bằng câu hỏi: “Tìm kiếm ra sao rồi?” Tôi kể về gã người Anh, về bộ máy khổng lồ phức tạp anh ta đã dựng lên. Cô nhận xét: “Khó có thể làm hơn thế.”

Cô biết cả chuyện xảy ra với Marc Lavater. Đã viết thư cho Marc sau tai nạn ở Sorrente, điều tôi không hề biết.

— Không nên ngạc nhiên. Em đã dặn anh ấy đừng nói gì về em với người tên là Cimballi.

Sau bữa ăn tối hôm ấy, chúng tôi tản bộ trên bờ biển, cùng tắm với nhau, cùng trở lại khách sạn. Tôi kể hết cho cô nghe câu chuyện của mười hai tháng vừa qua với đầy đủ chi tiết, cả chuyện mua hòn đảo nọ. Cô nhìn tôi bằng vẻ nhìn riêng chỉ cô mới có, làm như tôi là anh chàng quá quắt nhất đời, ít ra cũng thuộc loại không thể coi là nghiêm chỉnh được. “Chỉ anh mới có những ý nghĩ kỳ cục như thế - Anh là đồ gàn dở chứ gì?” - “Anh còn muốn gì nữa, một bản xác nhận chắc?”

Đáng lẽ rời Nassau ngay hôm sau, nhưng cô nhận ở lại thêm một ngày, không hơn. Tôi cố nài, vô ích.

— Rồi em sẽ biến mất?

— Em phải làm việc, chắc anh vẫn còn nhớ chứ anh bạn thân mến. Hết nghỉ phép rồi. Em chỉ dừng chân nơi đây trên đường từ Ireland về.

— Anh sẽ tìm được em không khó lắm. Sẵn sàng lục soát mọi căn phòng của mọi khách sạn trên trái đất.

— Đừng, không bao giờ nên ép buộc em, anh Franz.

Sự thật là tôi thấy cô tỏ ra lưỡng lự, giống hệt bữa cô còn làm việc cho khách sạn White Sands ở Mombasa và bị tôi thúc đến Hong Kong với tôi. Hồi ấy cuối cùng cô nhận lời gặp lại tôi, với điều kiện phải tôn trọng sự độc lập thần thánh của cô và cô đã thực hiện được bằng cách kiếm việc làm ở đó, hình như tại khách sạn Repuise Bay.

Nhưng hoàn cảnh đã thay đổi, có lẽ vì hôm nay cô không còn là một nhân viên bình thường mà đã có những trách nhiệm nghề nghiệp cao hơn nhất là vì cả tôi và cô đều không còn như xưa nữa. Theo đuổi một mối tình thời trẻ từ lục địa này qua lục địa khác là một chuyện, nối lại mối tình đó sau nhiều năm trôi qua lại là chuyện khác. Vả lại có chắc rằng tôi muốn có cô mỗi ngày, mỗi giờ chăng? Cô hỏi thế. “Chịu đựng em không dễ đâu... Đừng nói gì, anh Cimballi... Em không phải con người dễ chịu đựng, anh cũng chẳng hơn gì em. Vâng, em hiểu, chúng mình tình cờ gặp lại nhau giữa lúc anh đang hoang mang, hơi mất phương hướng và có khi còn tệ hại hơn thế...”

Nhưng cô không muốn hứa hẹn, không như thế này được, trên cơ sở những cuộc tái ngộ tình cờ.

— Anh nghĩ kỹ đi, em cũng nghĩ. Để rồi xem. Chúng mình đâu đã già, phải không anh bạn?

Cô ra đi. Tôi cũng không nán lại Nassau. Trong một hoặc hai giờ tôi cân nhắc xem có nên gọi Callaway giao nhiệm vụ tìm xem cô ấy làm việc ở khách sạn nào (khách sạn này do cô làm giám đốc, ở Montego Bay bên Jamaica, sau này tôi mới biết). Nhưng rồi tôi từ bỏ ý định, chiều theo ý muốn của Sarah. Những sự kiện diễn ra dồn dập, khẩn trương như do một bộ máy nghiệt ngã, dồn đẩy trong những ngày, những tuần sắp tới, không làm tôi quên được Sarah, nhưng chúng tạm thời đặt cuộc gặp lại giữa hai chúng tôi sang một bên.

*

Từ Bahamas tôi bay thẳng sang California. Gã người Anh không có đấy, tôi chỉ gặp một người giúp việc. Thế là đủ để hiểu: Chẳng có tin gì mới.

— Cô gái chít khăn thế nào?

— Đã đưa ảnh cho hàng nghìn người xem. Không có gì chắc chắn.

Nhưng anh phụ tá này có vẻ tự tin. Có lẽ đó là điều làm tôi bực nhất ở anh ta cũng như ở chủ anh, gã người Anh. Vẻ tin tưởng thản nhiên (theo con mắt tôi quan sát) tự cho là mình đi đúng đường, không thể sai chệch tí nhỏ. Vậy mà đã qua bốn tháng rồi. Càng ngày ý nghĩ con tôi đã chết càng rõ nét trong tôi mặc dù tôi điên cuồng chống lại nó. Có những đêm, tôi còn nghĩ rằng thà con tôi chết ngay từ 29 tháng giêng đối với tôi như thế còn hơn là ôm mối hoài nghi đau xót này, có thể sẽ còn kéo dài vô tận.

Từ California bay đi Texas, đón Paul Hazzard dọc đường rồi bay luôn đi Tulsa bang Oklahoma. Tôi ngắm các giàn khoan, chẳng thấy vui cũng chẳng thấy buồn. Mặc dầu nghe nói các giếng khoan dầu tiên cho phép lạc quan rõ rệt, điều đó cũng khiến tôi dửng dưng khi nghe tin về đại hội nông dân bên Ngoại Mông. Thật thiệt thòi cho Paul, anh ta cuống quít trong niềm vui.

Anh không hỏi câu nào về việc tìm kiếm con tôi. Ai còn tin được điều đó nữa.

*

New York, Ute Jenssen và gã Thổ trông hớn hở ra mặt, phần do bản chất họ như vậy và cũng một phần vì việc làm ăn của họ không đến nỗi dở, theo nguồn tin mới nhất.

— Tôi đã bảo là ở bên Mỹ này chúng ta sẽ thủ hòa. Tốt, mà ở bên Châu Âu cũng gần được như thế. Franzy, bọn tôi vừa bơm thêm tiền vào. Sáu trăm ngàn đôla.

— Các bạn tưởng tôi cũng sẽ làm thế chắc?

Ute mỉm cười với tôi từ độ cao một mét tám sáu hoặc tám bẩy, gần hai mét nếu tính cả gót giầy.

— Chúng ta hợp tác với nhau, đúng không?

Trước đây mười lăm phú Rosen vừa báo tin: Sắp có lệnh thứ ba đòi kí quĩ bổ sung gửi cho tôi. Cà phê lại xuống giá nữa. Tôi đáp: “Đợi ít lâu nữa xem sao đã”

Cặp mắt đen, xếch, giống mắt đàn bà của gã Thổ bỗng đanh lại trong một phần trăm giây. Giá như tôi có quên mất rằng con người này dưới vẻ ngoài phóng túng nhưng thực sự có thể là nham hiểm, thì cái nhìn vừa rồi đã nhắc tôi nhớ lại ngay. Gã Thổ là tay kinh doanh tài chính, tình bạn của anh ta đối với tôi có thật, nhưng trong việc làm ăn gã là một kẻ không biết thương xót.

— Cimballi, đã chuẩn bị sẵn đủ các giấy tờ rồi: Năm mươi - năm mươi, bên này chi ra bao nhiêu bên ấy cũng phải chi bấy nhiêu.

Không còn Franz, cũng chẳng còn Franzy nữa. Tôi liếc nhìn Ute. Cô ta lắc đầu: Rất tiếc, luật chơi nó như thế.

Tôi đành phải chi.

*

Năm ngày sau, ngày 4 tháng 6, tôi lại phải chi sáu triệu đôla.

Tôi đã rà soát lại mọi sự kiện của thời kỳ này, như chiếu lại cuốn phim cho tới khi thuộc lòng tất cả mọi lời đối đáp. Và tự hỏi mình: Phải làm gì đây? Nhưng không tìm ra câu trả lời.

Lệnh bổ sung ngày 4 tháng 6, cộng với lệnh ngày 30 tháng tư (350.000 đôla) và ngày 17 tháng 5 (6 triệu) đưa tổng số tiền tôi đã bỏ ra để duy trì hợp đồng cà phê lên tới 12.350.000 đôla. Cộng sáu triệu kí quĩ ban đầu.

Tình thế chưa đến nỗi nguy ngập. Vì đến ngày 18 tháng chín, số tiền hơn 18 triệu này sẽ được trừ vào số 60 triệu tôi phải trả (và xin nhắc lại một lần nữa, tôi chỉ trả sau khi đã bán lại số cà phê tôi mua, với hi vọng được lãi). Trong hoàn cảnh này, điều chủ yếu là phải giữ vững can đảm. Tính từ 4 tháng sáu, còn một trăm ba mươi ngày nữa là đến hạn hợp đồng. Từ nay đến đấy còn có thể xẩy ra nhiều chuyện. Có thể giá cà phê sẽ tăng vọt, những đợt giảm giá vừa rồi có thể chỉ tạm thời, không loại trừ khả năng tăng giá. Nếu bỏ cuộc, tôi sẽ mất đứt số 18 triệu hơn này, không có cách gì cứu vãn nổi, phải giải thể công ty ở Panama. Và bỏ cả số liền lãi cuối cùng có thể vẫn có được mặc dầu các biến cố đang diễn ra. Vì nếu ngày 18 tháng chín, giá một livre cà phê được 250 xu Mỹ thì 14.752 tấn của tôi sẽ được khoản 81 triệu đôla (mà chỉ trả thêm có 42 triệu (và đã trả trước 18 rồi) trong số 60 triệu phải bỏ ra mua số cà phê đó. Tôi sẽ đút túi số chênh lệch giá mua với giá bán, trừ các khoản phí tổn đi, còn được khoản hai chục triệu đôla, tức 90 triệu franc Pháp, 9 tỉ xu. Rõ chưa nào?

Rosen gật đầu. Rõ quá!

Ngày 7 tháng sáu, Joachim Gigio tức Gigi bỗng như tỉnh giấc. Báo cho tôi tin tức không mấy dễ chịu: Các vệ tinh Mỹ không dự báo có tăng giá, hơn nữa anh ta còn nghe được một điều nghiêm trọng hơn nhiều:

— Nghe nói Brazil hục hặc với Bolivia.

— Có đi đến chỗ đổ vỡ được không?

— Có thể lắm?

Bữa ấy tôi vẫn đang ở trong văn phòng Rosen khi Gigi gọi tới Rosen lại lắc đầu:

— Nếu các ông gọi là OPEP cà phê nổ, sẽ dẫn tới sụt giá cà phê kinh khủng.

Chẳng cần có anh ta tôi cũng rút ra được kết luận ấy.

— Tùy ông làm gì thì làm, còn tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện về hưu được rồi.

Tôi chẳng biết làm gì. Đâm ra nghi ngờ tất cả, cả Rosen nữa, nhất là Gigio. Biết đâu họ đầu độc tôi bằng những tin thất thiệt?

Tôi hoang mang, để mười ngày nữa trôi qua. Trong thời gian ấy tôi cố thu thập tối đa thông tin. Ngày 8 tôi lệnh cho Callaway đi Bogota, đi hú họa vậy thôi, không giao việc gì rõ ràng, chỉ dặn đi xem xét tình hình bên đó. Ngày 9 và hình như ngày 12 nữa, anh ta điện cho tôi và nói rằng anh sang Bolivia chẳng có tác dụng gì ngoài việc được xem phong cảnh bằng tiền của tôi chi. “Tôi về chứ?” - “Cứ ở lại. Anh biết Horst. Khi hắn vừa đặt chân đến Bogota là phải báo tin tôi ngay”.

Nhiều ngày qua. Ngày 19 tôi quyết định gọi Marc Lavater ở Chagny. Françoise cầm máy, cho biết Marc vẫn không đi lại được. Chị đưa máy cho chồng. Anh ta nghe tôi từ đầu đến cuối, hỏi:

— Jimmy nói sao?

— Anh ta khuyên: Tung hê tất cả.

Im lặng. Mãi Marc mới nói:

— Anh thừa biết ý kiến của tôi về chuyện này.

Phải gọi đến anh ta xin cứu viện đã là một đòn nặng làm tổn thương lòng tự ái của tôi. Nhưng đành vậy, chẳng tự ái thì đừng:

— Tôi thiếu anh quá đi, Marc!

— Tôi lại vừa bị mổ ở háng. Dù tính mạng có bị đe dọa tôi cũng không thể lết qua phòng khách được.

Tôi cáu thực sự. Gần đi đến chỗ nghĩ rằng anh ta núp sau vụ tai nạn để bỏ rơi tôi. Tôi thấy cô đơn không thể tưởng tượng nổi.

*

Gigio báo cho tôi một tin kì diệu:

— Thế là xong, Cimballi, cắt đứt rồi. Vài ngày nữa sẽ có tin. Chắc thứ hai tới.

— Ai chịu trách nhiệm chuyện đó?

— Hai bộ trưởng Bolivia. Sau lưng là một nhóm tài phiệt Đức và Thụy Sĩ.

— Họ có lợi gì?

— Anh đầu cơ vào giá lên. Họ ngược lại.

Các sự kiện vẫn cứ bướng bỉnh móc vào nhau. Gigio ở Rio vừa gác máy, Callaway đã từ Bogota gọi tới.

— Hôm qua Horst ở đây. Tôi đã chụp ảnh hắn tới gặp hai chủ ngân hàng. Sau đó hắn ăn trưa ở dinh thự nông thôn của một bộ trưởng Bolivia, ông có cần tôi nói tên qua điện thoại không?

— Anh về được rồi.

Thật kỳ quặc. Lúc ấy tôi vừa thấy tức giận lại vừa thấy nhẹ mình. Nhẹ vì cuối cùng tôi đã biết được. Nhưng tôi không quyết định ngay tức khắc. Tôi ra khỏi Pierre, băng qua đại lộ 5, đi bộ vào Công Viên Trung Tâm, hòa lẫn vào dòng người vô tư lự.

Hai giờ sau, ngày 20 tháng sáu, tôi mới gọi cho Rosen. Thanh lý toàn bộ, tung hê tất cả, bỏ hết mọi khoản ký quỹ, bỏ trận địa.

Nói cách khác: Tôi chạy trốn.

*

Trong áp phe này, như đã nói, tôi mất hơn 18 triệu đôla. Một miếng khó tiêu hóa.

Nhưng lại thoát được đòn chết người: Buộc phải mua sáu chục triệu đôla cà phê, qua việc phải liên tục nộp ký quỹ bổ sung cho đến lúc cạn tiền không nộp nổi. Dĩ nhiên, người ta sẽ hạch công ty Panama, bắt nó phải giữ lời cam kết. Nhưng làm gì nổi nó? Ngay trong ngày này, vài phút sau khi tôi ra lệnh thanh lý cho Rosen, công ty Panama sẽ được giải thể. Tôi chẳng có gì để tự hào, tôi tức điên lên, cảm thấy nhục, nhưng đã giữ được mạng. Ấy là tôi nghĩ thế.

Không được lâu. Bảo dọn ăn ngay trong phòng, nhưng chỉ mất công toi vì không thấy đói. Khoảng ba giờ chiều, có tiếng gõ cửa. Tôi nói: “Mời vào”, nhưng không thấy ai vào. Tôi quyết định tự mình ra mở cửa, và chạm trán với Erwin Horst.

Lão tủm tỉm cười:

— Chúng tôi không cố tình, nhưng chính anh cũng thừa nhận rằng chỉ suýt soát một tí nữa thì chúng ta không gặp lại nhau nhân dịp kỷ niệm một năm lần hội ngộ đầu tiên.

Tóc lão vàng hơn so với hình ảnh trong ký ức tôi, nhưng đôi mắt vẫn nhạt như thế, cặp môi vẫn đỏ như thế.

— Chúng tôi?

— Những người hợp tác với tôi và tôi.

Tôi những muốn thử nện vỡ mặt lão. Thử thôi, không chắc đã nện vỡ nổi. Chỉ nói: “Ông từ Bogota về nhanh thật”.

Cặp mắt nhạt màu chăm chú nhìn tôi.

— Anh biết những gì?

Đó là điểm duy nhất tôi ghi được trong cuộc đối đầu với lão. Tôi không mời vào nên lão đứng ngay bậc cửa, gần như ngoài hành lang. Có một cặp đi qua, Horst đợi hai người đi khỏi.

— Được. Này Cimballi, đã tới lúc rồi đấy. Tất nhiên, ta nói về cà phê. Để khỏi mất thì giờ, xin nói ngay: Anh sẽ chết vì nó.

Trong những phút tiếp theo, lão nhồi cho tôi bằng chứng là lão nắm được hết mọi hoạt động của tôi: Tên hai công ty môi giới làm trung gian cho tôi, số tiền tôi đã chuyển cho London và New York cùng toàn bộ các khoản tôi đã chi.

— Anh đã bỏ ra nhiều tiền vốn. Nhưng chẳng vì thế mà khánh kiệt đâu, rõ ràng như vậy.

Lão cười mỉm gần như thân tình:

— Chưa đâu. Nhưng như tôi vừa nói, đã đến lúc rồi. Lúc mà chúng tôi mong đợi từ rất lâu rồi.

Lão rút túi lấy ra một xấp giấy.

— Đơn giản thôi, chúng tôi có cách chứng minh rằng công ty Panama chính là anh, Curacao cũng là anh; khách hàng của nhà băng Nassau, chủ tài khoản 13320 có mật danh Sarah Mombasa cũng là anh. Vào lúc tôi đang nói đây, các công ty môi giới đều đã có đầy đủ các chứng cứ chúng tôi thu thập được. Họ có tất cả các điều kiện buộc anh phải gánh chịu mọi trách nhiệm đã cam kết trong vụ cà phê này. Anh thừa biết: Họ sẽ không bỏ qua.

Xấp giấy vẫn nằm trong tay lão. Tôi không hề động tay cầm lấy.

— Cimballi, tôi đã từng báo trước: Sẽ có ngày anh phải trả ngay, bằng tiền mặt. Ngày ấy đã đến.

Lão lại mỉm cười:

— Cash!

Im lặng. Lão cúi người, đặt xếp giấy xuống đất ngay dưới chân tôi rồi điềm nhiên bỏ đi theo hành lang. Cửa thang máy đóng lại rất lâu sau đó mà tôi vẫn chưa hề nhúc nhích nổi.