← Quay lại trang sách

Chương 5

Từ Paris về St. Tropez, khẩu súng ngắn 9 mm giấu sau các cuốn sách trong văn phòng bố tôi trước kia. Tôi có cả giấy phép mang súng. Giấu kín khẩu súng dưới ghế trước, tôi mở máy.

Trước khi đi Paris, tôi đã gọi điện từ New York cho gã người Anh ở Los Angeles dặn anh ta lập tức dừng cho người giám sát xung quanh dinh thự của Martin Yahl. Không giải thích gì.

Nên lúc đêm khi tôi tới đây, khu này hoàn toàn vắng vẻ đúng như tôi mong muốn. Tôi đã có dịp nói là tôi rất thuộc khu này, đã nhiều lần về nghỉ hè, từ khi còn là chú bé mồ côi được tiếp nhận một cách hào hiệp. Tôi thuộc lòng khu vườn, nhớ rõ cách lọt vào: Đu lên cây trần bì, trèo lên tường, đi dọc bờ tường ba mươi mét, đứng tìm cách vượt qua hàng dây thép gai, leo như thế đến độ cao bốn mét cách mặt đất, cao hơn mái nhà kho cũ. Tại chỗ này, sau mười hai năm tôi vẫn tìm ra lối đi bí mật do tôi chuẩn bị cho những cuộc chạy trốn thời niên thiếu. Một bước nhảy ngắn, tôi đã đứng trên mái nhà kho.

Các phòng khách chỗ tôi đang đứng chừng hai lăm mét. Có ánh đèn phía tay phải, nơi ở và làm việc của đầy tớ, cả ở phía trước mặt tôi, trong căn phòng lớn dưới tầng trệt dùng làm phòng khách - thư viện. Báo cáo của gã người Anh: “Lão ít gặp mọi người, hầu như không có khách tới nhà. Trong nhà lão có ba đầy tớ, hai y tá luân phiên trực, một người ban ngày, một người ban đêm. Tiêu khiển chủ yếu bằng chiếu bóng, đã lắp đặt một phòng chiếu đủ tiêu chuẩn chuyên môn để xem được mọi loại phim. Mấy tháng gần đây đã mua hàng trăm bộ, trong đó có không ít phim con heo. Chi tiết cuối cùng này khiến tôi chú ý. Sự đam mê điện ảnh của Yahl mới xuất hiện gần đây.”

Từ mái kho tôi sang mái bằng của nhà để xe. Sau đó, không cần nhảy xuống đất nữa; ngày xưa tôi vẫn làm thế này, bây giờ cũng vẫn làm được: Đạp chân lên các hòn đá xây nổi, bọc góc tường nhà. Thế là tới được bậc cửa sổ chấn song của căn phòng tôi ngày trước. Chốt cửa không vững chắc, cũng như xưa kia, bật ra, cánh lắp bánh mở tung, nền nhạc mở to của một cuốn phim lập tức tràn ra.

Có thể lão điếc rồi chăng...

Tôi lên đạn. Hành lang. Tiếng nhạc cùng lúc càng lớn. Tôi đi về phía nó, như người lính đi vào trận đánh. Trước đó tôi đã nghĩ phải rón rén xuống cầu thang đi qua đại sảnh thật êm như cái bóng. Bây giờ chẳng cần như thế, trong ngôi nhà này tôi có thể gào lên cũng không ai nghe thấy. Tiếng nhạc ngừng, tiếng nói tiếp luôn, với âm vang đặc biệt của tiếng phim điện ảnh; tôi còn nhận ra được giọng của Pierre Fresnay.

Đã tới trước chiếc cửa kép của phòng khách lớn, tôi khẽ đẩy cánh cửa, một tia sáng đèn lách qua. Tôi bước vào. Đồ đạc vẫn y nguyên chỗ cũ. Cuối căn phòng dài mười lăm mét, một màn ảnh áp sát vào tủ sách.

Martin Yahl ngồi trước màn ảnh quay lưng lại phía tôi. Lúc tôi chỉ còn cách chừng hai mét, lão quay mặt lại.

— Tôi không phải Martin Yahl! Đừng bắn! Tôi không phải Martin Yahl!

Lão già giống hệt Martin Yahl nhưng không phải là hắn khiếp sợ gào lên.

Cuốn phim ngừng chiếu. Tôi chưa bắn, nhưng vẫn có thể bắn ngay sau đó khi các đầy tớ xuất hiện. Họ thấy động không phải vì tiếng ồn ào, mà vì tiếng ồn ào đang rất lớn bỗng nhiên tắt nghẹn vì sự im lặng đột ngột. Cuối cùng tôi không nổ súng vì ba gã vừa chạy đến cứu người giống hệt Martin Yahl đã dẫn ra trước họng súng. Tôi chẳng buồn đi vòng quanh ngôi nhà. Đi ra khỏi đây, súng vẫn trên tay, hoàn toàn tỉnh cơn điên rồ, vừa nhẹ nhõm vì đã không xảy ra chuyện gì, vừa tự nhạo báng mình khi hiểu ra rằng gần một năm nay Yahl đã bịp được tôi.

Trong một chớp mắt chói lòa, sự thật đã đập vào mặt tôi. Mọi chuyện đều sáng tỏ. Để đánh lừa tôi đau đến thế, lừa cả Lavater, cả gã người Anh, tất nhiên phải nghĩ ra một mẹo không thể tưởng tượng nổi. Đây là: Một người giống hệt. Có lẽ từ mấy tháng nay, có khi lâu hơn nữa. Martin Yahl không ở Geneva. Và trong khi chúng tôi rình rập lão với muôn vàn thận trọng ghi chép từng cử động, từng cú điện thoại, từng cuộc gặp gỡ của người mà chúng tôi tưởng là lão, thì lão được tự do bay khắp thế giới. Trong bí mật hoàn toàn. Chắc lão đã đi trước tôi sang Uganda, Brazil, Bolivia, mua các nhân vật vẫn mua, tổ chức và tài trợ mọi chi tiết của chiếc bẫy dành cho tôi, với sự trợ giúp của các chiến hữu phát xít ở Nam Mỹ (xét đến cùng, không phải bỗng nhiên lão đã trở thành một chủ ngân hàng có cỡ của Đệ Tam Đế Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai).

Còn ông cụ sức tàn lực kiệt, gần như đang hấp hối, mắc chứng đau tim, bị chụp ảnh trong khu vườn này và ngay cả London nữa? Không phải lão ta. Lão hoàn toàn sung sức.

Nên cuối cùng lão đã nghiền nát tôi vụn.

Lúc vào như một kẻ cắp, lúc ra tôi qua cổng chính. Qua kẽ chấn song, khuôn mặt tôi trông thấy trước tiên là của gã Thổ, nhăn nhó vì lo lắng:

— Franzy bắn chết lão ta rồi hử?

— Không. Làm gì ở dây vậy?

— Anh bạn Flint gọi điện cho tôi, cùng một người tên là Hazzard và Lupino nữa. Có chắc là chưa bắn vào ai không?

— Chưa!

Tôi gào thật to. Sau lưng, các đầy tớ cũng đã đến sát cổng. Họ đứng lại. Một người nói:

— Chúng tôi đi báo cảnh sát.

— Nhân thể báo cho cả lục quân, cả hải quân Thụy Sĩ nữa. - Gã Thổ đáp

Anh ta giằng khẩu súng trên tay tôi, ngửi nòng. “Tốt”. Giang thẳng tay, chĩa súng vào bọn đầy tớ, thét lên: “Pằng! Pằng! Pằng! Các người chết cả rồi!” Cảnh tượng biến thành hài kịch.

— Chuồn thôi! - Gã Thổ nói.

Gã lôi tôi vào xe hơi, mở máy, vừa lái về hướng Geneva, vừa giải thích: “Các bạn từ New York gọi về báo tin: Rõ ràng anh đang chuẩn bị làm một cú ngu xuẩn rất lớn. Lupino vào phòng anh trong khách sạn Pierre và trông thấy ảnh bọn trẻ con. Franzy, thật tởm! Thằng nào làm chuyện đó đáng bị thiến đi một cái gì. Nhưng anh nhầm: Không phải Yahl.”

— Khó tin lắm!

Gã Thổ lắc đầu: “Nghiến răng có ích gì, Franzy. Sự thật là cả lão Yahl và cả anh đều lên cơn co giật vì hằn thù nhau, chẳng anh nào tỉnh táo sáng suốt hơn anh nào. Không nói về việc làm ăn, trong kinh doanh cả hai người đều thông minh, nhưng đây là nói về chuyện cá nhân. Franzy, không kinh doanh tài chính với những tình cảm xấu trong lòng; đơn giản là không có tình cảm nào hết. Anh có biết vì sao tôi nhào tới lôi anh về không? Vì tình bạn chăng? - Tôi cười khẩy - Chỉ vì nếu để anh bạn trút hết sáu viên đạn, anh sẽ bị ngồi tù. Và như thế sẽ rắc rối cho tôi, anh đang nợ tiền tôi”.

Flint và Lupino đã gọi cho Marc Lavater, Marc chắp liên lạc với gã người Anh, gã báo tin tôi đã ra lệnh ngưng giám sát biệt thự của Yahl.

— Thế là chúng tôi sinh nghi. Tìm khắp nơi xem anh ở đâu. Ở St. Tropez? Gọi về đấy không thấy trả lời. Làm gì bây giờ? Báo cho Yahl chăng? Ngộ nhỡ đoán sai ý định của anh. Sẽ đẹp mặt!

Xe chạy qua Cologny, vào Geneva, xuyên thằng qua thành phố.

Những tấm ảnh nọ làm Lupino tức điên người, cả Lavater cũng thế. Gã người Anh biết chỗ Horst ở, Lupino và Hazzard đến tìm lão. Hazzard nện lão một trận nhừ tử, nhưng sau đó mới biết lão oan trong vụ này. Muộn mất rồi Horst đã vào bệnh viện. Ốm đòn. Tay Hazzard đúng là quái vật.

Qua hết Geneva. Chúng tôi lao thẳng ra sân bay. Gã Thổ: “Không phải Horst, không phải Yahl, vậy đứa nào?”

Sân bay Cointrin. Flint vắt vẻo xì gà trên mỏ, chờ sẵn cùng máy bay của anh. Anh lo lắng:

— Bắn chết nó rồi à, Franz?

— Không chết ai cả, - gã Thổ nói. - Cất cánh cho được việc.

Máy bay vọt lên.

— Giữa hai cái vỗ âu yếm của Hazzard, lão Horst có tiết lộ đôi điều.

Chúng tôi bay trên không phận nước Pháp.

— Anh biết Maria De Santis chứ'? Cô ả không dính dấp tí gì với Yahl hoặc Horst, không phải các lão này thuê, mà một kẻ khác. Đồ rác rưởi đã gửi những tấm ảnh này cho anh. Chính hắn ngay từ đầu đã làm chỉ điểm cho Yahl đồng thời làm cho riêng hắn, chi thêm tiền để tăng gấp bội cực hình mà Horst bắt anh chịu đựng. Horst thú nhận có thuê Marclves theo dõi anh. Nhưng từ đầu tháng giêng, sau khi con anh mất tích, sự theo dõi ấy đã chấm dứt. Marclves chuyển sang làm cho chủ khác. Tên kia liền nối tiếp việc làm của Horst. Vẫn là nó. Anh biết tôi nói về tên nào không?

— Tên bố dượng vợ tôi.

*

Paris. Một giờ sáng. Marc Lavater đã gầy hẳn đi, gầy tọp, đứng chống nạng đón tôi.

Tôi từ chối không theo anh về Chagny, thành ra lại chính là anh đi theo tôi về St. Tropez. Sức lực anh đã giảm sút, đi lại rất khó khăn, nhưng xem ra anh lại là người săn sóc tôi có lẽ anh ngại tôi lại xông vào một trận biệt kích hủy diệt khác, nhằm vào mục tiêu ông bố dượng vợ. Nhưng không.

— Marc, tôi đã một lần ngu. Không thể ngu hai lần. Tôi sẽ có cách khác thanh toán với gia đình bên vợ.

Báo cáo của gã người Anh về người giống hệt Yahl: Một diễn viên già, người Đức, đau tim nặng - đúng như chuẩn đoán của các thầy thuốc tim mạch - ngồi lì trong nơi ẩn dật vàng son này xem phim suốt ngày đêm chờ chết. “Ông Cimballi, sao ông không nói với tôi về cô ả De Santis và những tấm ảnh? Tôi sẽ chứng minh ngay lập tức rằng có hai hoạt động riêng biệt, một cái thuần túy tài chính tuy có kèm theo những thợ ảnh săn đuổi ông, còn cái thứ hai tuy ghép vào cái thứ nhất nhưng thực chất nó độc lập, do tên Jeffries khốn khổ nọ tiến hành”.

“Khốn khổ”, từ này quá nhẹ.

Marc bảo:

— Quên phắt lão đi cho rồi! Anh làm gì được lão? Kiện chăng? Hay làm gì? Thuê bọn giết mướn chăng? Thôi đi, anh không phải là Billy kẻ sát nhân!

Tôi chợt nhớ lại câu của Philip Vandenberg, đại ý: Đánh giá con người qua kẻ thù anh ta. Một kẻ thù tầm thường, đốn mạt, thô bỉ, bẩn thỉu như Alec Jeffries không đáng làm tôi tự hào.

Nhưng thật khó cho qua.

Marc tiếp:

— Mẹ kiếp, anh còn phải làm việc khác chứ!

Trước tiên là thằng con. Nhưng làm gì được, chỉ đợi. Với công việc thì không như thế được, tình hình càng ngày càng xấu. Suốt mùa hè ấy, việc thanh lý toàn bộ tài sản của tôi vẫn tiếp tục. Bên Hoa Kỳ, Lupino bán tất cả của cải của tôi khá thuận lợi, thu hồi được bảy triệu đôla. Nhiều hơn tôi mong đợi, ít đến thảm hại so với số tôi cần có. Ở Paris Cannat đã kiếm được người mua lại căn hộ phố Henri Martin có màu sắc nửa Nhật, nửa Normand. Dưới giá tôi mua, chưa kể phí tổn trang trí: Tôi đã bỏ ra ngót bốn triệu franc tất cả, mà thu về có ba. Tất cả các dinh cơ bên Pháp đều phải bán dưới giá vốn.

Tất cả, trừ St. Tropez. Trước kia, tình cờ tôi mua La Capila qua trung gian một đường dây khác, không qua công ty Panama. Điều bí mật này không bị lộ. Sau này dù xảy ra chuyện gì, tôi vẫn có thể giữ nguyên ảo tưởng mình là chủ nhân. Yahl không thể tước đoạt của tôi điều đó, trừ phi lão tìm được cách tố giác tôi trước pháp luật. Biết đâu, lão chẳng đợi đến phút cuối cùng mới nổ vào đầu tôi phát súng kết liễu?

Trong tháng tám, cuộc điều tra của Lupino cho tôi hay Martin Yahl đã xoay sở như thế nào để vạch mặt tôi ngụy trang dưới cái vỏ công ty Panama và Curacao.

* Điểm thứ nhất: Tờ biên lai của khách sạn Nassau. Hồi ấy chúng tôi có trọ ở đấy thật, khi lên đường ông bố dượng vợ hào phóng đòi trả tiền trọ. Chuyện lạ chưa từng có làm tôi sững sờ cứng cả người; trước nay tuy rất giàu nhưng lão toàn móc vào tôi mà sống. Thật ra, sự hào hiệp hiếm có này che giấu một cái bẫy: Lão làm giả lệnh chi trả của tôi gửi đến ngân hàng bảo thanh toán. Nhờ tờ lệnh giả, lão nắm được chứng cớ hiển nhiên về mối quan hệ giữa Cimballi với Panama: Tờ biên lai ghi rõ phương thức thanh toán đã áp dụng.

* Điểm thứ hai: Tờ hối phiếu của trang trại Arizona. Đúng là ngân hàng Nassau có chậm trễ trong việc chi trả hối phiếu của trang trại cho ngân hàng Phoenix qua trung gian Panama. Đây là yếu tố có thật nhưng đã bị lợi dụng qua việc giả mạo giấy tờ. Khi thư nhắc trả tiền gửi đến trang trại, bố vợ tôi có mặt ở đó trong khi tôi vắng nhà, hình như lão đã đỡ nhẹ lá thư ấy rồi có thể thuê tên chuyên làm giả giấy tờ viết lá thư tôi gửi cho ngân hàng yêu cầu chấn chỉnh công việc. Sau đó chắc lão ỉm lá thư trả lời của ngân hàng gửi cho tôi vì nếu nhận được tất nhiên tôi sẽ sinh nghi. Bằng chứng thứ hai không thể chối cãi về mối quan hệ giữa tôi với Panama, và sự tồn tại của người tên là Cimballi có tài khoản ở ngân hàng Nassau.

Hình như, có thể, chắc là... những từ đó nói lên rằng trong vụ này tôi không có chứng cớ đích xác, đúng như Lupino nói. Anh ta còn nhận xét:

— Còn lại chuyện chúng đã dùng cách nào để biết mã số cho phép sử dụng tài khoản của anh ở Bahamas.

Đúng. Làm ăn dưới cái vỏ một công ty vô danh giữa thiên đường thuế khóa có nhiều điều lợi nhưng cũng có bất trắc: Nếu chẳng may anh gặp chuyện bất hạnh, tất cả các biện pháp anh đã áp dụng khi còn sống để giấu tên kẻ phản lại anh, nói đúng hơn là phản lại các người thừa kế anh. Để phòng hờ bất trắc này tôi đã cho sao thành ba bản tất cả các giấy chứng nhận quyền sở hữu, các tài khoản gửi ngân hàng theo danh mục để nếu tôi đột ngột biến mất con trai tôi vẫn được quyền thừa kế. Ba bản bỏ trong ba chiếc hòm chỉ được mở ra khi tôi chết, một hòm để ở Lausanne, một ở Geneva và một ở Los Angeles. Và chỉ có ba người được phép mở hòm. Thứ nhất, một người được tôi ủy nhiệm ở California, người thứ hai: Marc Lavater và thứ ba là Catherine.

O.K tôi đã hiểu.

Lệnh ký quỹ bổ sung mua cà phê đưa ra ngày 8 tháng bảy. Sáu triệu đôla, tương ứng với đợt sụt giá mới: Mười phần trăm.

Tôi thanh toán hóa đơn.

Tình cảnh của tôi lúc này rõ ràng là thảm hại: Chỉ còn khả năng đáp ứng được một, hai margin calls nữa thôi, với điều kiện chúng không quá lớn.

“Thế cũng chẳng giải quyết nổi vấn đề của anh“, Marc bảo tôi, anh ta có biệt tài làm nổi bật những điều hiển nhiên: ”Cứ giả dụ anh đáp ứng mọi lệnh bổ sung, đến 18 tháng chín anh vẫn còn phải trả nốt số dư”.

Theo đà này tôi vẫn cứ thiếu đến hai chục triệu nữa. Niềm an ủi mỏng manh: Nếu tính cả mười triệu đang bị giam ở Liechtenstein vẫn chưa đủ.

Từ sau màn kịch Thụy Sĩ thô bạo, tôi chưa rời khỏi St. Tropez. Thời gian qua đi, chữa lành lòng tự ái bị tổn thương, tôi nhớ lại màn kịch đó và khó kìm hãm mình tủm tỉm cười. Nhớ lại bộ mặt cụ diễn viên già hoảng hốt, mãi mới được sắm vai mà lại là một vai ngon lành nhất, được hầu hạ như một vị chủ nhà băng, được ngồi xem phim Cặp Mông Sẽ Rít Ba Lần hoặc Những Con Mèo Cái Lên Cơn. Tôi thấy lại ông cụ đứng bật dậy, lột vội bộ tóc giả và gào: “Tôi không phải Martin Yahl! Đừng bắn!” Một chi tiết nổi bật mà suy cho cùng tôi thấy rất tiếu lâm: “Này Marc, đố anh biết khi tôi tưởng ông cụ là Yahl và xông tới sau lưng thì cụ đang coi phim gì?” - ”Không biết“ ”Zorro trở về?“ - “Phim Bé Cái Nhầm của Jean Renoir”.

Tôi vẫn thường xuyên theo dõi việc tìm kiếm Marc Andrea qua gã người Anh. Thỉnh thoảng mới rời St. Tropez chốc lát, nhằm mục đích duy nhất: Kiếm chỗ vay tiền để đến 18 tháng chín thực hiện được cam kết. Chẳng ăn thua gì; có muốn vay tiền mua chiếc tủ lạnh cũng không ai cho. Tuy nhiên cũng có nhúc nhích, như rắn bò.

Đầu tháng tám, tên khốn kiếp Philip Vandenberg lâu nay đã chịu hạ mình quan tâm đến số phận tôi, gọi điện. Sau nhiều cuộc thương lượng gay go với bọn Texas, anh đã thuyết phục chúng mua lại các cổ phiếu Safari của tôi. Chỉ riêng thấy công trình tôi đã từng một mình ấp ủ nay bỗng vĩnh viễn tuột khỏi tay, tôi đã thấy lòng đau như xé. Đã thế, tuy Vandenberg là người có thừa tự tin để mang đi bán dạo, cũng ngập ngừng khi nói giá tiền bọn Dallas trả.

— Bốn triệu rưỡi đôla.

Sáng kiến là của tôi, lại còn bỏ vào đó hơn tám triệu đôla. Thật phát khóc lên được. Vandenberg bằng giọng lạnh băng:

— Ngã giá dứt khoát rồi đấy, tùy anh quyết định. Hạn trong bốn tám tiếng.

Hôm nay mùng 2 tháng tám, còn bốn mươi bảy ngày đến hạn hợp đồng cà phê.

— Bao giờ ký?

— Ngày mai nếu anh đến được New York.

Tôi sẽ đến. Tôi báo tin cho Marc, giữ chỗ trong chuyến bay New York, tôi sẽ qua Nice đi Paris để lên máy bay. Còn được năm sáu tiếng nữa, khoảng thời gian khá ngắn ngủi. Nhưng cũng đủ chứa đựng hai sự kiện cơ bản bật ra từ vòng quay tàn nhẫn của định mệnh, làm người ta thường nói “họa vô đơn chí”.

Trước hết là cú điện thoại của Rosen. Rosen nhận tin từ một thông tin viên của anh ở London: Trên thị trường vừa xuất hiện trở lại một khối lượng cà phê khổng lồ của Uganda. Người ta cứ tưởng số cà phê dơ bị kẹt đến muôn đời trong đất nước đang có nội chiến và rối loạn, vậy mà bỗng nhiên nó xuất hiện.

— Franz, có kẻ - chắc là lão bạn Yahl của anh - đã chi tiền thuê hẳn một đội quân viễn chinh thực thụ để chở bằng xe lửa đến Mombasa. Không phải do số lượng cà phê này được tuồn vào thị trương làm các tay đầu cơ rung động, mà do nguyên tắc của sự tái xuất hiện đó. Các cha biết đòn đã giáng xuống. Họ tìm chỗ ẩn nấp.

— Và tất nhiên cà phê sụt giá.

Sụt kinh khủng. Ngay ngày mai các nhà môi giới sẽ đòi anh ký quỹ bổ sung.

— Ước tính?

— Hai chục phần trăm. Franz ạ, tôi rất ngao ngán. Mười hai triệu đôla!

Tôi cũng vô cùng ngao ngán. Cảm thấy bị một cú trời giáng vào giữa dạ dày..Tính cả bốn triệu rưỡi sắp nhận của bọn Texas, ngày mai tôi có chưa đến mười lăm triệu đôla. Ngày kết thúc đã gần.

Tôi gác máy và bỗng thấy (Marc đã đưa anh ta vào ngồi đợi ở phòng khách trong lúc tôi đang nói điện thoại) trước mặt tôi một người chưa hề gặp. Đó là một luật sư Paris, anh ta thân chinh làm cuộc hành trình xa xôi để báo tin cho tôi: Catherine đòi ly hôn. Còn hơn thế: Cô bắt buộc phải ly hôn và giải quyết thật nhanh, với lí do: “Cách xử sự đáng sỉ nhục của tôi đối với cô Maria De Santis”.