← Quay lại trang sách

Chương 6

Tôi giải quyết các việc gấp gáp trước. Đi New York gặp các nhà kinh doanh Texas, ký các giấy tờ hủy bỏ mọi quyền lợi ở Safari và tiện đường nộp luôn khoản bổ sung mười hai triệu.

Sau đó tôi trở về Pháp. Mất trọn một tuần ôm điện thoại, hết dọa dẫm đến van nài, biện bạch, cuối cùng cũng gặp được mẹ Catherine qua dây nói. Bà bảo:

— Anh mất thì giờ vô ích. Nó không còn ở Paris.

Sau này tình cờ tôi được biết lúc đó cô ấy ở bên Anh, trên vùng đất của tổ tiên Jeffries.

— Và nó sẽ ở nước Pháp, cần bao nhiêu lâu bấy nhiêu.

Nghĩa là trong thời gian chưa xong thủ tục li dị. Tôi cố hết sức giữ giọng bình tĩnh:

— Cô ấy chẳng buồn ngó ngàng gì đến cháu bé.

Im lặng.

— Anh Franz, liệu anh có thoát khỏi tình thế này được không? Tình thế về tài chính ấy.

— Có.

— Bất chấp Martin Yahl?

... Đôi lúc tôi quên bẵng lão ta là anh em con chú con bác với bà này.

— Bất chấp.

Một lát. Bà ta tiếp:

— Điều kỳ lạ là ở chỗ anh có thể thoát ra được. Chúc anh thành công, Franz, lời chúc thành thực của tôi.

Mắt tôi rưng rưng:

— Tôi tin bà.

Đến lúc ấy tôi mới nói rõ vụ De Santis chỉ là mưu mô thâm độc của chồng bà; nói về Marclves; về chuyện hắn được Jeffries thuê bám đuôi tôi sau khi Horst buông ra, nói kỹ nhất về hai tập ảnh, tập thứ hai còn bỉ ổi hơn, mỗi lần nhớ đến là mỗi lần tôi tức điên lên.

— Chính ông ấy, chỉ một mình ông ấy đã gửi những tấm ảnh các cháu bé đến chỗ tôi...

Tôi có chứng cớ gì?

Không.

Im lặng. Tôi tiếp:

— Và chỉ có thế thôi?

— Tôi không hiểu.

— Bà rất hiểu tôi...Ôi, lạy Chúa, tôi cứ tưởng hồi trước bà đã từng có đôi chút thiện cảm với tôi!

Im lặng rất lâu, tôi có thể nghĩ rằng bà đã gác máy. Nhưng thoáng nghe hơi thở dồn dập và nghe giọng nói của bà, tôi đoán biết có lẽ bà còn xúc động hơn tôi.

— Franz, anh thử đứng vào địa vị tôi xem. Liệu tôi có thể tin anh, coi tất cả các điều anh nói là đúng cả? Trong trường hợp ấy...

Im lặng một lát.

— Một lối thoát khác, Franz, là cố lật sang trang tất cả các chuyện ghê tởm ấy. Tôi không muốn cuộc sống hiện tại của tôi tan vỡ. Không thể đặt ra vấn đề đó. Ai dám tự cho phép mình phán xét và trừng phạt? Từ nay trở về sau, tôi chỉ còn biết chăm lo cho hạnh phúc của con gái tôi. Tôi thành thực cho rằng giải pháp tốt nhất cho Catherine và cả cho anh nữa là hai người vĩnh viễn xa nhau.

Giọng bà bình tĩnh lại:

— Và cũng tin rằng vụ Santis quả thật không đáng đếm xỉa. Tôi sẽ dặn Catherine và các luật sư của nó. Sẽ làm sao cho vụ li dị không ồn ào và xong thật nhanh.

— Tôi sẽ làm tất cả những điều bà muốn, nhưng tôi phải giữ lại cháu bé.

— Anh điên sao, Franz? Còn hy vọng gì nữa!

— Tôi vẫn hy vọng. Hãy thỏa thuận với tôi điểm ấy, và mọi việc sẽ được giải quyết rất nhanh.

Chẳng còn gì hơn nữa để đóng chương này lại.

***

Tôi lồng lên suốt tháng tám.

Ngoài dinh cơ St. Tropez tôi vẫn hy vọng cứu được, ngoài hòn đảo Maria Cay, tôi bán sạch sành sanh tất cả mọi thứ có thể bán, giống hệt viên thuyền trưởng của Jules Verne đốt tàu mình để mong tiếp tục tiến lên.

Tôi bồn chồn luôn tay tính toán không biết mệt là gì, đến mức thành thật sính các con tính, nhưng lần nào cũng chỉ tìm ra những con số y hệt: Đến giữa tháng tám này tôi chỉ còn hai triệu rưỡi đôla. Thật là ngàn cân treo sợi tóc. Nếu lệnh bổ sung ngày 5 tháng chín mà lại giáng xuống trong thời gian từ 2 đến 30 tháng tám này, chắc tôi đã nổ tung thành mây khói. Vì lệnh đó bắt nộp sáu triệu, mà tôi chỉ có chưa được một nửa, dứt khoát không phép nào thanh toán nổi, dù bán tống bán tháo được cả St. Tropez và hòn đảo.

Lại nữa, vẫn còn ngày 18 tháng chín đáo hạn hợp đồng. Thật vậy, chỉ còn suýt soát một tị tẹo nữa là... Nhưng sở dĩ tôi còn dãy dụa được trước khi chìm nghỉm là nhờ cô Ute Jenssen ra tay, ngày 29 tháng tám. Từ London cô gọi điện báo tin sẽ tới St. Tropez đúng lúc tôi vừa trải qua bốn ngày buồn ở New York trở về. Cô xuống sân bay nhỏ La Môle, tất cả áo xiêm chỉ vẻn vẹn có chiếc xà lỏn kiểu Tahiti từ núm vú thả xuống và dừng cuộc chạy thác loạn của nó ở cặp mông. Mỗi lần ánh nắng rọi từ phía sau là mỗi lần tiết lộ: Cô không mặc quần lót. Thật quá quắt.

— Anh chả đã nói là ở St. Tropez người ta không mặc quần áo là gì?

— Không đến mức như em.

Cô ôm hôn tôi, hôn Marc, rồi hôn viên sen đầm đi ngang qua.

— Đến đâu rồi, Franzy?

— Có thể còn xấu hơn. Đã thế anh còn sắp đau răng nữa.

— Con?

— Chẳng có tin.

— Vẫn chưa kiếm được tiền?

— Chưa.

Ngoài chiếc xà lỏn, hành trang của cô cũng vỏn vẹn có cái túi du lịch da cá sấu. Cô mở ra, lấy ống dầu tắm nắng, chiếc xà lỏn thay thế, chiếc slip tắm to vừa bằng con át chuồn và tấm séc bốn triệu đôla.

— Em có thể báo cho anh qua điện thoại. Nhưng muốn tự mình mang đến. Gã ngoại kiều giàu sụ lai lịch bất minh đã gãy rồi, anh hiểu chứ? Bọn Thổ trông thế nhưng không vững chắc. Nói vắn tắt: Em đã thuyết phục hắn nhận lời đề nghị của anh: Mua lại các cổ phần của anh ở Safari. Cả hai người đập ống để dành, kết quả đây: Bốn triệu. Quả tình không thể làm hơn.

Cô mỉm cười. Tôi bảo:

— Anh yêu em.

Cô gật đầu, bỗng dưng xúc động:

— Em đáng được thế, anh nhỉ! Chưa hết đâu nhé. Có thể em ngốc nghếch thật, theo nhận xét của gã Thổ, nhưng em không ưng việc anh cố ý rút ra khỏi một áp phe ngon lành và sẽ càng ngày càng ngon tuy hiện giờ ta đang khốn đốn với nó vì đủ thứ. Áp phe này có được là công anh. Papa em rất công phẫn về ý định của anh. Ông có một sáng kiến. Anh biết thế nào là bán đợ chứ?

“Eureka!”

Bây giờ tôi vẫn thấy lại mình ngồi trên sân thượng ngay rìa bãi biển Pampelonne rãi nắng, ký các giấy tờ sẽ mang đến cho tôi bốn triệu đôla, tuy đang gặp nguy cơ mất Quần Vợt Trên Trời sau khi đã mất Safari, nhưng không vì thế mà gục đổ. Trái lại. Tôi thấy mình lúc đó như đang nhảy múa...

... Vì lúc đó, tôi tin chắc đã tìm ra cách khóa mõm các tay môi giới London và New York đang định cắt chỏm đầu tôi, và nhất là cách phá vỡ chiếc bẫy do Martin Yahl dầy công lắp đặt.

Bán đợ.

Cimballi chưa chết được!

*

Ngày 2 tháng chín, hết thời hạn mười ngày, tôi ở San Francisco, có Li và Liu trước mặt đang buồn bã lắc đầu.

— Đáng lẽ anh đừng cất công đến tận đây. Chúng tôi chẳng làm gì được, đã nói với anh như thế rồi. Mà anh cần bao nhiêu? 20 triệu?

Lúc đang ngồi trên máy bay tôi đã tính toán đến lần thứ năm trăm sáu mươi bảy.

— Có lẽ 25 triệu. Chắc chắn là 25.

Họ càng lắc đầu quầy quậy: “Những 25 triệu! Franz ơi, anh điên rồi, mê sảng rồi”. Vào một lúc bình thường khác, vốn liếng chưa bị kẹt trong các khoản đầu tư, họ cũng chẳng chịu nữa là lúc này. “Chúng tôi yêu anh vô cùng nhưng không đến mức 25 triệu đôla”. Và cũng chẳng có ngân hàng nào chịu cho tôi vay.

Tôi hỏi họ câu Ute đã hỏi tôi:

“Các cậu có biết bán đợ là thế nào không?”

Họ biết. Mọi người đều biết. Tại sao tôi không sớm nghĩ ra nó? Bán đợ là bán kèm theo một điều khoản rất đặc biệt, quy định người bán giữ quyền chuộc lại thứ mình đã bán sau một thời hạn do hai bên thỏa thuận. Với điều kiện phải hoàn lại khi đến hạn, không những số tiền mua, mà cả tiền lãi - có thể rất cao - và các phí tổn khác.

Tôi có gì đáng giá 25 triệu đôla cộng thêm lãi và các khoản phụ phí? Đáp: Cà phê của tôi.

Nếu thỏa thuận được vụ bán đợ này, tôi sẽ có tiền trả giá đến hạt cà phê cuối cùng. Tôi mua mất 60 triệu. Rồi đẩy đi ngay, cho dù bị sụt giá nó chỉ còn được có 35 hoặc 40 triệu, tôi vẫn có đủ tiền trả cho người mua đợ của tôi.

Li và Liu nhìn tôi thương hại.

“Ông lớn Cimballi Bé con lanh ma piến thành dở hơi lồi. Cà phê mất giá hằng ngày”.

— Biết rồi. Nói tóm tắt thế này: Tôi mua 180 và 190 một livre, bình quân 185. Theo đà này sẽ chỉ được 140 hoặc 130 trong mười lăm ngày nữa, khi đến hạn hợp đồng. Đúng. Cứ cho là 130. Bỏ ra 60 triệu mua cà phê với giá trung bình 185 livre, vậy là tôi đã mua 14.752 tấn. Đúng không.

— Như anh nói.

— Dù chỉ còn 130 xu một livre, 14.752 tấn vẫn đáng tiền đấy chứ? Khỏi cần tiền, tôi đã tính rồi: Biết rằng mỗi tấn có 2.200 livre (trừ trường hợp họ ăn gian), 14.752 tấn thành 32.454.400 livre. Nhân với 130 là 42.190.720 đôla.

Im lặng. Tôi tiếp: “Đây là lấy số tròn. Trong thực tế thiếu 67 xu”.

Ưu điểm của Li và Liu, hoặc ít nhất cũng là đặc điểm của họ: Khi đã gàn dở đến một mức nào đó thì dù tình thế có nghiêm trọng đến mấy họ cũng cứ bò ra mà cười.

Họ cười bò ra thật.

— Chắc hẳn anh trông mong vào chúng tôi tìm giúp một vị chủ ngân hàng hoặc bất cứ vị nào chịu mua đợ với giá 25 triệu đôla số cà phê nặng... anh vừa nói bao nhiêu tấn?

— 14.752.

— 14.752 tấn theo thời giá, nó đáng 42 triệu, chưa kể giá còn tụt nữa. Anh nhờ chúng tôi thật à?

Không phải chỉ nhờ có họ: Tôi đã lí sự như vậy với Marc Lavater, với Cannat, với gã Thổ và Ute, với Lupino, Rosen và Vandenberg, với Paul Hazzard, Thibodeaux, với Letta, với hàng chục bạn bè làm ăn trong ngành tài chính thuộc nhiều quốc tịch, kể cả với Hyatt ở Hong Kong, biết đâu đấy! Không phải chỉ trông cậy vào Li và Liu thôi, nhưng lộ ra với họ làm họ phật ý thì có ích gì?

— Ngày đáo hạn hợp đồng là ngày 18 tháng chín tới?

— Phải.

— Thời hạn bán đợ là bao lâu?

— Một năm. Đến 18 tháng chín sang năm.

— Từ nay đến đấy cà phê còn mất giá nữa.

— Và tôi sẽ mắc chứng sốt vàng da. Bị rồi đây này, vì phải nhìn các cậu. Mẹ kiếp, cà phê của mình đã từ 60 tụt xuống 42 triệu rồi! Mà còn thụt nữa à?

Li và Liu thôi cười.

— Anh Franz, anh điên gàn thật đấy. Anh có thấy hết hiểm họa không? Giả dụ chúng tôi kiếm ra được một tên - giả dụ thôi nhé - anh sẽ phải trả cho hắn ít ra 30 triệu đôla, vì nó sẽ chịt cổ anh bằng lãi suất. Trả sau một năm hoặc sớm hơn nếu có rút ngắn thời hạn. Nếu không trả được, tất cả cà phê của anh sẽ sang tay hắn. Và lúc ấy anh muốn pha một tách cũng chẳng còn.

— Nhưng mình được một năm. Kiếm giúp chứ?

— Để thử xem cho vài ngày.

— Mình còn 16 ngày. Có lẽ không đến.

*

Từ San Francisco đi New York. Vào đầu giờ ngày 3 gặp Rosen.

“Franz rất tiếc báo cho anh toàn những tin chẳng ra gì”. Một: Anh đã đi một vòng gặp tất cả các nhà kinh doanh tài chính có thể mua cà phê, nhưng vô ích. Hai: Bốn tám giờ nữa tức ngày 5 tháng chín, tôi sẽ phải nộp bổ sung lần thứ sáu với số tiền sáu triệu đôla.

Tính gộp tất cả, số tiền ký quỹ mua cà phê đã lên tới 36.350.000 đôla. Thêm khoản này vào, thành 43.350.000 đôla. Trừ đi 60 còn 17.650.000 đôla.

Tôi giải quyết khoản bổ sung ngày 5 bằng bốn triệu của Ute. Tối hôm đó, các tính toán đơn sơ theo thông lệ cho biết tôi chỉ còn có 600.000 đôla và vài đồng lẻ.

*

Từ lúc ấy tôi chỉ còn biết chờ đợi. Nhiều ngày lần lượt trôi qua theo nhịp đập của các cú điện thoại gọi về phòng tôi trong khách sạn Pierre, nghiền vụn dần mối hy vọng cuối cùng vừa xây dựng nên: Không ai buồn ngó đến khoản bán đợ của tôi. Những người tôi tin cậy hơn cả, Li và Liu, cũng từ Tokyo gọi về ngày 9 tháng chín.

— Không cựa được, Franz. Và tình hình này là không bình thường. Chắc chắn ông bạn Yahl của anh đang giật dây tất cả các chỗ quen biết của lão. Bây giờ mới hiểu bọn Texas lại chơi khăm như thế. Bọn chúng ngoặt với nhau cả đám. Lão Yahl có rất nhiều bạn bè bên Nam Mỹ...

Sarah chọn đúng lúc này để xuất hiện. Cô gọi tôi từ Montego bên Jamaica, trong khách sạn do cô điều hành:

— Nhiều chuyện đau đầu phải không Franz?

— Khá!

— Rồi sẽ qua, em tin ở anh. Anh vượt qua được những cái không ai vượt nổi. Đến với em nhé. Khi xong việc.

— Ừ, sau đấy.

Đó là mùng 10 tháng chín. Ngày 11, người mà tôi tin tưởng hơn tất cả (giám đốc một ngân hàng Pháp, bạn thâm giao của Marc Lavater) cũng tuyên bố chịu phép sau một thời gian lưỡng lự khá lâu. Marc bình luận “Anh ấy bị sức ép kinh khủng của cả bọn Thụy Sĩ lẫn bọn Đức. Và của nhà ngân hàng tư nhân đang cai quản nhóm cạnh tranh áp phe Quần Vợt và đầu cơ lớn vào giá cà phê giảm”.

Lại ba ngày nữa trôi qua. Tôi không rời khỏi chỗ, ít ra là theo nghĩa bóng, thực tế tôi không rời khỏi khách sạn. Đợi điều gì, không rõ. Nhưng vẫn cứ hy vọng sẽ xảy ra điều gì đó.

Trong khi hai phó nhòm tay sai của Yates vẫn lì lợm đứng rình ở cổng khách sạn, hẳn là để chộp được giây phút cuối cùng của cuộc hành trình.

Ngày 14, mừng hụt: Xuýt nữa Vandenberg móc được một chủ ngân hàng ở Boston, chú anh ta. Đến phút chót ông chú duỗi ra, “sau cú điện thoại của ngân hàng phố Fulton mà hồi trước ông là thân chủ, thưa ông Cimballi”. Philip Vandenberg còn đến tận nơi gặp tôi để lý giải nguyên nhân thất bại. Anh lạnh lùng nhìn tôi nói: “Rất tiếc. Thực lòng tiếc. Tôi đã làm hết sức mình. Rất muốn giúp anh. Dù sao cuộc chiến đấu của anh cũng rất ngoạn mục”. Anh ta bỏ về, mấy câu vừa rồi chứng tỏ anh ta có lẽ còn đôi chút tình người, nó bốc tinh thần tôi lên tận mây xanh. Hẳn là tôi đã suy sụp thảm hại nên anh ta mới thương xót tôi như vậy.

Ngày 16, tôi biết thế là hết. Gọi mãi cho gã người Anh ở Los Angeles để báo tin từ nay không có tiền trả anh ta nữa, nhưng không gặp. Tôi rời khách sạn, tản bộ trong Công Viên Trung Tâm. Còn nhớ: Tôi đã đi đến gần mép hồ, quanh quẩn gần vòi nước phun Bethesda Fountain, lắng tai mà không nghe tiếng ba bốn nhạc công đang gảy ghita giữa khói cần sa mù mịt.

Khoảng bốn giờ chiều, quay về khách sạn.

— Có điện thoại, ông Cimballi. Người gọi vẫn cầm máy.

— Chuyển vào phòng tôi.

Giọng the thé chói tai:

“Các Con Chời Táng Kín muốn lói với Ông lớn Cimballi Pé con lanh ma...”.

Tôi hiểu ngay. Một luồn khoái cảm vô biên xuyên qua người tôi như điện giật. Hai anh hề không bụng dạ nào đùa dai trong hoàn cảnh của tôi lúc này...

Tuy rằng...

— Ngố Tàu Mục Nát phải không?

— Ông bạn sẽ lột da đít đây, nhưng xong rồi. Sáng mai có tiền, mười tám triệu.

Không nhớ tôi có cảm ơn họ không. Tôi gào lên, nhảy cỡn lên. Chạy vào phòng tắm, chiêm ngưỡng mặt mình trong gương và tặng nhiều cái hôn thật kêu cho tên ngu xuẩn Cimballi đang hể hả nhìn tôi.

*

Không còn nhiều thì giờ nữa. Ngân hàng nhận vụ bán đợ của tôi là một ngân hàng Tàu, không phải Tàu Hong Kong mà Tàu dân chủ nhân dân, thứ thiệt, có trụ sở ở Hong Kong; có lẽ vì thế nên nó mới dửng dưng trước sức ép của bọn Yahl. Xế trưa 17, tôi đến Hong Kong, ký các giấy tờ chuyển giao rồi biến ngay.

Một chi tiết quan trọng: Tuy là một nhà thương thuyết có tài nhưng tôi cũng chịu bất lực, thời hạn được thỏa thuận không đến một năm, tức đến ngày 18 tháng chín sang năm mà chỉ được đến 30 tháng sáu. Nhưng tôi đâu có quyền chọn lựa?

Tinh mơ ngày 18 tôi trở về đến New York. Đợi ngân hàng mở cửa, tôi vào nhà băng Manhattan lấy tờ cam đoan chuyển giao tiền cho tôi - thực tế là cho các nhà môi giới trước mười hai giờ trưa. Hai tiếng sau, trên máy bay của Flint (anh phải bỏ tiền túi mua xăng) tôi bay đi Bahamas và đảo Maria Cay.

Còn xa - trong trường hợp này phải tính bằng năm ánh sáng - tôi mới giải quyết hết mọi việc. Nhưng dù sao tôi cũng đã có dịp hết sức khoái chí; ngoài việc được người ta ban cho một thời hạn đặc ân, còn được ngắm vẻ mặt của bộ ba Lupino, Rosen và Vandenberg khi tôi cho biết dự định sắp tới. Cả ba giơ hết tay lên trời: Định làm thật à?

— Có luật lệ nào cấm không?

— Nhưng có đời thuở nhà ai lại làm thế! Nhận hàng bằng hiện vật trong trường hợp này!

Tôi đáp:

— Mẹ kiếp, số cà phê đĩ rạc này của ai mới được chứ? Không phải của tôi sao? Vậy, tôi muốn nắm nó trong tay. Cầm tiền của tôi rồi, phải giao hàng cho tôi!

Ý định của tôi thực quả là như thế: Chất đống các bao cà phê khốn kiếp đó lên từng mét vuông hòn đảo của tôi. Dù có phải chồng chất lên nhiều tầng, nhiều lớp, tăng gấp đôi gấp ba độ cao của hòn đảo, gây trở ngại cho giao thông đường hàng không cũng cứ làm.

Tôi chưa thể hình dung số mười bốn nghìn bảy trăm năm mươi hai tấn cà phê sẽ chứa trong từng nào bao. Nhưng chắc sẽ được biết ngay không lâu.

Và vì phải ngồi đếm, tôi sẽ tỉnh táo hết buồn ngủ.