Chương 6
Tôi tỉnh dậy với cảm giác đau đầu khủng khiếp.
Miệng tôi bị dán keo, cả chân lẫn tay bị trói. Tôi nằm trong một chiếc giường trong một căn phòng chỉ có một khuôn cửa sổ rất nhỏ, gắn chấn song sắt, ánh mặt trời đang qua đó phả vào trong. Tôi nhìn thấy bóng chấn song sắt in lên cánh cửa bằng thép nằm ở phía cuối giường, phía bên phải tôi có một cái bàn phủ đầy bụi. Có hai cái ghế cạnh đó, một bồn rửa tay nho nhỏ và một cái tủ đựng hồ sơ nhỏ. Lớp bụi trên nền phòng in rõ dấu chân và những vết kéo.
Tôi muốn nhỏm lên nhưng ngay lập tức lại thả người xuống. Chúng đã trói chặt tôi vào giường.
Vậy là tôi phải nằm yên ở đây, trong khi ngoài kia đang có gián điệp thả sức hoành hành.
Nỗi giận giữ vô biên bốc lên. Tôi giằng dây trói, tìm cách làm lỏng sợi dây đang buộc chặt tôi vào giường và lúc bấy giờ tôi nghe thấy tiếng xe dừng trước cửa nhà. Có tiếng phanh xe. Giọng đàn ông lờ mờ vẳng lại. Thế rồi tôi nhận ra rằng họ bước vào trong nhà. Tôi gắng sức tự giải phóng mình lên gấp đôi, nhưng chỉ thành công một chút. Vất vả mãi cuối cùng tôi cũng luồn được người xuống, chui qua sợi dây buộc chặt tôi vào giường, vươn người ra xa cho tới khi chân chạm vào cánh cửa thép.
Giờ tôi dùng hết sức đạp gót giày khiến cánh cửa bằng thép kêu lên ầm ầm. Nếu những kẻ bắt cóc tôi đang ở trong nhà này, tình thế của tôi chẳng vì thế mà trầm trọng lên bao nhiêu. Thế nhưng nếu đó là những người đàn ông khác, tôi sẽ có hy vọng được giải phóng.
Hết lần này tới lần khác, tôi liên tục đạp vào cánh cửa như một người đã nổi điên, đạp mạnh đến mức những sợi dây trói hầu như đang cắt đứt cả tay lẫn chân tôi. Nghiến răng lại - bùng, bùng, bùng…
Việc anh bạn Phil của tôi đột ngột mở cửa ra và nhìn tôi với nét ngạc nhiên vô hạn thật đúng nằm cả ngoài những ước mơ cao xa nhất. Nhưng đó là sự thật!
- Jerry! - Anh thốt kêu lên. - Jerry, cậu ở đây? Chân cậu ra sao vậy? Tại sao lại…
Anh lao về hướng tôi, giật băng dán mồm, cắt dây trói. Ngay lập tức, tôi giơ tay xoa những vết dây hằn cho hệ tuần hoàn hoạt động trở lại. Phil giúp tôi.
- Kể đi, chuyện gì xảy ra! - Anh thúc giục.
- Khoan dã. Đầu tiên mình cần thật nhanh một cái điện thoại. Quỷ sứ đang chui vào đây rồi!
Bên dưới cánh cửa dẫn ra cửa vào là người lính gác đứng bên cạnh viên kỹ sư.
Tôi muốn ra ngoài và chạy đến máy điện thoại gần đó, nhưng người lính gác giật tôi lại.
- Ở lại đây! - Anh ta sủa lên.
- Đừng làm chuyện vớ vẩn, trời đất! - Tôi gào vào mặt anh ta. - Chuyện gấp lắm rồi, tôi cần nói chuyện với đại tá Westhouse ngay lập tức!
- Cái đó ai cũng nói được! Đầu tiên anh phải giải thích, tại sao anh lại chui vào đây trong cái tình trạng thế kia!
Tôi không muốn tranh cãi lâu dài, giơ tay xuống túi và nhận thấy phía bên kia chỉ lấy đi có vũ khí mà thôi. Bọn người tấn công tôi tin chắc rằng tôi là MacMondry, tin đến mức chẳng thèm bỏ công kiểm tra chứng minh thư.
Tôi dúi cái chứng minh thư đặc biệt xuống dưới mũi người lính gác.
- Thiếu tá Alan D. Jackson, - người đàn ông đọc thành tiếng. Thế rồi anh ta nheo mắt nhìn thẳng vào mặt tôi. - Ở đây có chuyện không ổn. Cái tay đại diện bảo hiểm kia ban nãy vừa gọi anh là Jerry.
Như qua một phép màu, tay anh ta đột ngột cầm một khẩu súng lục. - Nào, giơ tay lên ngay! Đứng cách 10 km tôi cũng ngửi thấy ở đây có chuyện thối!
Lại chính trong tình huống này, tôi va phải một người đàn ông không bị một mảnh chứng minh thư đặc biệt làm lu mờ lý trí. Anh ta đứng trước tôi với nét mặt quyết tâm. Rõ ràng là anh ta sẽ không chần chừ sử dụng đến vũ khí của mình, nếu Phil và tôi không ngay lập tức tuân theo lệnh.
Tôi giơ tay lên và nói: - Đầu tiên hãy nghe tôi nói đã!
- Câm mõm!
Khẩu súng trong tay anh ta làm một cử chỉ rất rõ ràng, ra lệnh cho Phil và tôi lùi về sát tường. Thế rồi người đàn ông nói với viên kỹ sư đang chăm chú theo dõi chuyện xảy ra: - Ông Harriman, ông hãy quay trở lại xe Jeep! Trong xe có máy điện đàm đang nối sẵn với trung tâm. Ông hãy nói vào đó, bảo người ta đưa một đội quân canh gác đến đây ngay lập tức!
- Tốt! - Viên kỹ sư nói và chạy đi.
- Anh làm phí một khoảng thời gian quý báu, - tôi tìm cách giải thích với người lính gác. - Đúng thế, tôi không phải là thiếu tá Jackson mà là sỹ quan đặc nhiệm Jerry Cotton của FBI. Còn đây là bạn đồng nghiệp Phil Decker của tôi.
- Còn tôi thì chắc là Hoàng Đế nước Trung Hoa! - Anh ta gầm vào mặt tôi. - Giờ thì câm mồm đi! Muốn lảm nhảm gì tí nữa sẽ có cơ hội.
- Anh hãy thử sờ vào túi quần đằng sau hông nếu anh không tin tôi! Ở đó anh sẽ tìm thấy chứng minh thư FBI.
- Tôi thèm vào chứng minh thư của nhà anh! Chỉ một cái thôi đã cho thấy cả cái đống đó là mớ giấy lộn.
Đúng trong lúc đó, tiếng động cơ xe Jeep ngoài kia gầm lên. Cái xe lao vọt đi.
- Hắn làm cái gì vậy, thằng ngu? - Viên lính gác chửi bới. - Tôi có bảo nó chạy đi đâu, tôi bảo nó gọi điện!
Phil và tôi nhìn nhau.
Harriman là kỹ sư của Costa Brothers Incorporated, - Phil nói, mơ hồ cảm thấy tai họa. - Có khi hắn cùng một giuộc với bọn lưu manh kia cũng nên.
- Nếu thế thì người lính gác tận tụy trung thực của chúng ta đã cho nó một cơ hội hạng nhất để biến đi và cảnh báo đồng bọn, - tôi nói.
- Cái gì? - Người lính gác hỏi, hơi có phần bối rối. - Bọn lưu manh là bọn nào? Đứa nào trốn thoát?
- Anh đút khẩu súng của anh đi và anh hiểu cho rõ rằng, anh đang bắt lầm người! - Tôi gào vào mặt anh ta.
Giờ thì tôi tự ý bỏ tay xuống, thò tay vào túi đằng sau hông và rút chứng minh thư FBI ra.
- Thử coi mà xem, nó là đồ thật! - Tôi quả quyết với tay lính gác, anh ta mỗi lúc một trở nên ngượng ngùng hơn.
- Nhưng mà Harriman, - anh ta lắp bắp. - Ông ấy là…
- Là kỹ sư của hãng xây dựng Costa Brothers Incorporated! Ngoài ra anh còn biết gì về anh ta không? Chẳng biết gì cả! Có lẽ thậm chí gã còn là người đàn ông sai bảo cho những máy xúc máy đào đó đào và xúc vào nơi sai trái và cố ý gây ra vụ hư hại này! Giờ thì nó trốn đi rồi và cảnh báo cho đồng bọn.
- Ôi trời đất, thế là… - Người lính gác nuốt khan. - Tôi phải làm gì bây giờ!
- Chạy đến điện thoại ngay lập tức và báo cho đại tá Westhouse. Ông ấy cần phải ra lệnh báo động tổng thể, nếu không thì bọn lưu manh bỏ trốn mất!
- Báo động tổng thể? Anh có chắc không?
- Dĩ nhiên!
Tôi chạy vọt đi, Phil bám theo, lao qua mặt người lính gác.
Ra tới ngoài nhà thì anh ta đuổi kịp chúng tôi và kêu váng lên: - Này, anh đặc nhiệm! Chờ đã! Không cần điện thoại đâu! Có hiểm họa trực tiếp và bất thình lình, tôi cũng có thể ra lệnh báo động toàn cục!
Anh ta rút từ ngang thắt lưng ra một chiếc túi bằng da nho nhỏ, rút trong đó ra một cây gậy nhỏ bằng nhựa, bẻ ngòi và ném cái gậy đó lên không.
Cây gậy bắt đầu tóe sáng, thế rồi nó vọt thẳng lên trên cao như một chiếc tên lửa nho nhỏ, cuối cùng nổ một tiếng khẽ giữa không trung. Lơ lửng trên toàn khu vực của căn cứ không quân có hai ngôi sao lớn màu đỏ. Người lính gác đếm thành tiếng, khi anh đếm tới tám thì hai ngôi sao bắt đầu tru còi.
- Người ở trung tâm tốt lắm, - anh ta công nhận. - Con số trung bình ở đây là hai mươi giây ở tín hiệu tên lửa, họ đã hoàn thành nhiệm vụ trong vòng tám giây!
Anh không biết rằng đại tá Westhouse trước đó đã ra lệnh cho toàn bộ trung tâm vào tư thế sẵn sàng.
Thế rồi các sự kiện dồn dập đổ ra. Khi những tiếng còi tru lên, tất cả những tiếng động khác trong toàn khu vực đột ngột câm bặt. Những cái máy đang quay dừng lại. Tất cả xe cộ đứng yên tại chỗ. Rồi một loại công việc khác bùng nổ.
Những chiếc xe Jeep chở lính gác xuất hiện từ mọi hướng và tỏa vào vị trí định sẵn. Một trong những chiếc xe đó lao thật nhanh về nơi có tín hiệu tên lửa được phát ra. Hai người đàn ông mặc quân phục của đội quân bảo an ngồi bên trong đó. Chiếc xe Jeep phanh lại, bụi vẩn lên.
- Có chuyện gì thế William? - Người ngồi bên cạnh tài xế hỏi. - Tại sao cậu ra lệnh báo động cấp cao?
- Đây là hai nhân viên đặc nhiệm, - người lính gác giải thích. - Họ yêu cầu phải báo động tổng thể - và tôi tin rằng họ có lý!
- Không hỏi và không giải thích, tôi ra lệnh. - Đến gặp đại tá Westhouse ngay lập tức!
Phil và tôi nhảy vào xe, cái xe lao vọt đi lập tức, để lại chàng William đứng trong bụi. Đúng lúc chúng tôi leo lên vệt đường đổ bê tông và lao về hướng tòa chỉ huy đường bay thì không gian đột ngột vang tiếng sủa gay gắt của vũ khí cầm tay, chúng chen lẫn vào tiếng còi và vẻ nhộn nhịp nói chung của toàn khu vực.
Chúng tôi đi vòng quanh một cụm nhà thì gặp một chiếc xe Jeep lao xồng xộc tới từ phía đối diện. Một người đàn ông khom lưng ngồi sau tay lái. Một người khác ngồi xổm trên ghế sau và vãi đạn như điên ra xung quanh bằng một khẩu súng máy. Trên đoạn đường mà chiếc xe Jeep đó vừa đi qua, có một người đàn ông đang nằm trong vũng máu, hai người khác đang đứng thẳng và bắn đuổi theo xe. Một người trong đám họ có một vết thương đang há ngoác trên mặt, máu chảy ào ra. Tôi nhận ra ngay lập tức: Đó chính là gã đàn ông khỏe mạnh đã bắt cóc tôi!
- Dừng lại! - Người kia hét về phía chúng tôi.
Tài xế của chúng tôi phanh lại. Người đàn ông nhảy lên và ra lệnh: - Đuổi theo cái xe đang chạy kia!
- Vâng vâng, đại úy! - Viên lính gác cầm tay lái lắp bắp và chiếc xe xoay trở lại.
Thế rồi hai chúng tôi nhìn thẳng vào mặt nhau, viên đại úy và tôi.
- Lại cái mặt anh ở đây! - Anh ta gào lên khi nhận ra tôi. - Ai thả cho anh ra?
- Anh bạn của tôi, sĩ quan đặc nhiệm Phil Decker, - tôi thâm hiểm giải thích và chỉ về phía Phil. - Tôi xin được phép tự giới thiệu: sĩ quan đặc nhiệm Jerry Cotton, FBI!
- Tôi điên mất! Anh là người FBI!
- Vâng, chính tôi, đại úy McLean!
- Anh có biết tôi?
- Biết từ ngày hôm nay, chính xác hơn là vừa ban nãy thôi. Nếu anh gặp tôi cách đây mười phút, chắc chắn tôi đã cho anh ăn đạn rồi!
Cuộc truy đuổi lồng lộn kéo ngang khuôn viên phi trường. Chúng tôi phải tóm chặt vào thành ghế để không bị ném văng ra khỏi xe.
McLean rên lên: - Khốn kiếp, vậy là thất bại thảm hại. Chúng tôi cứ tưởng nhầm anh là MacMondry. Tại sao anh không nói anh là ai?
- Bởi tôi cho anh là thành viên của một băng đảng Gangster!
Chiếc xe kia đi cách chúng tôi một quãng khá xa. Nó lao như điên về mỏm cực nam của phi trường, nơi mực nước Rockaway Inlet đã dâng sát tới mép hàng rào. Một gã nhảy xuống xe và chỉ sau vài động tác đã lẹ làng vạch ra một lỗ thủng trong hàng rào dây thép gai, lỗ thủng đủ lớn cho chiếc xe Jeep chui qua. Vậy là chúng đã khéo léo sửa soạn sẵn vị trí này làm đường trốn chạy. Bất chợt, tôi lại phải nghĩ đến viên kỹ sư của hãng xây dựng Costa Brothers Incorporated.
- Chúng nó thoát mất! - Đại úy McLean tuyệt vọng kêu lên. - Ta không kịp rồi…
Anh nói chưa hết câu, việc đã xảy ra. Từ mực nước đằng trước mặt chúng tôi gào lên tiếng nổ của một khẩu súng máy. Bọn đàn ông trong chiếc Jeep trốn chạy giơ bật tay lên cao. Cái xe quặt ngang. Bọn ngồi bên trong đổ ra ngoài, lăn một vòng rồi nằm lại bất động. Ngay lúc đó chúng tôi tiến tới.
Tôi không hề quan tâm tới hai gã đàn ông máu me bê bết đang nằm co quắp trên nền đất, mà chạy thẳng ra mực nước. Một chiếc thuyền máy chồm lên rồi lao vọt trên nền nước phẳng và chỉ một tích tắc sau nó đã khuất bóng đằng sau mỏm cực nam của bán đảo. Gã đàn ông chờ phía ngoài này, kẻ đã muốn trợ giúp cho cuộc trốn chạy của những tên tòng phạm, đã thấy mối nguy hiểm đối với gã là quá lớn. Gã cũng biết rằng gã không được phép bỏ chúng ở lại đây trong tình trạng còn sống. Vì thế mà gã đã tàn bạo ra tay, chặt đường khai báo…
Tôi đi bộ trở lại. Người ta lăn cho hai kẻ đã chết nằm ngửa ra. Tôi nhận ra chúng ngay lập tức! Đó là hai gã đàn ông tôi đã nhìn thấy trước hãng bảo hiểm Intercontinental và cũng chính là hai gã đã đẩy cho cô Swan bay ra khỏi cửa sổ. Đại uý McLean tiến đến gần tôi. - Chắc là gã đàn ông quan trọng nhất đã trốn thoát, mà lỗi là ở anh! - Anh ta khẳng định. - Nếu anh không thò tay vào chuyện của chúng tôi thì mọi việc đã ổn rồi!
- Đúng thế, nếu tôi không thò tay vào chuyện này thì có lẽ anh chẳng bao giờ nhận ra cái gì đang xảy ra trước mũi anh!
- Anh nói cái gì thế? Chúng tôi đã được chuẩn bị từ lâu rồi! Chúng tôi biết là có một người tên Price sẽ đến đây, là người thẩm định hư hại, nhưng mang trong túi đầy những chứng minh thư đặc biệt. Bởi cánh quân CIA chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ một số vật thể của Nato nên chúng tôi phải chuẩn bị sẵn. Chúng tôi đã tiến hành những biện pháp phòng bị, đã theo sát Price và nhận thấy lối ứng xử của anh ta trước đây hai ngày rất đặc biệt. Anh ta muốn đến gặp một thám tử tư tên là MacMondry. Price đã rũ bỏ được người theo dõi. Chúng tôi đánh mất dấu vết của anh ta. Vì thế mà chúng tôi đã quyết định tóm lấy MacMondry. Một nhân viên của chúng tôi đã nhận được tin rằng tối hôm đó anh ta đi xem hát. Chúng tôi nhận được lời miêu tả anh ta cùng số xe và muốn mời anh ta về để phỏng vấn. Đáng tiếc là chúng tôi đã tóm lầm người. Dù mũi chúng tôi có thính hay là không, thì chính những tiến trình sau đó đã chứng minh sự nghi ngờ: Eddie Price biến mất không vết tích, một kẻ khác đã xuất hiện giả danh anh ta! Ngày hôm nay chúng tôi được biết rằng MacMondry đang nằm trong bệnh viện, nhưng ngay sau đó thì anh xuất hiện ở đây. Một chuyện khó hiểu, bởi cho đến giờ chúng tôi vẫn cho anh là một gã chó săn. Dĩ nhiên là trong hoàn cảnh đó đầu tiên chúng tôi phải loại anh ra khỏi vòng chiến đã, bởi ở đây đang xảy ra một chuyện tồi tệ trầm trọng, chúng tôi biết chắc như vậy.
Từ phía nhìn của anh ta, quả là đại úy McLean cũng có phần có lý. Mặc dầu vậy, tôi không thích cái kiểu cách mà người ta đã áp dụng.
Nhưng qua đó, tôi nhìn nhận rõ ràng hơn cú tấn công bằng lựu đạn cầm tay. Đó không phải là những nhân viên CIA đã bắt cóc tôi, đó là phía bên kia. Cú tấn công đó dành cho MacMondry.
Giờ thì đã có một loạt xe phi tới nơi này. Đại tá Westhouse xuất hiện, đi cùng với anh chàng thấp béo vừa vật lộn với tôi ban nãy. Cổ anh ta được quấn một lớp băng to đùng. Rõ là cú chặt tay của tôi vẫn còn tiếp tục gây hiệu ứng. Qua lời giới thiệu, tôi được biết ông ta là người cầm đầu nhóm quân CIA ở đây.
Nhóm lính gác báo cáo với đại tá Westhouse, các nhân viên DIA mặc dân phục cũng vậy. Mọi chuyện xảy ra đúng y như trong một cuộc tập trận thật.
Thế rồi đại tá Westhouse và ông người lùn quấn băng ngang cổ đi về phía tôi và Phil. Đại tá giới thiệu người đàn ông đó là sĩ quan Swift của CIA, rồi buồn bã nói: - Kế hoạch tập trận của chúng ta chỉ hoàn thành được một phần! Dù chúng ta có thể bảo vệ cho các đối tượng tuyệt mật, nhưng đáng tiếc là chúng ta chẳng còn nhân chứng sống nào. Cả hai gã muốn trốn chạy đã chết, thêm vào đó là hai nhân viên của hãng xây dựng Costa Brothers Incorporated. Vậy là chỉ có một nửa thành công.
- Đó là hậu quả của việc đã rung chuông báo động tổng thể, - Swift tìm cách bào chữa, nhưng cổ họng ông ta vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Từ cái giọng trầm đẹp đẽ đó chỉ phát ra những tiếng khàn khàn. - Chúng tôi đã ngay lập tức đón tiếp anh chàng Price giả khi gã ta tới đây. Mọi việc thật ra không thể trục trặc được nếu gã đàn ông đó đã không hoảng hốt khi nghe thấy tiếng còi báo dộng. Lúc bấy giờ gã ta đã nổi điên lên và rút súng vãi đạn ra xung quanh. Một nhân viên của chúng tôi trúng đạn ngay lập tức, một người khác bị thương nhẹ, lúc bấy giờ bọn trợ giúp cho tên lưu manh kia bắt đầu ra tay. Về cuối thì các diễn viên chính có lẽ cũng thoát khỏi tay bọn anh, nếu không bị chính tòng phạm của chúng ngồi ở thuyền máy giết chết.
- Bởi vì người của chúng tôi đã xuất hiện rất nhanh! - Đại tá Westhouse cãi lại. - Và mọi chuyên lộn tùng phèo thế này là lỗi của phía CIA! Lẽ ra anh phải thông báo kịp thời và cộng tác với phía bên tôi.
- Chẳng lẽ chúng tôi phải nói với ông rằng chúng tôi không tin đứa cháu rể của ông, Eddie Price? - Swift châm chọc. - Theo như tôi biết, chắc chắn ông sẽ tuyên bố chúng tôi là đồ điên.
- Eddie Price là người tốt! - Viên đại tá gầm lên. - Mà vì thế mà hôm qua nó đã bị giết!
- Cái gì? Bị giết? Thế thì ai hôm nay tới dây, kẻ tự xưng là Eddie Price?
- Một đứa khác! Một gián điệp!
Đột ngột, tất cả xoay qua nhìn Phil và tôi. Thế nhưng tôi chẳng thích thú gì cái chuyện chen vào công việc cãi cọ của hai bên.
- Thưa các quý ông, - tôi nhanh chóng lên tiếng, - chúng ta vẫn chưa xong việc. Đòn tấn công của bọn gián điệp mặc dù đã bị bẻ gãy. Nhưng còn một số việc phải làm.
- Ý anh muốn nói sao? - Westhouse hỏi.
- Ngài quên rằng tên đàn ông quan trọng nhất ngồi ở chiếc thuyền máy kia đã trốn thoát?
- Anh có biết gã là ai không? - Cả Westhouse và Swift đồng thanh.
- Thưa các quý ông, đây là khu vực nằm ngoài phạm vi của FBI, - tôi né tránh và trả lại cho ngài đại tá mảnh chứng minh thư đặc biệt. - Sứ mạng của tôi đã kết thúc. Đi nào, Phil, ta phải vội rồi, nhanh lên không con chim bay mất.
༺༒༻
Một nửa tiếng đồng hồ sau đó, tôi ngồi trong quán rượu Nautilus, một quán ăn gần Rockaway Point. Trước mặt tôi là một cốc bia lạnh và phía bên kia của khuôn cửa sổ là một cảnh tượng đẹp tuyệt vời. Cách đó không đầy nửa dặm là một ngôi nhà trắng nho nhỏ được xây theo phong thái thực dân, nó chẳng lớn hơn những chiếc Bungalow hiện đại nằm quanh đó là bao, nhưng nó gây ấn tượng hấp dẫn và lãng mạn hơn nhiều.
Số khách ít ỏi trong quán chẳng quan tâm tới tôi, chỉ duy nhất cô bồi bàn vui vẻ với những đường cong hùng hồn và mái tóc đỏ rực thỉnh thoảng lại nhìn xem liệu tôi có cần gì không.
Thời gian trôi. Chốc chốc tôi lại nhìn xuống đồng hồ. Cuối cùng, chuông điện thoại cũng reo lên. Cô bồi bàn đi về hướng đó. Thế rồi cô nhìn quanh trong phòng và hỏi: - Ở đây có ai là Cotton không?
Tôi lao về hướng máy.
- Hallo, Jerry, - Phil nói dồn dập. - Mình đã có lệnh khám nhà rồi! Đích thân sếp đã cùng mình đi gặp tướng Attorney và giải thích cho ông ấy rõ tình hình. Vì đây là một vụ án liên quan đến an ninh quốc gia nên cái giấy khám nhà này cũng có giá trị ngang với lệnh “tiền trảm hậu tấu”. Cậu có thể bước vào rồi nếu thấy cần.
- Mình chờ thêm chút nữa. Còn gì không?
- Steve Dillaggio đã gọi điện cho cậu chưa?
- Chưa. Cậu ấy thế nào ạ?
- Nếu biết được thì đã tốt! Cậu ấy lao khỏi văn phòng như quỷ sứ. Từ ngoài đó cậu ấy gọi về một vài lần, hỏi cậu ở đâu. Mình đã để lại tin rằng bây giờ cậu ấy có thể gọi đến bar rượu Nautilus.
- Không biết cậu ấy muốn gì?
- Mình không biết. Chắc cậu ấy đã đào ra được cái gì đó hay ho, nhưng không hoàn toàn tin chắc và đã đích thân tới nơi đó để kiểm tra lại. Mình nghĩ như vậy.
- Vậy chờ thêm Steve vài phút nữa. Cho tới nay vẫn chưa nhìn thấy đối tượng. Mình vẫn chưa biết liệu gã đã ở trong nhà hay chưa?
- Nếu nó không quay trở lại nhà thì bọn mình phải làm gì?
- Phải nghĩ ra cách khác. Tốt nhất là cậu tới đây nhanh như có thể. Nếu mình không còn trong quán nữa thì mình sẽ ở trong căn hộ bên kia.
- Tốt, Jerry, mình đến ngay.
Tôi đặt ống nghe xuống và quay trở về chỗ cũ của mình. Không biết Steve đã tìm ra chuyện gì? Anh nhận nhiệm vụ theo dõi tên gác cửa ở hãng bảo hiểm Intercontinental và kiểm tra những nhân viên của hãng xây dựng Costa Brothers Incorporated làm việc ngoài phi trường quân sự. Liệu anh đã phát hiện ra tay kỹ sư không đáng tin cậy kia chưa?
Khoảng nửa tiếng đồng hồ trôi qua, cánh cửa quán rượu bật ra và Phil lao vào trong.
- Này! - Tôi ngạc nhiên nói. - Đi nhanh đấy.
- Steve gọi về chưa?
- Chưa.
- Đối tượng có ở đây không?
- Không.
- Khốn kiếp, lò mò lâu la quá. - Phil trao cho tôi lệnh khám nhà. - Cậu thấy ta ngó vào trong một chút có hay hơn không?
- Mình muốn chờ cho tới khi Steve gọi tới. Rất có thể cậu ấy tìm ra được tin quan trọng. Thử tưởng tượng xem, nếu nhận định nghi ngờ của chúng mình về tên gác cửa kia là đúng đắn! Nếu tên đó thò tay vào vụ này thì hôm nay thể nào gã cũng hoạt động. Gã không có mặt ở phi trường, vậy là gã phải nhận một nhiệm vụ khác.
- Cũng có thể gã đã lái cái xe tải đã đổ xuống sông Mill Basin.
- Không. Mình có nhìn thoáng qua, tên tài xế đó không phải là cái tay canh cửa mặt chuột.
- Vậy là ít nhất bọn mình còn thiếu hai tên trong băng đảng đó.
Tôi cân nhắc rồi nói: - Có lẽ tốt hơn cả là mình sang bên kia xem sao. Cậu ở lại đây! Có thể Steve sẽ gọi điện tới. Mở mắt ra nhìn cho kỹ! Nếu đối tượng muốn vào nhà, cậu sẽ gọi điện sang căn hộ đó. Có số rồi chứ?
- Lâu rồi.
- Thế nhé, cẩn thận đấy!
- Cậu cũng thế!
༺༒༻
Bên trong ngôi nhà sang trọng xứng đáng với vẻ ngoài mà nó phô trương. Ngay phần sảnh đã gây một ấn tượng thật mạnh khiến tôi có cảm giác như mình đang trôi về Hollywood. Đôi chân chìm xuống gần mắt cá trong một làn thảm màu đỏ máu, khi tôi lao nhanh về cánh cửa đối diện, mở sang một phòng khách với một bar rượu rất hùng hồn. Tôi tiếp tục đi qua một phòng ngủ với hàng loạt những tấm gương được sắp xếp hết sức tinh quái, một cái giường rộng khổng lồ và một con đường dẫn sang phòng tắm. Cái phòng tắm đó rộng như một hồ bơi nho nhỏ, nền là những bức tranh ghép, phô bày một tá công đang âu yếm ôm các nàng tiên cá. Mùi hương của một loại nước hoa hết sức đắt tiền tràn ngập không gian.
Tôi rời bỏ cái khu vực tội lỗi đó và lạc vào một khoảng không gian mà chủ nhân của ngôi nhà tuyệt vời này coi là phòng làm việc. Nó được lát toàn bộ bằng gỗ hồng đào và bày ra một chiếc bàn viết khổng lồ. Trên bàn để một chiếc máy điện thoại bọc da.
Nỗi quan tâm của tôi, ngoại trừ chủ nhân của ngôi nhà, giờ đây dành trọn vẹn cho các bằng chứng. Thứ nhất là một bức thư mà Eddie Price đã có lần gửi cho anh bạn MacMondry của mình, một bức thư đã không đến tay người nhận vì bị tóm giữa chừng. Một bằng chứng cụ thể như thế sẽ khiến trái tim của mỗi ủy viên công tố vui mừng nhảy vọt lên.
Tôi cân nhắc, một gã đàn ông có thể giấu giếm một tài liệu như vậy bằng cách nào, nếu thật sự gã còn giữ nó…
Một tiếng động khiến tôi chú ý. Có một cánh cửa đập vào ổ khóa, tiếng bước chân đến gần căn phòng nơi tôi đang đứng. Chắc chắn có người đã bước vào căn hộ, tại sao Phil không cảnh báo cho tôi?
Vội vàng lên! Tôi vừa kịp nấp xuống đằng sau chiếc bàn viết khổng lồ thì cánh cửa đã bật ra và một người đàn ông bước vào phòng. Anh ta chẳng thèm bỏ công đóng cửa lại mà đi ngay về hướng điện thoại, chọn số và chờ đường dây kết nối. Tôi có thể nhìn qua khoảng không gian giữa gầm bàn là anh ta đang rất sốt ruột, hết đổi trọng tâm sang chân này lại sang chân khác. Anh ta đi một đôi giày có lỗ hở, loại dép xăng đan. Đôi dép còn ẩm, đôi tất màu đỏ và một cái quần màu trứng chim bồ câu, trên vải còn hằn rõ những vệt nước.
- Hallo, Buddy, - cuối cùng tôi nghe gã nói. - Việc hỏng cả rồi! Ta phải dọn dẹp chiến trường. Harriman và Nelson bị trúng đòn. Hai đứa còn lại thì tôi phải xử lý, bởi chúng nó không kịp lên thuyền. Tôi vừa đánh chìm con thuyền và về lại căn hộ đây. Sang đây ngay lập tức! Không được phép bỏ phí thời gian!
Anh ta lắng nghe một thoáng rồi nói: - Khốn kiếp, đừng có nói vòng vo nữa! Dĩ nhiên hiện thời chưa có đứa nào nghi chúng mình. Nhưng tốt hơn cả là ngày hôm nay chúng mình hoàn toàn không có mặt ở khu đó, anh hiểu không? Trong một tiếng đồng hồ nữa bọn mình sẽ ra ngoài Islip và không một ai có thể chứng minh được rằng bọn mình tới đó khi nào. Qua đó bọn mình sẽ có chứng cớ vắng mặt và nếu việc trở nên gay cấn, nó sẽ có giá trị vô cùng.
Thêm một lần nữa, gã lắng nghe đầu dây bên kia. Thế rồi tôi lại nghe được: - Tốt. Sang càng nhanh càng tốt! Nhưng chú ý đừng để có đuôi bám theo!
Gã ném ống nghe xuống giá máy và thở dài.
Chắc gã tưởng tôi là hồn ma khi tôi đột ngột nhảy dựng lên và mọc dậy ở phía bên kia bàn viết.
- Tôi cũng đang muốn biết đây, - tôi nói, - liệu anh có để cho nhân chứng cuối cùng còn được sống hay lại lôi anh ta sang Islip rồi bắn chết, ông Bico-Richard Westhouse!
Chỉ thiếu chút nữa thì gã điển trai Bico đã ngất đi vì hoảng hốt. Mặt gã hốt hoảng tột cùng. Gã khó thở. Hổn hển, gã thốt lên: - Wa…Warren?
Tôi gí thẻ công vụ ra trước gương mặt trắng nhợt. - Tên tôi là Cotton! - Tôi giải thích. - Sĩ quan đặc nhiệm Jerry Cotton, FBI!
- FBI! - Gã lào khào. Thế rồi mặt gã đỏ dựng lên.
Gã thu đầu rồi nhảy bổ về phía tôi. Có lẽ cái danh từ FBI gây ấn tượng với gã như cái khăn màu đỏ gây ấn tượng với một con bò tót.
Bico là một gã đàn ông được luyện tập tử tế, mà một người đàn ông khi tuyệt vọng sẽ cố những sức lực không ngờ. Tôi đã một lần được nếm qua sức mạnh của tay này khi gã bắt tay tôi và hầu như muốn nghiến nát những ngón tay tôi ra. Vì thế mà lần này tôi nhất quyết không coi thường đối thủ.
Bước né sang bên, tôi tránh đòn, để cho gã lao qua. Thế rồi nhanh như chớp, tôi thúc khuỷu tay phải vào lá thận bên phải của gã đàn ông đang trôi trước mặt mình. Gã tru lên, nhưng vẫn đứng vững. Mũi chân tôi thúc vào hõm đầu gối của chân đang làm trụ. Kết thúc công việc. Gã đàn ông ngã xuống đất, đập mạnh đến nỗi sàn phòng vẫn kêu lên bất chấp làn thảm trải rất dày. Đầu gã còn ngẩng lên một vài lần nữa, thế rồi gã nằm lại ở đó, nhìn trân trối lên trần phòng với hai con mắt có hai màu khác nhau.
Từ cái miệng méo xệch bay ra những câu chửi rủa độc địa thâm hiểm còn hơn cả lời chửi rủa của một tay buôn lừa Thổ Nhĩ Kỳ.
- Thôi chứ, Bico, - tôi nhẹ nhàng trách móc. - Cô em họ anh mà nghe anh nói lúc này thì sẽ ra sao? Mà nếu cô ấy biết rằng ông anh Bico của cô ấy là một tay gangster, kẻ đã giết chồng cô ấy, đây là chưa nói đến chuyện ông chú Jeff nữa nhé!
Mặt gã Bico xanh rờn ra vì giận dữ khi tôi nói tiếp: - Theo đúng qui định của luật pháp, tôi tuyên bố ông bị bắt giam vì tội làm gián điệp và nghi ngờ giết người. Tất cả những gì mà từ bây giờ ông nói…
- Mày không có bằng chứng! - Gã gào lên. - Tao không giết ai cả!
- Không phải chính anh vừa nói qua điện thoại rằng anh đã giết hai gã đàn ông kia, bởi vì chúng nó không kịp ra thuyền?
- Cả cái đó cũng phải có bằng chứng đã.
Với lòng dũng cảm và cơn giận dữ của nỗi tuyệt vọng, gã Bico đột ngột lao vọt lên cao. Gã tóm về phía chân tôi, với được vào hai mép quần và giật tôi ngã xuống. Không ngờ tới cú tấn công này, cả thân hình tôi đập theo chiều dài xuống dưới đất và ngay lập tức Bico trèo lên trên. Hai bàn tay gã xiết chặt quanh vòng cổ tôi, ấn mỗi lúc một mạnh hơn.
- Giờ thì tao tóm được mày! Cho mày hết đời luôn! - Gã hào hứng gào lên, hào hứng giết chóc như một con chó sói đã nổi điên.
Tôi giơ hai nắm đấm, tách ngón cái ra và đập vào đằng sau tai đối thủ. Gã khổ sở tru lên. Hai bàn tay thoắt lỏng nơi cổ tôi. Gã với lên chỗ đau rồi rên rỉ.
Tôi nhỏm dậy, lùi ra xa lấy khoảng cách an toàn. Một con chuột cống sẽ cắn phá trong mọi tình huống nếu nó có cảm giác cùng đường.
- Ông không chứng minh được điều gì cả, - Bico lại lẩm bẩm rền rĩ để tự trấn an. - Không một ai chứng minh được điều gì hết! Mà Eddie, cái thằng con hoang lén lút chờ thừa kế, tôi đâu có giết nó, mặc dù nó đáng chết.
- Có lẽ, - tôi nói, - có lẽ anh không tự tay giết anh ấy. Nhưng những gì hiện thời đang đứng trong tài khoản tội lỗi của anh cũng đã đủ cho án chung thân rồi.
- Bằng chứng! - Gã lại hào hển! - Bằng chứng!
- Từ từ rồi sẽ tới lúc. Chúng tôi sẽ kiếm được tất cả. Từng phần, từng phần một. Chúng tôi sẽ chứng minh được rằng anh đã muốn ép Eddie Price tham gia hoạt động gián điệp cùng với mình, chắc chắn bởi vì anh đang cháy túi. Cháy túi đến mức độ mà anh không thể chờ cho tới khi một ông chú lại qua đời. Anh được biết rằng ngài đại tá Westhouse đang lên một kế hoạch tập trận giả với Eddie. Lúc bấy giờ anh đã ép người đàn ông kia. Eddie luôn cảm giác là người ngoài rìa trong gia đình này. Chắc chắn bản thân anh đã còn khuếch đại cái tình cảm đó lên. Chắc chắn là anh ấy không dám nói cho đại tá Westhouse biết đứa cháu trai của ông ấy là một kẻ tồi tệ đến như thế nào. Có lẽ anh ấy cũng nghĩ rằng anh ấy có thể nhờ người bạn MacMondry của mình để tạo nên một hành động anh hùng, gìn giữ được một thành viên của gia tộc trước một trò ngu ngốc tởm lợm. Đáng tiếc là anh ấy đã phải trả mạng sống cho lối cư xử trung thực đó.
- Nó là một thằng khố rách áo ôm, - Bico gào lên, - một thằng chơi trò cưới con gái nhà giàu để với tay vào gia sản. Còn tôi, tôi vốn là thành viên của gia đình, lại phải đi xin từng đồng một.
Tôi nhìn quanh trong căn phòng và nói: - Trò đi xin của anh thành công đấy.
- Đây là phần thừa kế của tôi! - Gã lắp bắp kêu lên. - Tất cả là của tôi! Cả phần còn lại cũng phải thuộc về tôi! Tất cả! Tôi sinh ra trong gia đình giàu có… tôi… - Gã đập thình thịch lên ngực như một thằng điên. - Tiền của gia tộc Westhouse phải nằm trong tay tôi, chứ không phải cái thằng Eddie, cái thằng khố rách áo ôm!
Giọng gã đàn ông tắt ngang. Có vẻ như tên khùng này có thể nổi điên bất cứ lúc nào.
- Tới đây anh không phải lo về tiền bạc nữa đâu, - tôi ghê tởm nói. - Cho phần còn lại của đời này, nhà nước sẽ lo cho anh. Những tội lỗi mà anh đã làm vì trò hám tiền của, giờ đã đủ rồi. Đủ để gửi anh chung thân vào đằng sau song sắt.
- Thế ai đưa anh ta vào chỗ đó, thằng cớm kia? - Một giọng nói sắc như dao cạo vang lên sau lưng tôi.
Tôi xoay người lại và nhìn thẳng vào nòng súng đen ngòm của một khẩu 9mm! Nó nằm thật vững thật yên trong bàn tay của một gã đàn ông đã bước vào đây không một tiếng động qua cánh cửa vẫn còn mở rộng. Đó là gã canh cửa trơn nhờn của hãng bảo hiểm Intercontinental!
- Buddy! - Bico kêu lên ngay lập tức và nhỏm dậy từ mặt đất. - Lạy trời, anh đến đây rồi! Giết nó đi, giết ngay! Giết nó nhanh lên! Rồi bọn ta thoát khỏi chỗ này! Nó biết tất cả mọi chuyện! Bắn nó chết rồi bọn ta sẽ trốn!
- Thế đấy, - Buddy nói bằng giọng lạnh như tiền. - Nó biết tất cả.
- Nó nằm đằng sau bàn viết lúc tôi nói chuyện với anh qua điện thoại, - Bico hối hả kể lể. - Tôi không nhìn thấy nó. Nó đã nghe cuộc nói chuyện của chúng ta. Bắn đi chứ!
Buddy bây giờ có khoảng cách thích hợp nhất, gã đứng cách tôi chừng ba bước chân. Ngón tay trỏ của gã nằm trên cò súng. Tôi không có lấy một cơ hội dù là nhỏ nhất để với lấy vũ khí của mình, đừng nói tới chuyện nhảy thoát ra khỏi tầm ngắm của gã.
- Đừng vội như thế! - Gã Buddy cao ngạo nói. - Nếu tôi giết nó ở đây, sẽ có dấu vết.
- Vậy bọn mình lôi nó vào phòng tắm. Mình sẽ để cho nước chảy…
- Thế còn xác chết ném đi đâu? - Tôi chen vào giữa. - Vào khoang đựng đồ trong xe hả?
- Lần này thì không cần đâu! - Bico vui vẻ. - Xác chết sẽ qua đường hào ở dưới tầng hầm ra thẳng mặt nước! Bọn tao ở đây có một đường ra rất đẹp. Chẳng đứa nào nhìn thấy bọn tao đến và đi.
Giờ thì tôi đã rõ, tại sao cả hai gã đàn ông này đã vào được đây mà Phil không nhận ra. Trong cái tổ cáo này có một đường hậu mà chúng tôi không biết.
- Nào, vào buồng tắm! - Buddy ra lệnh. - Đi chầm chậm thôi, không là tao nổi giận đấy.
Tôi không nghi ngờ lấy một nửa giây đồng hồ rằng tên tội phạm này sẽ biến lời đe dọa của gã thành hiện thực. Tôi chỉ có một cơ hội mỏng manh duy nhất, nếu tôi ngay lập tức nghe lệnh gã, bước về phía phòng tắm và trên đường đi tìm lấy một cơ hội, tìm lấy một phần nào đó của giây đồng hồ để thoát khỏi tầm ngắm.
Đây là việc không đơn giản, cách cư xử của gã thông báo cho tôi biết vậy. Gã lùi một bước về phía sau và yêu cầu tôi đi trước.
Từng bước, từng bước một, tôi đi thật chậm về phía trước, đi ngang qua mặt Bico, gã vội vàng né sang bên. Đúng lúc đó, chuông điện thoại reo lên! Cả ba người giật nẩy mình. Theo bản năng, Buddy nhìn một giây đồng hồ về hướng máy và tôi nhảy tới!
Tôi bay sang bên. Một tiếng súng vang lên. Tôi cảm nhận một vệt lửa quệt ngang qua hông phải mình. Thế nhưng lúc đó tôi đã đến cánh cửa đang mở và ném mình ra đằng sau nó. Buddy xả đạn như điên vào gỗ. Nhưng ngay sau đó tôi đã có khẩu P38 trong tay. Tôi nhìn thấy Bico cúi người chạy ra đằng sau bàn viết. Gã kéo một ngăn kéo ra và thò tay vào trong. Trước khi gã kịp rút khẩu súng để bên trong đó ra, tôi bắn vào bắp chân gã. Bico gào lên, giơ tay sờ chỗ trúng đạn và thả người lăn xuống đất.
Điện thoại vẫn reo. Giữa hai tiếng chuông, tôi nghe Buddy đã bắn hết đạn, đi sang bên đó để nạp lại.
Tôi đạp cánh cửa thật mạnh. Nó đập sầm vào ổ khóa. Ngay lập tức, Buddy xả đạn vào gỗ. Khom người thật thấp, tôi đến bên bàn làm việc, giơ tay với ống nghe xuống và lên tiếng: - Hallo?
- Jerry, cậu hả? - Phil hốt hoảng.
- Mình đây.
- Tin quan trọng! Steve vừa đến đây xong. Cậu ấy bám suốt thời gian qua đằng sau tay gác cửa. Đây là một tên tội phạm bị truy lùng vì nhiều tội lỗi khác nhau suốt mấy năm qua. Hiện thời nó đang ngồi trong một ngôi nhà nhỏ gần đây.
- Thằng gác cửa đó ở đâu? - Tôi hỏi.
- Trong một ngôi nhà nhỏ, cách đây hai dặm.
- Không, nó đang ở bên cạnh mình đây! - Tôi ngắt lời. - Mà anh bạn Bico cũng thế. Tay này đang nằm ra sàn phòng và rên lên, còn Buddy thì đang rình ở ngoài cửa kia.
Chính trong lúc đấy, Buddy lại bắt đầu nhả đạn.
- Nghe thấy chưa? - Tôi nói. - Nó không buông tha mình!
- Mình tới ngay! - Phil kêu.
Giờ thì không gian thật yên tĩnh. Chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng thở hào hển của Bico. Tôi đã định chờ cho tới khi Phil vào nhà để kẹp lấy Buddy từ hai phía thì chợt nhớ ra rằng ngôi nhà còn một đường thoát bí mật! Cú xả đạn điên khùng vừa rồi của Buddy có thể cho biết gã muốn nhấn mạnh sự có mặt của gã lần cuối, để ngay lập tức trốn đi. Tôi nhón chân đi về phía cửa, vào tư thế sẵn sàng đằng sau nó rồi giật nó ra. Không phản ứng! Tôi nhìn vào căn phòng cạnh đó: trống rỗng. Tôi nghe tiếng sập cửa từ phía ngoài và chạy vọt tới.
Một chiếc gương cứu mạng tôi!
Đó là một trong những mánh khóe thượng hạng của tên Buddy lành nghề. Nhưng gã đã bỏ qua một chi tiết nhỏ. Là tay chuyên nghiệp, gã đã tính ra phản ứng của tôi sau khi những viên đạn cuối cùng được găm vào cánh cửa. Gã biết tôi sẽ đoán được gã muốn trốn đi qua con đường bí mật. Vậy là gã đi ra khu sảnh, sập cửa vào khóa, nhưng vẫn ở lại trong nhà. Gã chờ tôi đi theo nhằm ngăn chặn gã trốn chạy qua đường hầm bí mật. Và suýt nữa tôi đã mắc lừa! Thế nhưng khi bước ra sảnh, ánh mắt tôi theo bản năng lướt vòng quanh và lướt qua cả mảnh gương nhỏ treo ở khoảng tường đối diện. Kia! Buddy lăm lăm súng bên cạnh cửa, chính cạnh cái cửa mà tôi đang định bước tới.
Với tay lấy một chiếc gối dày trên ghế sofa, tôi đi tới khuôn cửa đó và giơ cái gối ra trước mặt mình. Vừa giơ nó qua ngưỡng cửa, súng của Buddy đã nổ. Tiếng la thét hãi hùng mà tôi thốt ra lúc đó là một động tác đánh lừa tiếp nối. Với nụ cười ngạo nghễ trên mặt, Buddy vòng qua góc cửa và suốt đời tôi không quên được vẻ kinh hoàng trên mặt tên tội phạm chuyên nghiệp khi gã nhìn thấy tôi vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, đứng sừng sững trước mặt mình.
- Gương kia ngự ở trên tường… - tôi chỉ nói có thế. Rồi nhanh như chớp, tôi đập một đòn cho gã gục xuống, để ngăn chặn tất cả những trò ngỗ ngược khác…
Chúng tôi tụ tập về để báo cáo cho sếp nghe, Phil Decker, Steve Dillaggio và tôi. Steve lên tiếng trước: - Khi Jerry trao nhiệm vụ thực hiện những công việc điều tra bài bản, tôi đã chọn đối tượng thứ nhất là tay gác cửa. Khi người ta mang lại cho tôi vân tay của kẻ tình nghi, tôi đã cho nhận dạng nó và được biết đây chính là tên Ivor Malik với biệt danh Franz Buerer, biệt danh Stan Whitney và biệt danh Eric Anderson. Tên này bị tình nghi làm gián điệp và giết người từ lâu rồi! Tôi đến đó, định hỏi cung gã, nhưng chỉ vừa kịp nhìn thấy gã trốn vào một chiếc xe Ford đậu trước cửa nhà. Tôi đuổi theo chiếc xe này tới ngôi nhà nhỏ ở miền Rockaway Point. Trên đường đi tôi muốn gọi điện gặp Jerry, nhưng được biết là cậu ấy đang ngồi chờ Phil ở quán rượu Nautilus. Sau này khi vào quán rượu, tôi thấy Phil đang ở đó. Jerry vào thời điểm này đang ở trong căn hộ của Bico tức Richard Westhouse. Vì vậy chúng tôi đã quyết định gọi điện sang đó.
- Cú điện thoại của các anh không sớm một giây, - Mr. High nói. - Còn chuyện của anh, Jerry. Anh nảy mối nghi ngờ Richard Westhouse từ khi nào?
- Khi gã khẳng định rằng bản thân gã cũng nhận được một cú điện thoại của Eddie Price. Cả cú điện thoại mà cô nữ thư ký nhận được cũng khiến tôi ngạc nhiên, bởi lúc bấy giờ kẻ gọi đầu dây bên kia có giọng nói của người cảm lạnh và ra lệnh cho cô thư ký đặt tập hồ sơ của hãng xây dựng Costa Brothers Incorporated lên bàn làm việc của Eddie Price. Chắc đó phải là một người biết rất rõ về công việc của Eddie mới có thể đưa ra những thông tin chính xác như thế. Bico biết điều đó, bởi Eddie hiện thời đang dạy nghề bảo hiểm cho Bico.
Mr. High lắc đầu. - Nếu cái tay Bico này tập trung sức lực cho một công việc đứng đắn tử tế, có lẽ gã ta sẽ kiếm được không ít tiền. Nhưng gã lại chọn con đường tội phạm. Đó là trò làm ăn chẳng mấy khi lời! - Ông cầm lên một tờ giấy đặt sẵn trên bàn. - Tôi mới nhận được tin báo qua điện thoại, có lẽ anh sẽ quan tâm, Jerry. Cô Swan và ông MacMondry đã khỏe hơn nhiều. Cả hai người gửi lời chào anh. Họ mong anh đến thăm họ ở nhà thương.
- Chắc chắn!
- Thế thì bây giờ anh có thể rời sở ngay! Tạm biệt các quý ông!
Khi chúng tôi đứng trước cửa, Phil tóm lấy tay tôi và nói: - Nghe rõ chưa, Jerry? Nhiệm vụ bây giờ của cậu là đến nhà thương thăm bệnh nhân đấy!
- Mình biết rồi. Tại sao cậu nói vậy?
- Để cậu đừng có nảy ra sáng kiến đi vào nhà hát nữa!
Chúng tôi chia ra làm hai nhóm bám sát hai bên hành lang. Cứ nhảy đến mỗi cánh cửa, chúng tôi lại dừng một thoáng. Nhưng chẳng một kẻ nào, chẳng một họng súng nào bắt chúng tôi cúi xuống ẩn nấp. Norman Grand tăng tốc. Anh muốn dọn đường sẵn cho chúng tôi, anh muốn đạp văng cánh cửa gỗ đối diện.
Một cơn lốc những vụn gỗ nhỏ màu trắng gầm vào mặt anh, đẩy anh bật ngược trở lại.
Không một mảnh đạn ghém nào đi trật đường. Cơ thể Norman Grand hứng trọn. ít nhất cũng thuộc cỡ P12.
Norman Grand đập xuống nền hành lang với một tiếng động trầm, gắt. Từ thắt lưng cho tới ngực, máu chảy ra thấm đẫm bộ complê. Vô vàn những mảnh gỗ nhỏ đã cắm phập vào làn vải. Một cái lỗ ngoác ra trên cánh cửa gỗ, rộng bằng một nửa chiếc lốp ô tô. Các đồng nghiệp cũng như tôi đều biết rằng giây phút này không phải lúc được phép kinh hãi, bối rối. Phil và tôi ném cho nhau một cái nhìn thật nhanh. Hai chúng tôi đang đứng ở vị trí dẫn đầu hai cánh.
Chúng tôi ném người xuống đất, bắt đầu bò tới. Tôi đẩy khẩu 357 trườn trước mặt mình. Phil vận chuyển khẩu Magnum của anh bằng phương thức tương tự. Với bàn tay còn rảnh, tôi ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp. Họ đang đứng ẩn trong những khuôn cửa khác. Ba thanh tra hình sự của cảnh sát thành phố, một đại diện của đội đặc nhiệm chống thuốc phiện. Tất cả đều biết rõ kế hoạch. Những căn phòng xung quanh đều trống. Từ đó hoàn toàn không có cửa dẫn vào căn phòng của gã đàn ông nhả đạn đứng ở cuối dãy hành lang, thẳng trước mặt chúng tôi. Mọi chi tiết đều đã được bàn luận trước.
Chúng tôi đâu nghĩ tới khả năng nhân viên đặc nhiệm chống thuốc phiện Norman Grand trong một phút bất ngờ lại tỏ ra thiếu cẩn trọng như vậy.
- Hermoso! - Thanh tra thiếu úy Fred Chambers thét lớn. - Lucino Hermoso! Cảnh sát đây! Ném súng ra ngoài, nếu không chúng tôi sẽ nổi lửa!
Gã đàn ông phi chùm đạn thứ hai ra khỏi nòng súng. Lần này theo hướng chênh chếch, đúng như tôi đã linh cảm. Cơn gió xoáy của những dằm gỗ trắng lướt qua người tôi. Những viên đạn đập vào tường, tạo thành một chiếc quạt xòe đầy tử khí. Tiếng nổ gầm dọc hành lang như tiếng sấm. Những vụn vữa li ti rơi xuống.
Căng toàn thân, tôi lao vọt tới. Cánh cửa gỗ bây giờ chỉ còn là một trò đùa hời hợt, nó gục ngay xuống như một mảnh giấy đã cũ mèm. Luồng ánh sáng mặt trời bị cắt thành những dải ngang đâm qua lớp mành mành đang hé mở. Tiếng gẫy và vỡ của cánh cửa đưa tôi trượt vào khoảng không gian bất an của một căn phòng lạ. Dù đầy đồ đạc hay không, nhưng tình trạng mù mờ về vũ khí của đối phương là yếu tố trầm trọng hơn cả. Có phải gã dùng một khẩu Shotgun hai nòng? Hay một khẩu súng máy Pump-Action?
Câu trả lời gào vào mặt tôi ngay trong khi tôi lăn dưới đất.
Chùm đạn thứ ba từ nòng súng hà hơi trên mình tôi. Sát sạt. Nó nóng dẫy như một lời chào thần chết. Một phần những viên đạn cắm vào chiếc máy truyền hình. Tiếng nổ của chiếc tivi chìm xuống trong tiếng gầm của vũ khí.
Tôi đập người vào một giá gỗ hai tầng, vốn dùng để chưng chậu hoa, nay xếp đầy những lon bia rỗng. Lon rơi xuống lả tả, ầm ầm như một tràng cười phù thủy. Giá gỗ gẫy xuống làm đôi. Gặp một ghế bành cũ ngăn vòng quay, tôi nhảy vọt lên. Vừa nhảy, khẩu súng của tôi vừa bay về tư thế nhả đạn.
Phil đang tiến vào qua cánh cửa mở.
Thằng Hermoso lập tức xoay nòng súng P12 của nó về phía đó.
Phil và tôi nhả đạn cùng lúc. Hai khẩu Magnum khiến cả nền phòng, trần phòng lẫn bốn bức tường rung lên. Những khuôn cửa kính run bần bật. Chúng tôi không có điều kiện để ngắm cho chính xác.
Hermoso lùi về sau một bước. Mồm và hai con mắt nó mở to. Thằng gangster gục rơi xuống cái bàn salon. Chùm đạn thứ tư bay ra khỏi nòng của khẩu bắn đạn ghém. Những viên chì khoét một lỗ trên trần phòng. Hermoso bây giờ nằm ngửa, bất động. Khẩu súng đạn ghém dựng thẳng từ người nó xuống đất, như thể muốn nhả đạn một lần nữa.
Sau những tảng vữa lớn, giờ đây trần phòng đang từ từ thả xuống những quầng bụi nhè nhẹ màu trắng.
Phil và tôi tiến lại gần kẻ đã chết với sự thận trọng như khi tiệm cận một kẻ thù còn sống. Đây là một nguyên tắc bất di bất dịch. Lucino quả thật đã bỏ mạng. Nhưng thực tế cho thấy, có không ít bác sĩ cũng đã nhầm lẫn trong những trường hợp như thế này.
Tôi đút súng vào bao. Trong khi Phil giữ cánh tay phải của kẻ đã chết thì tôi thận trọng gỡ ngón trỏ của hắn ra khỏi cò súng. Sau đó, chúng tôi mới có thể rút vũ khí ra khỏi tay hắn. Nòng P12, đúng như tôi đã đoán trước. Tôi tháo đạn của khẩu Shotgun. Một chùm đạn màu đỏ rơi xuống đất.
Từ hành lang vẳng lại giọng nói của một bạn đồng nghiệp đang đòi xe cấp cứu. Một yêu cầu rất con người: Nó thể hiện ước muốn bám víu vào một khả năng đã từ lâu bị trôi sang miền bất khả thi. Bởi trong ngôi nhà này, tất cả chúng tôi đều biết rõ như vậy, chẳng còn người nào cần tới sự trợ giúp của bác sĩ cứu thương. Nhưng tình cảm không cho phép chúng tôi quyết định theo sự thực.
Các bạn đồng nghiệp bước vào phòng, mặt như đã hóa đá. Ngoài kia vẳng tiếng còi báo động. Một loạt xe đi tuần và các loại xe công vụ khác cho tới nay vẫn ở tư thế bao quanh khu nhà, nay tiến sát vào trong. Toàn bộ khu vực quanh ngôi nhà số 349 trên phố Elbertson của khu Elmhurst, Queens, bây giờ trở thành điểm tụ quân.
Chúng tôi không sờ vào bất cứ một vật gì, chúng tôi chỉ nhìn quanh.
Ngoài kia, tiếng còi xe của cảnh sát đã dịu xuống, nhường chỗ cho tiếng còi của xe cứu thương đang ập từ xa tới. Chỉ trong những phần tối của con phố, người ta mới nhận ra những ngọn đèn đỏ đang xoay. Ở phía ánh mặt trời còn phủ xuống, ánh đèn đỏ trên những chiếc xe đi tuần không có cơ hội đua tranh trong cái nắng thu chói chang. Nhìn ở đâu cũng thấy những bộ cảnh phục màu xanh của cảnh sát thành New York. Nhóm mặc đồ dân sự thì đeo những tấm thẻ công vụ lấp lánh ở những nơi dễ nhìn.
Cả chúng tôi cũng cài những tấm thẻ FBI óng ánh màu vàng ra ngoài túi áo ngực.
Ludno đã sống một mình trong căn phòng này. Căn phòng rộng gần 30 m2 có bồn tắm riêng và một khuôn bếp nhỏ. Sự bừa bộn nơi đây chỉ ra rằng nó đã luôn được dùng làm tụ điểm hội họp cho một số lượng lớn những con người ưa sống bừa bãi, bẩn thỉu. Nhìn ở đâu tôi cũng thấy những lon nước, những chai bia đã rỗng. Tạp chí và báo vứt tung tóe mọi nơi. Phủ trên những mảnh vỡ của chiếc tivi là một núi con con những băng video cassette đã đổ xuống từ kệ gỗ.
Bất chấp vẻ hỗn mang xung quanh, bọn người sống trong căn phòng này đã thu gom tất cả những ống nhỏ đựng Crack và ném vào thùng rác. Những ống còn thuốc thì được giấu ra đằng sau những chồng bát đĩa nằm trong cả hai khuôn tủ treo. Chúng tôi tìm thấy từng chồng, từng chồng hộp nhỏ, mỗi hộp chứa tới 50 ống Crack.
Tôi đi ra ngoài hành lang.
Nhân viên đội đặc nhiệm chống thuốc phiện George Gallagher quì xuống bên cạnh người bạn đã chết của mình. Trông anh như người đang tuyệt vọng gắng gượng để giúp đỡ, nhưng anh không biết mình phải làm như thế nào. Anh nhìn lên tôi.
- Tại sao? Khốn kiếp thật! Sao cậu ấy lại làm như thế hả Jerry? - Giọng nói cất lên nhưng muốn nghẹn.
Trong một thoáng, tôi im lặng nhìn xuống người đồng nghiệp đã qua đời. - Tôi không biết, George, - tôi nói. Cả giọng nói của tôi sao bây giờ cũng trở thành xa lạ. - Không một ai trong chúng ta có thể biết được.
George Gallagher nhăn trán. Có vẻ như anh không hiểu tôi vừa nói gì. Nhưng rồi một thoáng sau đó, anh chợt gật đầu. - Có lẽ ngày mai chúng ta cũng như thế này, - giọng anh xa vắng. - Nếu cái chết của Norman Grand có một ý nghĩa nào, thì đó là lời cảnh báo cho tất cả chúng ta.
Tôi đau đớn nhắm mắt, rồi lại mở ra và gật đầu với anh. Norman Grand là bạn chí cốt, là người cặp đôi với George trong công vụ. Tôi rất hiểu tâm trạng George lúc này. Chỉ một vài giây đồng hồ thôi, Norman Grand đã nhào ra khỏi những khuôn phép của một lý trí tỉnh táo. Có lẽ đó là cảm giác thượng phong, là cảm giác chắc chắn chiến thắng, hoặc đơn giản chỉ là nỗi quyết tâm đóng góp một phần vào cuộc chiến chống lại làn sóng thuốc phiện, đang mỗi ngày một dìm sâu hơn sợi dây thần kinh của thành New York. Con số các tội phạm mỗi lúc một dâng cao hơn. Mỗi ngày trong thành phố của chúng tôi có trung bình bốn người bị giết. Còn số lượng các vụ tấn công có bạo lực thì gấp nhiều lần như thế.
Crack, thứ thuốc phiện của quỉ Sa-tăng, là một trong những nguyên nhân chính.
Đối với các chuyên gia trong ngành, lời khẳng định này đã chắc chắn như đá tảng. Tròn 40% tất cả các tội phạm có bạo lực, theo con số thống kê trong ngành, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuốc phiện Crack.
Bởi cái hỗn hợp được tạo từ cocain đó khiến người dùng trở nên hung dữ tột cùng.
Phil và tôi chờ đợi, cho tới khi bác sĩ cấp cứu chứng nhận cái chết của anh bạn đồng nghiệp trực thuộc đội đặc nhiệm chống thuốc phiện và của tên buôn thuốc phiện. Chờ cho tới khi các bạn đồng nghiệp trực thuộc bộ phận điều tra dấu vết tiếp quản hiện trường, chúng tôi rời ngôi nhà ở phố Elbertson. Dưới tầng trệt có một quán ăn nhỏ, mở tới tận gần đêm. Quán ăn mang một cái tên đơn giản của bà chủ quán “Ma Riddell’s”, đồng thời cũng là chủ nhân của toàn bộ căn nhà này. Lucino thuê nhà của bà từ 11 tháng nay. Nói chính xác hơn là hắn đã cưỡng bức Ma Riddell để cho hắn biến ngôi nhà của bà thành một ổ Crack.
Trò làm ăn với loại thuốc phiện thời trang Crack giờ được thực hiện trong những ngôi nhà của những công dân bình thường đứng đắn, ở những khu phố mà trước đây thậm chí không có lấy một chiếc ô-tô bị đánh cắp. Crack đã trở thành một loại thuốc phiện với giá rẻ mà ai cũng có thể mua được. Nó đang lan ra trong thành phố như một cơn dịch hạch.
Người ta thành lập nhiều đội đặc nhiệm. Đích thân thị trưởng Ed Koch khẩn thiết kêu gọi mọi người dân, mọi lực lượng trút sức vong thân cứu cho được thành New
York vốn đã bị giới buôn thuốc phiện châu Mỹ biến thành “thủ đô thuốc phiện”. Chúng tôi, những người đang đứng ở đầu trận tuyến, cho rằng những lời nói của ông hoàn toàn không phóng đại chút nào. Việc cộng tác được thực hiện trên một cơ sở rộng. Tôi đoán có lẽ Norman Grand đã quá hồ hởi trong không khí tổng động viên và thả mình chỉ một vài giây theo cảm giác của người cầm chắc chiến thắng. Nếu không, có lẽ không bao giờ anh phạm phải cái sai lầm trầm trọng là tiến thẳng người vào một cánh cửa đóng kín.
Chúng tôi đã cảnh báo Norman Grand trước. Suốt cả buổi sáng, cứ cách một tiếng đồng hồ lại có đứa trong chúng tôi trà trộn vào quán ăn Ma Riddell. Norman Grand tin chắc rằng Lucino Hermoso hoàn toàn không đánh hơi được điều gì. Một quá trình theo dõi cả tuần liền cho biết tên buôn thuốc phiện này thường chỉ hoạt động trong đêm và nằm bẹp tai xuống đệm giường tới tận giữa trưa.
Nhưng anh đã lầm. Những con chuột cống ngửi thấy mùi tai họa kể cả khi đang ngủ.