← Quay lại trang sách

Chương 10

Giữa đại lộ Victor, giữa làn đường xe đi, đám con trai đó uốn éo luyện tập cái điệu nhảy thường được chỉ ra trên đài truyền hình. Tụ tập lại thành từng nhóm bốn đứa, chúng khoác vai nhau, đá chân sang trái rồi sang phải. Thêm vào những động tác uốn éo đó, cả lũ chúng đồng thanh gào lên cái giai điệu thịnh hành trong tốc độ mỗi lúc một nhanh hơn. Hình như đó là nhạc Hy Lạp, chúng chỉ biết có thế. Một giai điệu cùng như một điệu nhảy rất dễ hát, rất dễ nhảy theo. Đúng y như trong tivi. Người ta đã chiếu điệu nhảy này không biết bao nhiêu ngàn lần trong suốt thời gian người đàn ông đó muốn trèo lên chức tổng thống Hy Lạp.

Joey Mendez và đám bạn bè của nó chia thành hai nhóm vừa nhảy vừa hát. Chúng chỉ chiếm một nửa làn đường giữa những chiếc xe đậu, thế nhưng chúng có cảm giác rằng chúng đang là chủ nhân của mọi con phố trên toàn thế giới này. Joey nhảy ở hàng thứ nhất, bên trái nó là Barry, bên phải là Davey và Sonny. Đại lộ này là một đường hầm với những vách tường được chiếu sáng. Những bức tường có vẻ lỏng lẻo, mỗi chốc một run bắn lên, nhưng nền đất bên dưới thì rất chắc. Người đi ở đây không thể lạc hướng được, bởi cả đường hầm giống như một đường ray xe lửa.

Những chiếc xe ô tô thưa thớt ngang qua lượn một vòng thật xa quanh chúng. Đường hầm khá rộng vọng lại những tiếng kêu gào vui vẻ của chúng từ bốn hướng.

Một chiếc xe màu xanh trắng lướt tới thật chậm bên đám con trai đang nhảy nhót, rồi dừng lại, bò với tốc độ của người đi bộ.

- Này các cậu, đừng có liều lĩnh! - Một cảnh sát viên tỳ khuỷu tay lên khuôn cửa sổ ngó cổ ra ngoài thét lớn.

- Đừng để chúng tôi tóm đấy! Chúng tôi đang ở gần đây!

- Chúng tôi đâu có làm điều gì phạm pháp đâu? - Joey thét trở lại, những đứa con trai khác bật cười.

Viên cảnh sát chỉ biết lắc đầu và giơ ngón tay trỏ lên ra vẻ cảnh báo. Thế rồi cả chiếc Radio Car cũng tăng tốc. Lao đi.

༺༒༻

Trong một thoáng, cả hai nhóm bốn đứa tan ra, bởi bọn con trai chụm đầu vào với nhau mà ôm bụng cười. Ánh đèn đỏ đằng sau chiếc xe đi tuần mỗi lúc mỗi nhỏ hơn, rồi cuối cùng hòa hẳn vào quầng sáng chói chang đang cháy lên ở cuối đường hầm.

- Tiếp đi! - Joey gào lớn và tất cả nghe theo lệnh nó. Một vài đứa lang thang đang đứng ở phía bên kia lề đường vỗ tay. Tiếng vỗ tay chìm xuống trong tiếng gào theo nhịp điệu của bọn trẻ cùng tiếng cạo của đế giày trên nền bê tông.

Joey cảm thấy thoải mái hứng khởi hơn lúc nào hết. Lòng tự tin được là thành viên của một nhóm người mạnh mẽ khiến cho mọi bước nhảy đối với hắn đều thành nhẹ như bông. Hắn là một người trong đám chúng và cả bọn chúng đều biết có thể tin tưởng vào hắn. Bọn chúng thậm chí còn chấp nhận cho hắn đóng vai trò chỉ huy. Hắn cảm nhận món vũ khí bên dưới làn áo khoác trong mỗi một cử động, trong mỗi bước đi.

Khẩu súng nặng nề hoàn toàn không khiến hắn khó chịu. Không, cảm giác của cục thép gồ ghề đè lên da thịt cho hắn ý thức được quyền lực và ý nghĩa của mình, cái quyền lực và ý nghĩa mà đột ngột hắn đã giành được. Ý thức này kéo hắn ra khỏi cái biển mênh mông của những con người vô danh. Eugene đã kéo Joey lại gần hắn thêm một bước.

Bọn chúng đã đi đến phố Macnish.

- Phải… quay! - Joey thét lên và giơ cánh tay lên khỏi vai Barry.

Tiếng hát không dừng lại. Đồng loạt giơ chân về hướng phải, cả đám con trai xoay một phần tư vòng tròn, vênh vang như chúng đang là một nhóm vũ công ba lê thật sự. Con phố cũng được chiếu sáng như đại lộ và mọi chi tiết ở đây đều hợp với con tính của chúng. Cả ở đây hai dãy xe đỗ hai bên đường cũng tạo thành đường viền cho làn đường, nơi có tám đứa con trai đang chuyển động. Cái xe đi tuần đang đậu đúng ở chỗ mà nó phải đậu.

Trước ngôi nhà của Delbert Carmody.

Giờ thì đám con trai không còn nghĩ tới ngưng trò ca hát và nhảy múa nữa. Ý thức của chúng đã được găm rất chắc chắn cái mệnh lệnh không bao giờ được phép nói lên bất cứ một cái tên nào. Delbert chắc chắn sẽ nghe thấy những gì ở dưới này và đám con trai hy vọng Delbert sẽ sợ hãi mà đờ ra không nói nên lời.

Rupert Nolan, thằng cảnh sát viên điên khùng, chắc chắn cũng sẽ nhìn thấy những gì đang xảy ra. Nhưng chắc chắn nó không thể tóm một đứa nào trong cả bọn trai đang nhảy múa này. Đơn giản là nó không còn thời gian để làm điều đó. Khi chỉ còn cách cái xe đi tuần ba mét, Joey thay chỗ với Barry. Ánh mắt thằng con trai bám chặt vào từng chi tiết, trong khi nó vẫn tiếp tục gào lên với cái điệu La-La, ồn và sắc, gớm guốc như những ngọn roi quất vào bầu không khí tĩnh lặng của màn đêm.

Cả hai khuôn cửa kính hai bên xe đều hạ xuống.

Những lời miêu tả của Eugene đúng tới từng chi tiết. Con búp bê ngồi đằng sau làn kính thẫm màu cũng mặc cảnh phục như một viên cảnh sát thật sự. Nó thậm chí cũng đội cả mũ cảnh sát. Đối với một kẻ non tay, chắc chắn những chuyện nhỏ nhặt như thế vẫn còn có ý nghĩa. Một thằng cớm với kinh nghiệm lâu năm chẳng mấy khi đi canh chừng như thế này mà lại đội mũ trên đầu.

Con búp bê đang ngồi một mình trong xe. Có vẻ như nó đang ngẩng đầu lên nhìn đám người nhảy múa tiến lại gần. Thậm chí con búp bê có vẻ đang cân nhắc liệu nó có nên xuống xe mà gào thét vào mặt đám thanh thiếu niên to tiếng hát la hay không. Ngay cả khi người ta là một cảnh sát viên đơn độc làm nhiệm vụ, trong đêm có lẽ người ta bao giờ cũng tỏ ra biết điều hơn. Thậm chí đến một con búp bê mặc cảnh phục cũng tỏ ra hiểu điều đó.

Khi đám con trai đã đến ngang cửa sổ của chiếc xe, Joey thò tay xuống dưới làn áo khoác- Khẩu Beretta đã có sẵn đạn trong ổ. Thằng con trai vừa rút súng vừa kéo khóa an toàn. Nó bấm cò ngay lập tức. Khẩu Beretta giật lại, xuýt nữa đập thẳng vào mặt nó. Joey căng gân tay lên và găm viên đạn thứ hai về phía trước.

Tiếng súng đồng thời cũng là tín hiệu bắt đầu.

Tiếng hát ngừng bặt và cả hai hàng người đang nhảy múa lập tức tan ra.

Joey và đám tòng phạm của nó bắn tóe về tám ngả khác nhau. Mỗi đứa chạy trốn riêng cho phần mình. Chúng quen biết từng ngóc ngách ở đây, những khoảng phố gây ấn tượng rất giống nhau đối với người lạ. Và chúng không mắc phải cái sai lầm là tiếp tục chạy khi đã biết là mình không bị đuổi theo.

Từng đứa từng đứa một, chúng đi nhàn tản như những khách bộ hành khác, quay trở lại phố Ithaca, chân tay nhẹ bỗng và hào hứng như người say rượu. Eugene đang chờ chúng, chúc mừng cả đám và nhất là chúc mừng Joey về thành công.

Ở đâu đó từ phía xa vang lên tiếng còi của xe đi tuần.

Chẳng có gì là đặc biệt trong một thành phố như New York.

Rupert Nolan, thằng cớm ngu ngốc, dĩ nhiên sẽ không bao giờ báo động cho các bạn đồng nghiệp chỉ việc con búp bê ngồi đằng sau tay lái của nó vừa bị ăn đạn chì. Nếu có gọi họ tới, nó cũng sẽ phải ngượng ngùng thú nhận là nó chẳng đuổi được lấy một trong tám thằng con trai nhảy múa. Ồ không, anh bạn Nolan chắc chắn sẽ không hé răng với bất kỳ ai một lời nào về vụ việc này để không bị mất mặt với tất cả mọi người. Và dĩ nhiên hắn ta sẽ tìm cách an ủi Delbert Carmody. Dĩ nhiên rồi.

Con cáo thết cả bọn uống sâm banh, vì cái trò đùa vui vẻ của chúng đơn giản là phải được ăn mừng cho tử tế.

Trò:

ĐIỆU NHẢY TỬ THẦN!

༺༒༻

Khung ảnh lớn bên dưới những hàng tít rất đậm chỉ ra một khúc phố được chiếu sáng bởi không biết bao nhiêu ngọn đèn pha. Tấm ảnh chỉ ra nhiều người mặc cảnh phục. Tiêu điểm sự quan tâm của họ là một chiếc xe đi tuần có tất cả các cửa kính đã được quay xuống dưới.

CẢNH SÁT VIÊN BỊ BẮN CHẾT TRONG KHI THI HÀNH NHIỆM VỤ!

Hàng tít thứ hai được in ngay bên dưới tấm ảnh, chỉ nhỏ hơn hàng tít đầu trang báo một chút.

Sếp chia ra bản in đặc biệt của tờ “Daily News” ngay khi hai chúng tôi bước vào phòng. Để đi trước đối thủ, bản in đặc biệt này đã được đưa ra thị trường ngay vào giờ giữa trưa. Phil và tôi cùng phẩy tay ý bảo “chúng tôi đã đọc rồi”.

John D. High thả tờ báo xuống mặt bàn làm việc, nhìn hai chúng tôi.

- Crack, - ông nói. – Hiện thời người ta chỉ có thể đọc được tên nó ngầm giữa các dòng chữ, nhưng muộn nhất là buổi tối hôm nay, tất cả những bạn đọc báo đều biết là cơ thể tên giết người cùng cả đám tòng phạm của nó đều chứa đầy Crack. Những ai có thời gian bật máy truyền hình lên sẽ còn được cung cấp thông tin sớm hơn.

Ông giơ ngón tay cái thoáng chỉ qua bờ vai. Đằng sau ông là một loạt các màn hình với các chương trình địa phương khác nhau của khu vực New York, thêm vào đó là một vài đài truyền hình lớn. Nhưng cũng chỉ là một số lượng đại diện mà thôi. Văn phòng của chúng tôi không đủ chỗ để thể hiện tất cả các kênh.

- Đã có những dẫn chứng cụ thể gì chưa, thưa ngài? – Phil hỏi.

Sếp gật đầu. – Một số người sống ở phố Macnish đã tỉnh dậy vì tiếng ồn và họ còn kịp nhìn qua cửa sổ. Delbert Carmody thì dĩ nhiên là rất tỉnh táo; chỉ có điều anh ta bây giờ là người duy nhất khai rằng hoàn toàn chẳng nhìn thấy điều gì. Dĩ nhiên trên các tờ báo sẽ không có một lời nào nói về các nhân chứng. Các phóng viên, kể cả đám người của các đài truyền hình, đã hứa hẹn sẽ im lặng. Cho tới nay, có điều chắc chắn thủ phạm là một nhóm tám đứa trẻ, có kiểu cách cư xử tiêu biểu cho bọn người dùng Crack.

Tôi phải nói ra những gì đang nóng trong cổ họng mình. – Thưa ngài, - tôi nói. – Trong vòng sáng nay ngài sẽ nhận được bản báo cáo của tôi. Tôi chỉ muốn nói rằng… - John D. High đưa tay cắt lời tôi. – Anh không cần phải nói tiếp, Jerry. Vào thời điểm xảy ra cái chết của viên cảnh sát đi tuần Rupert Nolan anh đang ở phố Elbertson cách đó tới bảy quãng phố. Anh hoàn toàn không có cơ hội can thiệp, dù là nhỏ nhất. Hiện thời, những người phải tự trách mình nhiều nhất là khoảng chừng hai tá đồng nghiệp trong đội đặc nhiệm chống thuốc phiện và lực lượng cảnh sát thành phố, lúc đó đang ra quân ở gần phố Macnish. Nhưng cả họ cũng không thể làm được gì cả. Hơn nữa, chỉ trong vòng vài giây đồng hồ là bọn thủ phạm đã trà trộn được vào đám người lang thang trong đêm. Hoàn toàn không có khả năng bắt quả tang chúng tại hiện trường.

- Vậy là chỉ còn lại duy nhất một lời trách móc có nguyên nhân, - tôi rút ra kết luận, nhưng hoàn toàn chẳng thấy nhẹ nhõm hơn chút nào. – Người ta sẽ phải hỏi những người đứng đầu cảnh sát thành phố, tại sao lại để cho một viên cảnh sát đi tuần, thêm vào đó lại là một tân binh, đơn độc làm nhiệm vụ canh chừng ban đêm?

- Đúng thế, - sếp công nhận – Và tôi e ngại rằng sẽ không ai đưa ra được một câu trả lời, giúp cho những người thân của Rupert Nolan thấy rằng cái chết của anh ta là có ý nghĩa.

༺༒༻

Nắng mặt trời buổi trưa tràn ngập căn phòng, Joey cứ tưởng đây là mặt trời sớm mai.

Căn phòng sáng và ấm áp, cửa sổ đang hé mở. Những luồng không khí từ bên ngoài tràn vào, tươi mát nhưng hoàn toàn không lạnh. Joey gạt chăn sang một bên, duỗi dài tay chân. Gã trai không mặc một mảnh vải nào trên người. Gã cứ tưởng ngày hôm nay là một ngày hè và nghĩ tới chuyện đi sang Coney Island để nghỉ ngơi. Hay là về Brighton Beach. Thế còn Bianca đâu? Hôm nay cô bé có phải làm không? Hay hôm nay là cuối tuần?

Gã trai ngồi lên giường. – Bianca! Bianca! – Gã gọi về hướng phòng tắm. – Hôm nay là thứ mấy?

Ngạc nhiên, hắn nghe giọng cô vang lên trong bếp – Thứ năm, Joey. – Cô gái hiện lên giữa khuôn cửa vào phòng, tựa người vào thanh gỗ, mỉm cười. – Anh ngủ ngon không?

- Ngon như một con gấu bông. – Gã ngáp, kéo hai chân về, vòng hai tay ôm đầu gối. – Đi ra bãi biển đi. Đến chiều hôm nay em mới phải làm, đúng không?

Bianca cười. – Trời đất ơi! Nghe cứ như thể anh vừa qua một giấc ngủ mùa đông vậy. Đã trưa rồi, Joey ạ. Chỉ một tiếng đồng hồ nữa là em phải có mặt tại siêu thị JINGLES. Anh còn nhớ không: Em đã đổi ca với Maggie, đổi trước khi anh bắt đầu ngủ. Mà hôm nay ra bãi biển thì cũng chỉ có hai đứa mình mà thôi. Thời tiết này làm sao tắm nổi… Nhiệt độ nước hôm nay là 10OC….

Gã trai gác cằm lên trên đầu gối bên phải, nháy mắt nhìn cô. – Cứ như thể là anh chưa tỉnh ngủ hẳn, đúng không?

- Cả thời gian này mấy khi anh tỉnh đâu.

- Em nói thật hả? – Hắn mỉm cười đúng cái nụ cười mà hắn biết rõ Bianca yêu thích hơn bất cứ thứ gì khác. – Nào lại đây. Ta mở tiệc mừng gặp mặt sau giấc ngủ mùa đông!

Cô gái lắc đầu. – Bây giờ chưa được. Anh phải dậy đi. Anh phải ăn điểm tâm, ta phải nói chuyện với nhau.

Nụ cười của gã con trai rạn nứt. Hắn nhăn trán nhìn cô gái, vẻ dò hỏi. Mãi tới bây giờ hắn mới để ý rằng cô đã mặc sẵn quần jean và đi ủng, kể cả chiếc áo thun màu vàng chanh in hình con chim công. Trông khuôn mặt cô có một nét khác lạ. Cả điều đó bây giờ cũng từ từ len lỏi vào cảm nhận của gã trai. – Giờ đang là mùa thu rồi, - gã lẩm bẩm, - và anh ngủ, ngủ tới tận giữa trưa. Em thì có vẻ khác lạ. Có chuyện không ổn.

- Nói như thế còn là nhẹ đấy, - Bianca gật đầu.

Gã trai quăng mình ra khỏi giường. Gã thấy người dịu đi một chút khi cô gái chịu để cho gã ôm vào lòng và hôn lên môi. Joey hối hả đi sang phòng tắm, quay trở lại chỉ sau vài phút đồng hồ và bước chân vào bếp. Vào đến nơi, gã hầu như không dám tin vào mắt mình. Hôm nay không phải là một ngày bình thường, hôm nay phải là một ngày đại tiệc.

Chiếc bàn được bày biện thịnh soạn như để đón một vị vua. Hoặc là một tay quý tộc sang trọng ngang như vậy. Bình cà phê được phủ bằng dải đăng ten tự móc, như thời ngày xưa của bà ngoại. Trứng luộc cũng được phủ những dải đăng ten xinh xinh màu sắc sặc sỡ. Bianca là một cô gái rất khéo tay và rất thích chuyện đan lát. Cô có tất cả, tất cả những gì mà một anh chàng người Mỹ có thể mong muốn cho một bữa điểm tâm tử tế: Bánh mì nướng, jăm-bông hun khói, trứng rán, bánh rán nhân mật ong, bánh bích qui sôcôla để tráng miệng. Những tập báo nằm ngay bên cạnh.

Joey cẩn thận ngồi xuống, ra vẻ chần chừ trong khi Bianca tiếp tục loay hoay bên bếp.

- Anh có công lao gì đặc biệt không? – Hắn thận trọng hỏi và rót cà phê.

Cô gái mang lại cho hắn chiếc đĩa với cả một núi bánh mì, jăm-bông và trứng rán. – Anh hỏi tại sao em chiều chuộng anh phải không? – Cô nhấc chảo ra khỏi bếp, vuốt tóc Joey, rồi ngồi xuống đối diện với hắn. – Em chỉ muốn cho anh biết, có một ngôi nhà chung với nhau ấm cúng như thế nào. Hôm nay em muốn anh biết một chút ít mà thôi.

- Tại sao? Em không cần chỉ thì anh cũng biết. – Hắn bắt đầu ăn, ăn dữ như một con hổ đói.

Bianca rót cà phê cho mình và châm một điếu thuốc. Bình thường ra, không bao giờ cô hút thuốc trong bữa điểm tâm. Thế nhưng Joey sực nhớ ra rằng đây đã là giờ giữa trưa.

- Anh quên chuyện đêm hôm qua rồi sao? – cô hỏi. – Vào lúc rất khuya anh đã lẻn ra khỏi căn hộ. Anh biết là em sẽ đi tìm anh, thế nhưng anh đã cố tình dẫn ngoắt ngoéo cho em đi lạc. Sau đó em đã bị một bọn lưu manh tấn công. Một nhân viên FBI đã cứu mạng em. Mãi tới sáng hôm nay anh mới trở về nhà và lăn ra giường ngủ như một người đã chết. Anh thậm chí còn không nhận thấy là em vẫn còn thức đợi anh. Nhưng tất cả những chuyện đó chưa phải là trầm trọng nhất.

Gã trai trân trối nhìn cô. Từng từ một người yêu vừa nói vang lại trong não gã.

Tấn công…

Nhân viên FBI…

Cứ như Bianca đã đánh thức cho bộ máy hồi ức của hắn hoạt động trở lại. Quỉ quái, đúng, cô nàng có lý!

- Mà là chuyện gì? – Gã trai nhẹ giọng hỏi.

- Nó là… nó là cái vẻ bí mật của anh. Hai đứa mình đã có lần thề ok giữ bí mật với nhau nữa mà. Còn tin tưởng với nhau là điều quan trọng nhất đối với chúng ta; mặc dù cả hai đều cố gắng tạo không gian tự do cho người kia, trong một chừng mực nhất định.

- Nhưng mà…

Gã trai không nói tiếp được một lời nào nữa. Cô gái có lý, hoàn toàn có lý! Trời đất ạ, cái gì đã nhảy xổ vào người hắn như vậy? Tối hôm qua hắn có việc gì quan trọng tới mức độ phải che giấu cả người yêu của mình? Đột ngột, gã thấy cái chuyện gã lẻn ra khỏi nhà như một thằng ăn trộm là quái gở và đần độn. Bianca giận là phải lắm. Cô đã luôn luôn tỏ ra thông cảm mỗi lần hắn đến gặp bọn Eugene và bọn con trai kia.

Quỉ quái thật, hiện thời đến cả bản thân hắn cũng không hiểu.

Mặt khác, đây là một chuyện bí mật. Một chuyện rất quan trọng nào đó. Eugene đã nhắc đi nhắc lại với cả bọn như vậy. Rõ rồi, hoàn toàn rõ rồi. Đàn ông thỉnh thoảng cũng phải tập trung vào những chuyện riêng của đàn ông. Bây giờ hắn chỉ cần tìm cách giải thích cho cô hiểu điều đó, giải thích chính điều đó mà thôi. Ánh mắt hắn rơi xuống chồng báo bên cạnh, tránh khi não bộ của hắn căng thẳng tìm từ ngữ để giải thích với người yêu.

Tờ báo được gập lại thành ba chiều ngang. Hắn chỉ đọc được một phần những chữ cái khổng lồ.

… CẢNH SÁT…

Bên dưới là một phần tấm ảnh.

… BỊ BẮN…

Tấm ảnh thu hút ý chí của hắn, thúc cho linh cảm trong người hắn và bộ máy hồi ức trong hắn bắt đầu làm việc trở lại. Một phần của chiếc xe đi tuần đó, những ánh đèn gay gắt, hình dáng những người mặc cảnh phục, những ngôi nhà ở hậu trường xa xa. Và con phố này trông như thể…

Gã trai kéo tờ báo lên, không còn nghĩ tới chuyện tìm từ ngữ để giải thích cho Bianca nghe nữa. Hộp đường lăn sang một bên, khi hắn mở tờ báo ra. Bianca kêu lên một tiếng giận dữ, nhưng gã không nghe thấy tiếng cô.

Cả hàng chữ đập vào mặt hắn.

ĐIỆU NHẢY TỬ THẦN!

CẢNH SÁT VIÊN BỊ BẮN CHẾT TRONG KHI THI HÀNH NHIỆM VỤ!

Gã trai cứng đờ ra như chiếc ghế gã đang ngồi. Gã có cảm giác như đang rơi xuống một vực sâu không đáy, với những tiếng ồn khủng khiếp. Tiếng ồn xóa đi mọi suy nghĩ của riêng hắn.

- Có chuyện gì thế? Anh sao vậy? – Gã nghe giọng lo lắng của Bianca.

Gã không nói được. Những hồi ức bất chợt sáng trong ra như thủy tinh, trộn lẫn với những gì đang được in bằng những dòng chữ rất đen trên nền giấy trắng.

… Người bị giết là một viên cảnh sát còn trẻ, mới gia nhập…

… Rupert Nolan, cảnh sát đi tuần, người xứ Corona, Queens…

… phố Macnish…

… đang canh chừng chủ nhân của ngôi nhà là Delbert Carmody…

Tờ báo rơi ra khỏi tay Joey. Cái mảnh giấy có in chữ màu đen phủ lên trên đám đường bị đổ ra bàn.

Hai mắt Bianca mở lớn. Cô nhìn xuống tờ báo và nhìn gã trai mà cô yêu.

- Joey! – Đó là một tiếng thét. Cô gái nhảy chồm lên, chạy vòng quanh bàn, tóm lấy hai vai hắn. Cô lắc lắc người gã. Cái đầu gã đung đưa theo như thể cần cổ đã mềm như bún. Cô gái ngừng lại, ôm lấy cái đầu đó, áp sát nó vào người mình.

Gã trai nghẹn ngào. Gã bắt đầu run rẩy toàn thân, cuộn mình lên như đang bị đau. – Anh… anh… anh đã… - Gã nức nở như một đứa trẻ. – Anh cứ tưởng… Trời ơi! – Gã thét lên, bám chặt lấy hông cô. Thân thể cô bây giờ là sự chở che, là cái hang an toàn mà gã đang muốn chui vào.

- Kìa Joey, Joey. – Cô gái nhanh tay vuốt tóc gã. – Joey, kìa anh! Bình tĩnh đi!

Vài phút đồng hồ sau, gã trai mới nói nên lời. Gã ngửa đầu ra sau gáy. Mặt hắn ràn rụa nước mắt khi ngẩng nhìn cô. – Chính anh đấy, Bianca! Anh đấy, anh đấy! Ôi khốn kiếp, khốn kiếp, anh cứ tưởng chỉ là bắn vào một con búp bê. Làm sao anh có thể biết là thằng ngu Rupert Nolan lại ngồi trong xe của nó!

Bianca cắn chặt hai răng nanh đến phát đau làn môi dưới. Cô phải tận dụng đến giọt sức cuối cùng để giữ bình tĩnh trước sự thật khủng khiếp. – Kể cho em nghe hết đi, - cô yêu cầu và giật mình sửng sốt vì độ run trong giọng nói của chính mình. – Ta sẽ cùng nhau tìm một đường thoát…

Gã trai thở hào hển. Thế rồi gã gật đầu. – Em phải biết hết, - gã thì thào. – Tất cả! Ngôi nhà của Eugene là một ổ Crack. Bọn con trai và anh bán đồ đó, bọn anh cũng hút Crack. Chúng làm cho bọn anh say, rất say.

Cố gắng lắm, Bianca mới che giấu được nỗi kinh hoàng. – Thế còn tối hôm qua? – Cô nói khẽ, giọng vô cảm.

- Tối hôm qua bọn anh cũng hút, - Joey thú nhận. – Hút nhiều hơn mọi ngày. Eugene cử bọn anh xuống đường để chơi xỏ Nolan một cú… - Gã con trai miêu tả lại tất cả. Từng chi tiết một.

Bianca bình tĩnh. Độ dài trong bản báo cáo của gã trai đã giúp cho cô tìm lại được sức mạnh nội tại của mình. Cô gỡ hắn ra, đi sang phía kia của chiếc bàn ăn, ngồi xuống. khi cô châm cho mình một điếu thuốc mới, chỉ có những ngón tay của cô là còn run. – Anh phải ra đầu thú thôi, - cô nói. – Anh phải ra trình diện với cảnh sát và thú nhận tội của mình. Đó là cơ hội duy nhất.

Khuôn mặt gã trai nở lớn lên; gã nhìn cô trân trân như nhìn một người từ trên trời rơi xuống. – Em điên sao! – Gã kêu lên. – Anh mà ra với cảnh sát hả? Thế thì anh cũng phải phản bội cả những người khác! – Gã gào lớn.

- Đừng có gào lên với em, - Bianca lạnh lùng đáp lại. – Anh đã giết người. Nếu anh cọi việc che đậy cho bọn tòng phạm của anh quan trọng hơn việc rửa sạch lương tâm, thì anh không còn là Joey, người mà em đã từng biết.

Thêm một lần nữa, gã trai cảm giác rơi xuống một bờ vực có những tiếng ồn khủng khiếp. Cứ như thể gã đang bị xẻ làm đôi và nửa này đứng nhìn nửa kia của bản thân nhảy lên. Gã quơ vội vàng vài món quần áo rồi lao ra khỏi căn hộ.

Chỉ tới khi xuống đến phố, gã mới chậm bước lại. Cái qui luật ứng xử được dạy bảo bao nhiêu lần vẫn còn hiệu lực. Những kẻ nào co cẳng chạy trên phố là kẻ đáng nghi, bởi kẻ đó đang chạy trốn một ai đó. Joey có cảm giác như gã đang lảo đảo đi trong một dải sương mù.

Trong sự thật, chỉ có mặt trời dịu dàng của mùa thu đang tỏa sáng.

༺༒༻

- Chúng tôi đã chuyển anh ta đi rồi, - thanh tra thiếu úy Walter Breidenberg nói. – Chuyển vào bệnh viện. Tôi không thể chịu trách nhiệm được nữa. Nhìn như thể anh ta bị đau tim. Tôi thấy quá nguy hiểm.

Chàng truy úy thậm chí không cần nói tên đối tượng. Nhân vật chúng tôi đề cập tới là Delbert Carmody. Không ai ngoài Delbert có thể dễ dàng bị đột quỵ vì sợ hãi. Đưa anh ta ra khỏi hiện trường một thời gian có lẽ đó là điều tốt nhất hiện thời. Dĩ nhiên, trong nhà thương anh ta cũng tiếp tục được canh chừng.

Chúng tôi ngồi trong một chiếc xe hỏi cung đứng bên phố Macnish. Công việc viết biên bản vẫn chưa xong. Con số những người sống trong ngôi nhà, những người đã nhìn hoặc là nghe thấy một chút gì đó, cứ mỗi ngày một lớn lên. Từ khi được biết bọn thanh niên nghiện Crack đã giết chết một cảnh sát viên, nỗi giận dữ của dân chúng trong khu phố mỗi lúc một dâng cao.

Trung úy Breidenberg ra hiệu cho viên cảnh sát khu vực đang đứng trước cánh cửa để hé. Viên cảnh sát gật đầu rồi quay mình đi. Breidenberg đã báo trước sẽ cho chúng tôi gặp nhân chứng tốt nhất, người đàn ông với nhiều thông tin nhất từ trước tới nay.

Cả cái va-gông tròng trành khi anh ta bước vào. Đó là một người khổng lồ nặng ít nhất trăm ký. Thân hình đồ sộ của anh ta được bó trong một bộ đồ thể thao màu xám. Đúng là một sự mâu thuẫn, tôi thật sự không thể tưởng tượng được người con trai này lại có khả năng chạy dù chỉ là một bước duy nhất. Trung úy Breidenberg ngồi né lên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Anh chàng khổng lồ cần toàn bộ chiếc ghế sofa, Phil và tôi ngồi đối diện. Chúng tôi chỉ cho anh xem thẻ công vụ và tỏ ý mong anh thông cảm cho việc sẽ hỏi lại từ đầu để tạo cho riêng mình một bức tranh toàn cảnh.

- Tôi hiểu rồi, - anh ta đáp bằng giọng trầm trầm - Ở đây là đời thực chứ không phải trong phim truyền hình, trong một bộ phim hình sự ngớ ngẩn. Trong sự thực, con người ta bao giờ cũng hiểu nhanh hơn rất nhiều, đúng không?

- Đúng, - tôi nói.

- Tôi là Graham Brittle, - anh ta tự giới thiệu. Điếu thuốc lá mà anh ta đưa lên giữa hai làn môi trông nhỏ nhoi như một que diêm trên khuôn mặt hùng vĩ của người hút. – Tôi sống trong nhà bên kia, chính xác nhà đối diện kia. – Anh ta gật cái đầu đồ sộ về hướng phố đối diện. Chúng tôi đã biết điều này qua Breidenberg. Người ở trên lầu thậm chí có thể nhìn thẳng vào nhà của Delbert Carmody nếu anh này không kéo rèm kín. – Tôi khó ngủ, - anh chàng khổng lồ vừa hút thuốc vừa giải thích tiếp. – Nhiều khi ban đêm, tôi ngồi hàng tiếng đồng hồ bên cửa sổ. Mới khoảng một hai năm nay như vậy. Hồi trước tôi thường hay chui vào bếp nấu đồ ăn, hút thuốc và uống bia cho tới khi mỏi mệt mới lên giường. Nhưng từ khoảng chừng một hai năm nay, tình hình đổi khác đi. Ở ngoài phố này bao giờ cũng có chuyện. Các ông hiểu chứ?

- Bọn buôn Crack thâm nhập khắp mọi nơi, - Phil đáp lại và gật đầu. – Chúng nó đã tiến vào cả những vùng an bình nhất.

- Và anh nhìn trực tiếp xuống cái xe đi tuần, - tôi bổ sung lên.

Graham Brittle gật đầu khiến những tảng mỡ hùng vĩ bên dưới cằm đung đưa. Chỉ với ba hay bốn lần hít, anh ta đã biến cả một điếu thuốc lá thành tro xám. Người con trai ném nó vào gạt tàn. – Ta nói ngắn gọn, - anh đề nghị. – Tôi đã quan sát thấy toàn bộ vụ giết người. Tôi đã nhìn thấy tất cả. Và tôi thậm chí đã nhận mặt được hai đứa trong bọn chúng. Các ông có biết gì không, sĩ quan đặc nhiệm? – Anh ta cúi người về phía trước, nhìn thật sâu vào mặt chúng tôi.

- Không, - tôi hồi hộp đáp.

- Nếu mà lúc đó trong tay tôi có súng… Ôi trời, nếu mà lúc đó tay tôi có súng! Tôi sẽ bắn chết cả cái đám uốn éo tởm lợm ấy đi! Chắc tôi sẽ bắn trúng vào bọn con hoang đó. Chắc chắn là như thế. Cả tám đứa. Tôi đã có thời… - Anh ta dừng lại và ngả người ra sau ghế. Bực bội, anh ta thở phì phò và châm một điếu thuốc lá mới. – Thôi quên chuyện đó đi! Gạt quá khứ sang bên. Tôi không muốn khoe khoang. Các anh chỉ muốn nghe những điều gì quan trọng. Đúng không?

- Mọi yếu tố đều quan trọng, - tôi đáp lại. – Kể cả chuyện anh đã từng là lính ở Việt Nam cũng là yếu tố hết sức quan trọng, Graham Brittle.

Người con trai nuốt khan. Ánh mắt anh ta như chìm vào một làn sương ẩm ướt.

Không nói một lời, anh ta đặt hai bàn tay đồ sộ lên tay phải tôi. Chúng đè trĩu xuống như một gọng kìm. Nhưng tôi biết, anh ta hiểu lời tôi nói. Thời trước khi đến Việt Nam, người con trai này đã là một con người hoàn toàn khác. Cuộc chiến tranh khủng khiếp đã thay đổi toàn bộ con người anh, biến anh thành một tảng thịt khổng lồ của hôm nay. Chắc chắn Graham Brittle hiện đang sống bằng một khoản tiền bảo hiểm nhỏ xíu. Ấy là anh ta gặp may, được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà, yếu tố giúp cho anh ta tiếp tục sống sót. Graham Brittle đang sống cảnh khổ ải như vô vàn những cựu chiến binh khác: nghèo nàn và cay đắng. Đa số công dân Mỹ hôm nay không còn muốn nghe về cuộc chiến tranh thuở xưa nữa, họ cho đó là một chủ đề cần kết thúc ngay cho. Bởi nó không thích hợp với niềm kiêu hãnh dân tộc Mỹ.

Graham Brittle cảm nhận tôi là người thành thật. Và anh cũng chỉ cần nhìn qua mặt Phil là biết ngay bạn tôi cũng cùng quan điểm. Người con trai kể lại toàn bộ câu chuyện, chi tiết hơn rất nhiều những gì được ghi lại trong biên bản. Anh không thể miêu tả chi tiết cả tám đứa vũ công thần chết, nhưng anh nhớ màu tóc một số đứa. Anh không biết thủ phạm, nhưng anh đã nhìn rõ cảnh thằng giết người rút ra một khẩu Beretta 92F và bắn về phía Rupert Nolan. Vì vẫn còn quan tâm đến tất cả những gì dính dáng đến quân đội Mỹ, nên dĩ nhiên Graham Brittle đã đọc tất cả những bản báo cáo và những bài báo về đề tài trao đổi súng công. Thời trước chiến tranh, loại súng Colt Government đã được dùng làm vũ khí cho một số binh chủng suốt nhiều thập kỷ liền. Ngày nay, lực lượng cảnh sát quyết định chọn một loại súng nước ngoài khác và chọn đúng một loại súng tự động của Italia. Sự kiện này là cả một thảm họa nhỏ đối với những người yêu nước chân chính như anh.

Hai đứa con trai mà Graham Brittle nhận mặt được tên là Chas Adams và Joe Riqueza. Chas Adams sống ở phố Forley, Joe Riqueza ở phố Denman. Graham Brittle đã đọc từng dòng chữ trong tất cả các tờ báo địa phương. Chas Adams và Joe Riqueza từng là những vận động viên bóng rổ thành công cho một câu lạc bộ nào đó của khu Elmhurst, cho tới cách đây một năm…

Cho tới khi chúng nếm mùi thứ thuốc được đựng trong những ống thủy tinh nho nhỏ óng ánh.

༺༒༻

Trời đã trở về chiều. Mặt trời mùa thu đã đổi màu đỏ vàng và chìm xuống đằng sau những mái nhà nhô lên từ hướng căn hộ của tôi tại Manhattan. Tôi không biết chắc, liệu tôi có còn được quay về với căn hộ của mình trước nửa đêm nay hay không. Thời tiết rất đẹp quả thật đã khiến cho ta quên đi những linh cảm về mùa đông sắp tới. Đại lộ Roosevelt vẫn còn cây. Những chiếc lá vàng thắm phủ trên hè đường, mang lại cho nền bêtông một vẻ ấm áp, đằm thắm.

Tôi rẽ về phố Forley.

Phil đã ngồi vào một chiếc xe công vụ, đi về hướng phố Denman. Hai chúng tôi chia việc ra làm. Vì điều tra cái chết của Nolan đã được trao cho lực lượng FBI – một quyết định chớp nhoáng từ Washington. Lực lượng cảnh sát phải cố gắng hết sức để không gây ấn tượng sai lầm. Phải giải thích đến tận ngọn ngành tại sao một viên cảnh sát mới vào nghề lại được trao nhiệm vụ canh giữ một mình trong đêm, tại sao công việc này trong tất cả những ngày và đêm vừa qua lại chỉ được thực hiện bởi một cảnh sát viên duy nhất, Steve Dillaggio và Zeerokah quan tâm đến phần điều tra nội vụ đó. Mặc dù ngay từ bây giờ, chúng tôi đã hiểu rõ câu trả lời.

Đơn giản lắm, New York thiếu cảnh sát viên ở mọi ngóc ngách, mọi khu vực và mọi tầng lớp. Sĩ quan phụ trách khu vực chắc chắn hoàn toàn không có lỗi. Chẳng một ai có lỗi, chỉ trừ trường hợp có vị quan tòa nào đó đủ sáng suốt và lòng dũng cảm để kết tội thành phố đã không cung cấp đủ tiền cho việc xây dựng một đội ngũ cảnh sát viên thích hợp với cuộc chiến tranh Crack hiện thời.

Delbert Carmody đã được xếp vào loại ít gặp nguy hiểm. Rất đúng. Bản thân gã đàn ông đã tạo nên ấn tượng như vậy, chính gã đã làm ra vẻ chẳng biết gì. Chừng nào gã còn áp dụng chiến thuật này và không hề cung cấp cho chúng tôi thông tin theo hướng ngược lại thì dù muốn, chúng tôi cũng không thể đưa hắn ta vào chương trình nhân chứng chính. Mà có lẽ Delbert cũng sẽ không bao giờ trở thành một nhân chứng chính: hắn nhát quá.

JINGLES.

Những hàng đèn quảng cáo đã được bật lên; từng chữ cái cháy lên trong ánh hoàng hôn. Tôi đi xe qua bãi đậu lúc này đã vắng bóng người, đôi mắt chú ý vào phía bên kia dãy phố, nơi có nhiều nhà dân đứng nối tiếp nhau.

Tôi đạp chân xuống bờ phanh khi phát hiện ra Bianca LaRosa đang bước ra từ cửa dành riêng cho nhân viên. Thế rồi tôi đột ngột quay chiếc xe Jaguar về hướng phải, lăn bánh về hướng cô. Không có ai đang đứng ở đó chờ cô. Cô gái dừng lại, ngạc nhiên nhìn.

Cô chỉ nhận ra tôi khi tôi bước xuống xe. Bất chấp tất cả nỗi sợ hãi và hoảng hốt trong buổi đêm bị tấn công, cô gái vẫn nhớ mặt tôi. Một trí nhớ thật đáng khen, bởi trong bộ complê và cà-vạt bây giờ, ngoại hình tôi hầu như chẳng còn chút nào của gã lang thang tả tơi mà tôi vào vai bữa trước.

- Đừng lo, - tôi nói. – Tôi không rình mò bám theo cô đâu. Tôi chỉ đến phố này để tìm một thiếu niên sống ở đây.

- Ôi! Chào ông Cotton! – Nụ cười của cô ngắn và lơ đãng. – Tôi… tôi vẫn còn chưa cám ơn ông cho tử tế.

Tôi lắc đầu, ra hiệu cho cô gái biết tôi không muốn nói tới chuyện đó nữa. – Cô có xe ở đây chứ?

- Tôi không có xe. Tôi luôn đi bộ.

- Tôi sẵn sàng đưa cô về nhà. Để bù lại, cô hãy chỉ cho tôi biết Chas Adams sống ở đâu. Tôi không biết số nhà của cậu ta.

Tôi còn muốn hỏi liệu cô có quen biết cái tay cựu vận động viên đó hay không. Nhưng câu hỏi không cần thiết nữa.

Bianca chợt trắng bệch ra như vôi khi nghe thấy cái tên Chas Adams. Tôi vội tóm lấy cô, đỡ cô về hướng chiếc xe màu đỏ. Bianca nhìn tôi bằng ánh mắt biết ơn sau khi tôi giúp cô ngồi vào chiếc ghế bên phải. Đôi môi cô giật giật, ánh mắt chập chờn một tia lửa mà hiện tôi chưa rõ nghĩa. Tôi đóng cửa xe, đi vòng quanh mũi xe, rồi ngồi xuống ghế đằng sau tay lái, bên cạnh Bianca.

Cô gái khóc.

Tôi để cô yên, hạ cửa kính xe xuống và châm cho mình một điếu thuốc. Tôi không muốn Bianca tin rằng tôi định gây ảnh hưởng đối với cô. Hoàn toàn không. Cách cư xử của cô thật khó hiểu. Đúng, chắc cô biết là hai chúng tôi rồi sẽ có lúc gặp nhau, muộn nhất là tới thời điểm tôi phải ra trước tòa làm nhân chứng, kết tội bọn con trai đã tìm cách hãm hiếp cô. Nhưng tại sao cô lại ứng xử lạ thường như vậy khi nghe thấy cái tên Chas Adams? Tôi chưa hiểu. Có phải Chas Adams là một trong những thằng con trai đã tấn công cô? Có phải Bianca sợ phải gặp bố mẹ nó hoặc những người thân của nó?

Không thể suy diễn được.

Cô gái ngẩng đầu lên, đưa cùi tay quệt nước mắt. – Ông cho tôi xin một điếu thuốc lá với! – Cô lập bập nói bằng giọng nghẹn tắc rồi mở túi khoác vai lấy khăn giấy.

Tôi đưa cho cô hộp thuốc lá của tôi. Những ngón tay run run rút thuốc. Tôi châm lửa cho cô. – Thôi, để tôi tự tìm Chas Adams cũng được, - tôi nói bằng giọng an ủi. – Trời đất ạ, tôi không bao giờ muốn kéo cô vào một tình huống vượt quá sức chịu đựng của cô đâu.

Cô gái hít hơi thuốc đầu tiên và hối hả lắc đầu. – Không phải chuyện đó, ông Cotton, thật sự không phải chuyện đó. Trời đất… - Cô gái thở thật sâu, như người vừa làm xong một công việc rất vất vả. – Tôi không biết tôi có thể sống qua những ngày này như thế nào. Mặc dù tôi chỉ phải làm việc một ca vào buổi chiều. Một nửa ca đã như dài hơn tất cả những ngày làm việc toàn ca khác.

Tôi rất hiểu tại sao cô lại nói đến một chuyện không quan trọng như vậy. Đó là cái cách giải thích tại sao cô đã mất bình tĩnh đột ngột như thế.

- Cô có muốn nói về những gì thật sự quan trọng không? – Tôi thận trọng hỏi.

- Nếu ông đến chỗ Chas Adams… - Cô gái bắt đầu rồi dừng lại, như thể bất chợt không thở được nữa.

- Anh bạn của tôi bây giờ đang đến thăm một chàng trai tên là Joe Rigueza. Cô có biết anh ta không?

Bianca gật đầu. – Vậy thì chắc là ông đã biết chuyện gì xảy ra. Sớm hay muộn rồi ông cũng sẽ tìm ra Joey cho mà xem. Hay là ông đã biết tên anh ta rồi?

- Có phải đó là Joe Rigueza?

- Không, không, anh ấy tên Joey, Joey Mendez. Chúng tôi hầu như đã đính hôn. Mà bình thường ra… bình thường ra bao giờ anh ấy cũng đến đón tôi khi đi làm về. – Cô gái lại nức nở. Nhưng lần này cô nhanh chóng kềm chế được cơn xúc động và xoay qua nhìn tôi. – Ông Cotton, tôi nghĩ có lẽ không phải tình cờ mà hôm nay chúng ta gặp nhau. Tôi thật sự không biết phải làm cách nào nữa. Có chuyện khủng khiếp đã xảy ra, mà tôi… tôi chẳng có ai cả. Ba mẹ tôi đã đến thăm người thân ở New Hampshire mấy ngày nay rồi. Tôi cảm thấy… tôi thấy cô đơn quá… - Cô gái im lặng mấy giây đồng hồ liền. – Ông Cotton, ông có thể cho tôi biết vì sao ông muốn gặp Chad Adams không?

- Cô đọc báo trưa nay chưa?

- Rồi. – Đôi mắt cô mở lớn, đầy linh cảm.

- Vậy thì tôi không cần phải giải thích nhiều. Đây là vụ giết cảnh sát viên Rupert Nolan. Chas Adams và Joe Rigueza là hai trong số tám vũ công thần chết. Chúng tôi có rất nhiều nhân chứng. Lời miêu tả nhận dạng cả sáu đứa còn lại cũng đã được đưa vào biên bản.

Bianca thở hắt ra. – Thế thì tốt. Thế thì tôi không cần phải nặng lòng về chuyện có phản bội lại Joey hay không.

Cô gái kể cho tôi nghe tất cả.

Thế rồi khi đã kể hết, cô ném người vào vai tôi và khóc nức nở như một đứa trẻ nhỏ. Đây là những giọt nước mắt khác. Lần này trong giọng khóc có xen lẫn cảm giác nhẹ nhàng.