Chương 4
dịch giả: văn hòa
Chương 4
on khinh những người đàn ông hay khóc, - Susan nói với vẻ chán chường - cám ơn Chúa, Peter thì khác. Nếu con là Jessica, thì có thể con đã bỏ Herbert rồi, con xin thề...
Lúc đó vào buổi chiều, và ông William đang chờ cơm tối. Elinor dưới nhà bếp, Bertha ở trong phòng xép dưới nóc nhà, sau khi được biết về các sự việc đã xảy ra, và Susan đang dọn bàn.
- Á hà, - Ông William nói để động viên Susan mà không sợ hại đến thanh danh của mình - tất cả điều đó rất tốt, nhưng người ta có thể phóng đại về cả hai mặt. Peter không đến ăn tối sao?
- Thưa ba không. Sau cơm trưa, anh ấy quyết định về nhà.
- Nó khó chịu chăng?
- Thưa không, nếu được ba mẹ đối xử tử tế. - Susan nói với vẻ quả quyết.
Ông William loại trừ sự cảnh báo của con gái ông. Cô ta muốn đạt được một cái gì đó, chính cô ta đã cho Peter về, ông chắc vậy. Cô ta muốn đưa Peter đi xa, trong lúc cô ta cầm chắc cha mẹ cô trong tay. Ông William đã phát hiện rất đúng những triệu chứng đầu tiên. Ông đứng dậy, đi ra cửa. Ông nói:
- Sau bữa ăn, con nên giúp mẹ con rửa chén bát, bà Bertha đã quỵ rồi.
- Lại có chuyện... quỵ... Như thế, con người yếu đuối quá!
Và nếu có người nào tỏ ra thiếu nghị lực, thì đó chính là con gái của ông, người thiếu nữ tuyệt vời này, tính tình nồng nhiệt, đôi mắt tô màu nâu ẩn sau hàng mi đen gần như quá dài, hình vóc thon thả, có xu hướng đẫy đà như người mẹ, và một giọng nói ngọt ngào và trầm lặng - như tiếng mẹ ru con. Nhưng đó là kiểu cách của những cô gái trẻ tân thời, và điều ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì. Ông chẳng hiểu biết gì về cô Susan thật của ông từ ngày Peter gắn bó với gia đình này một cách không liên tục và hờ hững, bây giờ xem chừng trở nên vĩnh viễn.
Ông hỏi, nhân một phút can đảm:
- Có thật con muốn đeo đuổi cuộc hôn nhân phi lý này không?
Susan đang gấp chiếc khăn ăn có hồ bột, làm thành những hình thù rắc rối. Cô đáp:
- Đó là vấn đề con định thưa với ba chiều hôm nay. May là bà Bertha đã kiệt quệ. Đúng vào lúc chỉ có ba và con.
- Con hãy chờ cơm tối xong đã - Ông nói và đứng lại nơi cửa - Dạo này ba tiêu hóa chậm hơn hồi trước. Con hãy để cho bữa ăn được yên ổn.
Ông để Susan lại trong phòng ăn, và đi bách bộ trên sân hiên để khỏi phải suy nghĩ. Đó là một bài học mà ông đã học được từ lâu, trong một dịp chống chọi với bọn tội phạm, đe dọa xâm nhập vào đời sống riêng tư của ông. Ông phải tập cho quen xua họ đi, tống khứ những bộ mặt xấu xa ấy ra ngoài, thấy họ từ từ biến dạng, điều đó cho phép ông thanh thản trở về nhà gặp lại gia đình, chơi đùa với trẻ con, xem xét lại cái lò nấu có trục trặc, đọc tiếp quyển sách đã đọc dở chiều hôm trước, hoặc cuối cùng và trên hết, là làm tình với Elinor xinh đẹp của ông. Bây giờ, trong cảnh hoàng hôn kéo dài, ông áp dụng kinh nghiệm ấy trở lại, và cảm thấy một sự yên tĩnh tươi mát thấm đẫm vào con người ông. Vườn nhà trở nên rực rỡ trong bóng chiều, những bông hoa đầu mùa hè điểm một điểm vui trên vách đá. Đúng là mùa hoa hồng, thứ hoa mà ông nhớ tên luôn luôn đúng. Dù có chuyện gì xảy ra trong nhà, vách tường vẫn đứng vững và hoa vẫn nở.
Tuy nhiên, nền móng có cơ hội lung lay. Buổi chiều cứ trôi qua và Susan vẫn tỏ ra chẳng đáng thương chút nào. Bữa ăn, ít ra trong vấn đề lương thực, vẫn diễn biến tốt. Ông William thử nói bóng gió về một nỗi mệt nhọc trong ngày của ông, nhưng ông nhận thấy Susan chẳng tỏ dấu gì tương nhượng. Đám trẻ chỉ nhắm vào mục tiêu mà họ theo đuổi, và chỉ nghĩ đến mình. Đang khi ông nhấm nháp món thịt trừu nấu ca ri, ông liếc nhìn con gái. Ông thầm quyết định lợi dụng kéo dài bữa ăn, bởi vì ông không thể nào tránh được điều đang chờ đợi ông sau đó. Ông biết ý nghĩa của sự chống đối không dễ lay chuyển, ngay trên cái miệng xinh đẹp của Susan. Ông đã từng thực nghiệm một lần, khi cô ta chưa đầy tuổi. Ông đã đấu tranh với cô bé, cũng như bao giờ. Ông muốn ép cô bé ăn rau ê-pi-na mà nó không thích. Con bé đã dùng bàn tay bụ bẫm của nó, nhanh như chớp, đánh văng cái đĩa xuống sàn nhà. Cũng bàn tay đó, nay đã trở nên thanh mảnh, được chăm sóc kỹ càng, móng sơn màu hồng san hô và trên ngón tay đeo nhẫn, ông thấy lần đầu tiên một viên kim cương lấp lánh trước mắt ông như một ngọn đèn.
- Ba có thích không?
- Ba nhìn thấy trong đó nhiều cái khác. - Ông nói cộc lốc.
- Viên kim cương đẹp thật! - Bà Elinor nói, cố gắng đánh tan sự khô khan của chồng.
- Peter lấy đâu ra tiền mà trả?
Ông William lầm bầm. Ăn nói tế nhị cũng vô ích thôi. Bọn trẻ không biết cái đó có nghĩa gì. Jessica đã rập khuôn theo đám thiếu nữ củà một thời khác.
- Chắc ba sẽ bỡ ngỡ nếu ba biết làm ga-ra lời đến chừng nào. - Susan nói với vẻ thỏa mãn - Hơn nữa, chúng con mua theo cách trả góp.
- Ồ, Susan! - Mẹ cô kêu lên.
- Cái gì thế, mẹ?
- Mượn tiền để sắm nhẫn đính hôn!
- Tại con không thích hột nhỏ.
- Tùy ý con, tùy ý con! - Ông William nói.
- Ô kê, papa!
- Tiếng Anh của con rồi sẽ hỏng hết, nền giáo dục đại học không chịu nổi một cái ga-ra. Ba giả tỉ...
Ông cảm thấy ông đã tiến khá xa. Đôi mắt màu nâu của Susan ánh lên vẻ giận dữ khi nhìn ông. Ông khẽ nhún vai, nói:
- Ba không thích cãi trong bữa ăn, và sau đó chẳng đâu vào đâu cả.
- Không, không có đâu. - Susan nói.
Ông William đứng lên, dửng dung để đống chén bát lại cho hai người đàn bà, ông vào phòng khách phía Đông mà hút ông điếu. Ở nơi yên tĩnh này, trẻ con và tôi tớ đi hết, ông suy nghĩ đến loại người ngợm, đến Peter và hàng triệu triệu người giống như hắn, không cổ lỗ song dốt nát, vai u thịt bắp mà thiếu đầu óc, hoặc là có đầu óc nhưng thiếu lịch thiệp, ăn nói thô tục, đến đỗi hắn có sống cũng như không. Ông thương hại cho lũ con của ông: Winsten, một người cha trẻ trong khuôn mẫu đã lỗi thời, và Edwin rất trí thức, chỉ được sống sót nếu luật pháp tiếp tục trị vì. Cho là luật pháp bị lật đổ đi, dưới sự xung kích của cách mạng, thì chính Peter sẽ là nhà cách mạng không thể nào tránh khỏi, không phải Edwin, cũng không phải Winsten. Edwin sẽ bị thanh toán. Đó là từ văn minh thay tiếng giết người. Họ sẽ cho Winsten được sống nếu hắn phục tùng, và hắn sẽ phục tùng vì sợ cho vợ con hắn. Edwin không bao giờ đầu hàng, và vì thế sẽ bị giết đi. Ông William thích thú vì cái từ cứng cỏi của thời xưa: “Giết”. Đó là từ đích thật, còn từ “thanh toán” chỉ là lừa dối. Peter hối hận khi giết con chó của hắn, nhưng hắn sẽ không ngần ngại giết một con người thông minh và có giáo dục hơn hắn, nếu về sau, thời cơ thuận lợi, con người này tìm cách bảo vệ luật pháp, nền luật pháp mà Peter muốn thấy bị đạp đổ. Susan có bao giờ hiểu được thằng chồng của nó? Nếu cơ hội như thế xảy đến, Susan sẽ đứng về phía con người thô lỗ ấy hay sẽ trung thành với huyết thống của này? Ông William tự hỏi, nhưng làm sao tin được một người đàn bà mà tình yêu bị lâm nguy?
Những tư tưởng u buồn trôi qua trong một đêm mùa hạ...
- Ba làm gì đó? Sao ngồi trong bóng tối thế? - Susan hỏi với giọng ngọt ngào, êm như nhung, nhưng vẫn cố chấp.
- Ba suy nghĩ. - Ông William nói.
Susan không tìm biết cha cô đang suy nghĩ về vấn đề gì. Cô bấm hết nút đèn này đến nút đèn khác, cho đến khi cả gian phòng lớn và yên tĩnh chan hòa ánh sáng. Chắc chắn cô ta đâu có cần biết cha cô đang suy nghĩ gì.
- Con không muốn làm ba phiền lòng. - Susan dịu dàng nói.
Cô ngồi trên chiếc ghế nệm dài giữa vùng ánh sáng, tựa mình vào cùi chỏ, co hai chân lại. Cô mặc áo dài xanh nhạt, tay cụt, váy rộng, xem vóc dáng thì cô chỉ là một cô bé, một cô bé đáng gờm, ông William tự nhủ, nó được quý mến, được nuông chiều, quá thông minh và quá đáng yêu.
Qua bao nhiêu năm, ông biết Susan chỉ thích làm cho người ta để ý đến mình, và ông đột ngột hỏi:
- Ba muốn biết, các con đã chôn con chó ở đâu?
Ông biết, khi nêu lên câu hỏi này là ông có hậu ý. Ông muốn biết chắc một lần cuối là con vật tai họa đó không còn nữa.
- Peter đã mang nó ra ngoài đồng và vất vào hầm đá bỏ hoang.
Hầm đá này đầy nước, sâu không đáy. Nhiều năm về trước, nó được dùng làm hồ tắm, trẻ con ở nông trại đến tắm ở đây cho đến ngày có một đứa bị chết đuối mà không tìm được xác. Từ đó cái hồ nước này bị cấm sử dụng.
- Được, thế thì tốt, ba không muốn nó chôn trong đất của chúng ta.
- Con chó quá to! - Susan nói với vẻ thờ ơ - Peter bảo phải mất nửa ngày mới đào xong cái lỗ, nếu muốn chôn nó. Anh ấy tiếc là đã làm phí mất một con chó tốt.
- Nó là một con thú hoang! - Ông William nói.
Rồi sự im lặng lại buông xuống, tuy nhẹ nhàng mà căng thẳng. Bà Elinor bất thần phá tan sự im lặng ấy. Bà hỏi:
- Con định làm chuyện gì mà sợ phiền lòng ba mẹ đấy?
Bà vào khi Susan đang bật đèn. Bà ngồi vào cái ghế bành bọc nhung, và trái với thói quen thường ngày, bà đốt một điếu thuốc, vừa hút vừa nhấm nháp tách cà phê.
- Có lẽ chúng ta cũng chẳng phiền lòng gì đâu. - Ông William nói.
- Có chứ, có đấy, - Susan tuyên bố - nhưng không thể nào tránh được, con nghĩ thế. Con biết con đã làm cho ba mẹ thất vọng vì con đoán chừng ba mẹ đã hiểu được ý con, là con không muốn đi học nữa...
Ông William đã sợ điều ấy. Susan đã nói bóng nói gió về việc này khi ở bãi biển, và lúc về nhà, ông đã thấy được quyết tâm của cô muốn bỏ học, ở nhà hẳn. Cả hai ông bà không ai nói gì cả. Susan gạt mớ tóc ngắn phủ xuống trán, và chơi đùa với chiếc nhẫn trên tay.
- Con muốn kết hôn với Peter, ngay lập tức. - Susan nói.
- Ồ không! - Bà Elinor kêu lên, đưa tay ra như để ngăn lại.
- Thưa mẹ, con không muốn nghi lễ rình rang.
- Trời đất, con! - Bà lại kêu lên.
- Peter có vẻ đần độn, con biết chắc như thế. Đừng, ba mẹ đừng nói gì với con hết. Con biết rõ từng lời ba mẹ có thể nói với con. Con biết ba mẹ nghĩ gì về Peter. Con thấy rõ điều đó trong mắt của ba mẹ mỗi lần ngó anh ta. Vì thế mà con đã bảo anh ta đi về hôm nay. Con muốn chỉ mình con trình bày hơn thiệt với ba mẹ. Con biết ba mẹ nghĩ gì về anh ta.
Mặt cô cau có, tỏ vẻ giận dỗi. Bà Elinor hỏi:
- Và điều đó chẳng có nghĩa lý gì đối với con cả sao?
- Không, không phải là con chẳng lấy làm điều, nhưng nó không thay đổi được gì nơi Peter cả. Con sẽ lấy anh ấy làm chồng.
- Chừng nào? - Ông William hỏi, cổ như nghẹn lại.
- Bất kể ngày nào, càng sớm càng tốt.
Sự im lặng lại bao trùm lấy mọi người. Đây là kết cuộc của lũ con ông, ông William thầm nghĩ. Vì chúng nó mà ông phải làm việc cực nhọc, từ chối các thú vui của riêng mình, vì chúng nó mà ông phải thức dậy nửa đêm - Ông nhớ lại con gái ông có thói quen khát nước sau nửa đêm, khi ông đang say giấc ngủ đầu hôm, đêm này qua đêm khác, ông phải trở dậy đi kiếm ly, rót nước cho con để chia phần trách nhiệm và san sẻ với bà Elinor. Công việc đó đâu có nhẹ nhàng, ông thuộc hạng người bị căng thẳng thần kinh, một khi đã thức giấc thì rất khó ngủ lại, vì thế làm xong công việc ấy thì phải mất một hai giờ tìm lại giấc ngủ. Và công việc ấy kéo dài nhiều năm. Một ly nước đầy bên giường nó đâu đã đủ. Nó còn đòi cha nó phải làm thật nhanh, nó phải cảm thấy cha nó hiện diện bên nó, và ly nước phải thật đầy. Ông William vừa hỏi vừa vỗ về con.
- Con hãy giải thích cho ba nghe, tại sao con yêu nó? Nếu ba hiểu được, ba sẽ dễ dàng để con ra đi. Bởi vì một khi con đã yêu nó là con bỏ ba mẹ hoàn toàn.
Ông nhìn thấy vẻ sợ hãi trong đôi mắt của Susan khi ông nói những lời đó. Bà Elinor vội vã nói:
- Không đâu. Nó trở lại gia đình mình lúc nào mà chả được. Hôn nhân đời bây giờ có gì là vĩnh viễn. Xin ly dị là được thôi.
- Con không bao giờ ly dị. Peter muốn làm gì thì làm. Con mãi mãi trung tín với anh ấy.
- Con hãy giải thích cho ba nghe, tại sao con yêu nó? - Ông lại hỏi lần nữa.
Câu hỏi này làm cho Susan luống cuống, đến độ không biết nói sao. Cô cắn môi dưới đỏ tía, và nhìn móng tay. Ông William nói tiếp:
- Nó không đúng là hạng người mà ba mẹ nhắm cho con. Ba cũng chẳng tiếc rẻ lắm chuyện con bỏ đại học sớm. Ba biết đàn bà con gái bây giờ vội lấy chồng, vì chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, điều đó cũng dễ hiểu. Nhưng Peter là một người xa lạ đối với ba mẹ, và phần nào nó cũng còn xa lạ đối với con, ba nghĩ vậy.
Ông giữ giọng nói bình tĩnh, thái độ của một quan tòa, và càng thực tế càng hay.
Muốn cho con có thì giờ suy nghĩ trước khi trả lời, ông nói tiếp:
- Ba mẹ biết con hơn là con tưởng. Ba chẳng theo phong tục Á Đông chọn chồng cho con gái. Nhưng dù sao, ba mẹ cũng biết rõ con hơn.
- Vâng, phải nói là ba mẹ biết con rất rõ. Ba mẹ biết con không ăn được gan, không ăn được hành, màu con thích nhất là màu xanh lá cây, con thích chơi quần vọt, con không thích môn toán. Nhưng những điều con nghĩ và những điều con cảm, cha mẹ không biết đâu.
Susan nói, tiếng tắt nghẹn trong cổ, và cô nuốt nước mắt.
- Có những điều con không nói ra thì ba mẹ không biết. - Ông William trả lời một cách nghiêm chỉnh. Ông hết sức muốn đưa tay ra kéo con lại trên gối mình như khi nó còn nhỏ, để ngăn không cho nó khóc nữa. Nhưng bây giờ con gái ông đã là một người đàn bà. Một người đàn ông khác có thể làm được điều đó, nhưng không phải ông.
Bà Elinor vẫn làm thinh, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Bà có hiểu không, bà không hiểu sao? Ông nhìn bà có vẻ trách móc, bà hiểu được ngay ý nghĩ của ông, nhưng bà tảng lờ. Bà làm ra vẻ như muốn nói với ông rằng ông hãy xử lý theo lối của ông. Và thật vậy, ông sẽ làm như thế. Susan không thể nào quá khác với đứa con mà ông đã biết và ông đã hết lòng yêu thương. Nó không có tính rắc rối. Trái lại nó thẳng tính, cường điệu khi nóng giận cũng như khi yêu đương, đơn giản hơn Edwin rất nhiều. Susan không có những lúc ngậm miệng ăn thua như anh của cô. Cô chỉ thay đổi từ khi gặp Peter đến nay.
- Con gặp Peter ở đâu? - Ông hỏi với giọng khó chịu, ngỡ ngàng vì chưa bao giờ đặt câu hỏi ấy.
- Tại một đêm vũ hội.
Có thể là như vậy, ông tự bảo trong khi Susan kể tiếp. Họ gặp nhau vào giai đoạn mà các lớp học đều lộn xộn vì chiến tranh. Peter từ Thái Bình Dương trở về, và trên đường đi, dừng lại để thăm một người bạn đồng đội ở Poughkepsie, một người quê New York mà Susan đã có dịp làm quen qua một cô bạn. Cậu này dễ mến, học ở Yale. Peter đã là chiến hữu của cậu ta nơoi một hòn đảo xa xăm, và có lúc đã cứu mạng Peter.
Susan bật cười trong khi kể chuyện.
- Câu chuyện theo lẽ phải xảy ra ngược lại. Peter to lớn, còn Eliot thì bé tí, mà không phải chỉ bé về vóc dáng mà còn nhát như thỏ. Cha cậu ta là Mục sư thuộc Giáo hội Anh quốc, nhưng cậu không có chút gì là giống con một Mục sư cả, mặc dù con biết là cậu ta cũng có ý định đi giảng đạo như cha. Peter len lỏi vào trong các ngọn núi ở Okinawa, sẵn sàng tỏ ra mình là anh hùng, còn Eliot thì đang chết khiếp (chính cậu ta thú nhận như thế). Cậu ta len lỏi theo sau Peter, thật sự được Peter che chở, sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ gì anh ta trông thấy. Thế nhưng chính Eliot lại trông thấy kẻ thù trước tiên và đã bắn trúng.
Susan lấy lại giọng bình thường, hai mắt ráo hoảnh:
- Peter không bao giờ quên chuyện ấy. Eliot đứng tới vai của Peter là cùng, và Peter thì dùng một cánh tay cũng đủ nhấc cậu ta lên khỏi mặt đất.
Điều đó đã làm cho Susan thích thú.
- Tại sao con không yêu Eliot? - Bà Elinor hỏi cách bình tĩnh.
Susan dùng hai tay vuốt tóc, có vẻ khích động.
- Ôi, làm thế nào được? Eliot thì bé tí và yếu đuối. Còn Peter thì to cao và mạnh khỏe. Phải chi ba mẹ thấy anh ta chộp con chó... Xem như anh ta chiến đấu với một con gấu, siết nắm tay quanh cổ con chó và đẩy đầu nó ra sau, cho đến khi nghe tiếng xương cổ nó gẫy đánh rắc.
- Susan...! - Bà Elinor rùng mình kêu lên.
Susan nhìn mẹ, lạ lùng.
- Mẹ khó chịu, phải không? Con thì không. Đó là sự khác biệt giữa thế hệ của mẹ và thế hệ của con. Đó cũng là điều làm cho con yêu một người như Peter. Với Peter thì con được tự do hoàn toàn. Con chả cần lưu ý đến điều gì con nói, việc gì con làm. Điều mà cả ba lẫn mẹ không hiểu, đó là thời thế đã thay đổi rồi. Thế giới bây giờ đâu phải là thế giới mà ba mẹ hình dung, hay là thế giới mà ba mẹ bảo con nó là như thế. Là một thế giới khác rồi, không có gì ngăn chận nó lại được, và chính con sắp sống trong cái thế giới đó. Peter hiểu con muốn nói gì. Anh ấy cho rằng chỉ có sự cương quyết đấu tranh cho đời sống là đáng nói thôi. Tất cả những gì cũ kỹ, dịu dàng, mềm yếu, đều đã biến mất.
- Nhưng Eliot? - Ông William nói cầu may.
- Đó là một chuyện ngẫu nhiên - Susan hăng hái nói - Cái đó không thay đổi được gì cả. Eliot đã nói cậu ta chẳng có tiên liệu gì cả, cậu ta đang chết vì sợ. Cậu ta cũng chẳng biết cớ sự đã xảy ra làm sao. Cậu cũng chẳng nghĩ đến Peter nữa.
Susan vụt đúng dậy, bước đi một cách nhàn nhã trong phòng khách, đong đưa cái váy rộng màu xanh của mình.
- Con sống với Peter thật là thoải mái. Anh ta chả thiết cái gì cả: những kiểu cách đẹp đẽ của con, những lịch thiệp của con...
- Nó cũng chẳng lưu tâm đến vệ sinh nữa! - Bà Elinor nói cay.
Susan quay về phía bà, đáp:
- Không. Anh ta coi như không, coi như chẳng có gì quan trọng. Cái đó hợp với anh ta. Con hiểu được điều đó. Ngày nào cũng tắm, cũng kỳ cọ, cũng chà xát, vào nhà chùi chân, ra ngoài phải mang dép, thì bụi bặm trở thành một điều kỳ diệu... Con vào nhà anh ta bùn lấm đến đâu tùy thích. Con có tắm hay không cũng không ai để ý. Con có thể ăn theo ý con muốn, ăn chỗ nào con thích, ăn thứ gì con ưa, nói hay làm gì tùy ý, kể cả chửi thề, nếu con muốn. Đó là cách sống của Peter và con thích như vậy.
- Thực sự, chưa bao giờ con nói về gia đình của Peter cả. - Bà Elinor nhắc.
Susan hết nhìn người này đến người khác như thể cô ta muốn hỏi cô có tin cậy vào họ được không. Ông William thấy được điều đó, nên dịu dàng khuyên khích con:
- Con nói đi, nhà cửa nó thế nào?
Susan can đảm, xua đi những nỗi nghi ngờ, và cha mẹ cô cố gắng theo dõi câu chuyện.
- Ba mẹ có thể gọi đó là một cái chồi cũng được, nhưng nó có rất nhiều gian, càng sinh thêm con thì càng tiếp tục cất thêm ra nữa. Một ngôi nhà bằng gỗ, khuất giữa một cánh rừng cách đường lộ hai dặm, và cách ga-ra của Peter cũng chừng đó. Một nông trại thô sơ giữa lưng chừng núi. Mùa màng thu hoạch từ mảnh đất ấy với những dụng cụ thô sơ, cũ kỹ, không đủ cho con cái ăn, nhưng nhờ không khí thanh khiết, và nguồn nước trong lành, con cái họ to lớn, mạnh khỏe và chắc nịch. Tất cả có sáu trai, hai gái. Peter là út, nên khi sinh ra thì các anh chị đã rời khỏi gia đình, chỉ trừ một người chị trở lại với ba đứa con trai khi chồng bị tử trận, nghe đâu bên Miến Điện mà họ cho đó là một thành phố.
Nhà chỉ có một cái gác gỗ, còn thì là gian trệt kế tiếp nhau, gian giữa dùng vừa làm bếp, phòng ăn và phòng khách. Đó là một gian dài đã hư nát, chất đầy bàn ghế đã dùng rồi, ghế ngồi thì hủng sau, hình dáng chông chênh, gối đệm độn lông ngỗng hay nhồi bông vải rừng, ngồi khá êm. Không có sân, nhà nằm giữa vườn rau và cánh đồng. Những con gà giò, vài con ngỗng sẫm màu, chạy qua chạy lại dưới thanh gỗ hình cong của cổng vào.
Ban đầu Susan cũng ghê tởm cái nhà, song ở lâu, cô khám phá ra là nó sạch theo kiểu của nó. Nhà không có tranh vẽ, đệm nằm nhồi vỏ trái khô, hoặc nơi phòng dành cho khách mà cô đang ở, đệm nhồi bằng lông ngỗng. Nhà cũng chẳng có quyển sách nào ngoài quyển Thánh Kinh của gia đình, và một ít sách ảnh mà chẳng ai muốn đọc. Cũng chẳng có đàn, trừ cây đàn Ghita mà Peter thỉnh thoảng chơi khi có hứng. Người ta đi tắm trong suối cách đó một phần tư dặm, hoặc tắm nơi cái ông dẫn nước đặt trong hầm củi. Ông Dobbs già có nói chuyện bắt điện, song chẳng ai tin mà cũng chẳng ai quan tâm đến việc đó. Bà Dobbs nấu bếp trên cái lò bằng gang và giặt áo giữa trời với nước sôi trong thùng giặt bằng sắt nấu củi.
Dù vậy, Susan quyết rằng cô thích sống ở đó: cảnh vật yên tĩnh, cây cối to lớn và im lìm, nước suối trong, nếu không muốn nói thì ngậm thinh, vì nói chỉ là chuyện thừa. Marianna chị của Peter tánh hay buồn, nhưng vẫn tiếp tục sống, linh hoạt, bà lo cho các con bà và giữ chúng nó rất sạch. Bà yêu các con hết lòng, nhưng có thể qưở mắng dữ dội khi cần. Trong gia đình, họ không có phân biệt đối xử. Họ biết cách cư xử với từng người một, và hết thảy đều mạnh, không mập, sống rất khòe. Chuyện học hành xem ra vô ích, đời sống đơn sơ và dễ chịu. Họ khoái nhìn Susan cắm hoa trong một cái ấm, mà chẳng một ai trong họ có ý nghĩ làm như thế. Buổi chiều họ ngồi dưới cổng vào, có kẻ nói chuyện có người không. Sao cũng được.
Điều Susan không nói ra được ở đây, trong phòng khách phía Đông này, bởi vì đóng khung trong vòng núi, tình yêu trở nên sâu thẳm, đến độ không còn gì ngoài nó cả. Yêu hay ghét, thức hay ngủ, sống hay chết, là những chuyện đối kháng nhau và phải chọn lấy. Những chuyện rắc rối, sự văn minh, đơn thuần là chuyện không có thật.
- Thế hệ của con khá đầy đủ những gì văn minh - Sau cùng Susan nói, giọng nói quá đỗi già dặn - chúng ta không hiểu tại sao chúng ta phải làm điều thiên hạ nói, hoặc phải chết vì lý do mà chúng ta không hiểu được. Chúng ta mỏi mệt bị đùn qua đẩy lại. Ở trên đó, nơi núi rừng, chẳng ai điều khiến con nữa. Con chỉ lo sống và sống với Peter.
Ông bà William im lặng nghe con nói, họ cảm thấy bị ngỡ ngàng, bị xúc phạm. Bà Elinor để điếu thuốc xuống mà tay bà ran ran. Bà nghẹn ngào nói:
- Đó chẳng phải chỉ là trở về nguồn mà thôi, mà là chọn một suối lạ, là loại bỏ sự văn minh. Con cũng chưa văn minh đủ để hiểu văn minh là gì. Nhưng tại sao? Tại sao?
Bà chẳng đặt ra một câu hỏi, mà chỉ kêu lên là bà không hiểu nổi, trước sụ bí nhiệm này.
Ông William đến bên bà, nắm lấy bàn tay đang run run của bà.
- Em đùng đau lòng quá thể như vậy, em yêu.
Susan quay mặt lại nhìn họ giận dữ, hai mắt sáng ngời.
- Ô kìa, ba mẹ! Ba mẹ biết gì hơn, ba mẹ chỉ biết một điều đã chết, đã biến mất. Con sẽ được an toàn với Peter, ba mẹ có hiểu không? Dù có gì xảy ra đi chăng nữa, con vẫn an toàn với anh ấy. Anh ấy cứng cỏi, hùng dũng, chả sợ ai. Peter có hai nắm tay và luôn sẵn sàng chiến đấu.
- Trời đất!... - Ông William than - Đời người đơn giản đến thế sao?
Ông quay mình và không chống nổi ý muốn bỏ đi. Ông rút lui về thư phòng và đóng của lại. Rồi ông ngồi xuống, hai tay ôm lấy đầu. Những lời con gái ông nói đã làm chết tất cả niềm tin của ông. Có những nắm tay, chuẩn bị chiến đấu, trèo qua quả núi để đánh úp quân thù, chẳng cần biết là quân thù nào, sự điên cuồng của tấm lòng chân chất đến thế đã làm tan nát trái tim ông! Và trí thông minh đã trốn đi đâu mất rồi? Ai đã giết chết nơi thế hệ này, sự dũng cảm của tinh thần, sự gan dạ của tư tưởng, chân lý của con người có bao giờ tái sinh trở lại? Ông đã lỗi lầm gì trong tư cách làm chồng, và Elinor trong tư cách làm vợ, để con của họ, kho tàng của họ, có thể chọn để chui vào nơi trú ẩn của súc vật như vậy? Susan cũng ngốc nghếch như Jessica, những mộng mơ của cô cũng huyễn hoặc và lòng tin của cô chắc cũng sẽ bị diệt vong.
Ông đứng lên, đi qua đi lại trong phòng một hồi lâu, đó là cách biểu lộ nơi ông sức linh hoạt của tư tưởng, mỗi khi gặp ca rối rắm về pháp lý. Trí khôn của con ông vẫn còn, nó chỉ bị lầm lạc vì tình cảm, vì những gay cấn ở đời, vì lo sợ vô ý thức của thế hệ mình, gây ra bởi một nỗi âu lo không ngừng vì chiến tranh có thể làm tổn thương người vợ cũng như người chồng, người vợ mà nền tảng là tình yêu và tổ âm. Susan sẽ giữ được trí khôn lành mạnh, nếu ông tách được cô ta ra khỏi ảnh hưởng của Peter, dù chỉ một thời gian ngắn, đem cô ta đi nghỉ với bà Elinor ở một nơi nào đó, có thể sang Anh, nơi người ta đã bảo ông rằng người đàn bà chung thủy hơn, chín chắn hơn, trong một dân tộc có lâu đời hơn dân tộc của ông, có thể cô ta sẽ được cứu thoát. Cô ta còn ngây thơ quá để chọn lựa tương lai cho mình, ông quyết định nhanh chóng. Nhiều công việc luôn đợi chờ ông ở Anh. Ông tạo cho nó có tính cách thúc bách và đòi hỏi phải ra đi tức thì, ngày mai nếu được. Nếu Susan không chịu đi theo, ông sẽ bắt buộc cô. Gương mặt dài rám nắng của ông trở nên nghiêm khắc, ông lấy vẻ mặt nghiêm nghị mà các phạm nhân thường khiếp sợ, mở cửa và nhất định đương đầu với đối thủ yêu quý của ông. Ông nói:
- Chúng ta đi sang Anh.
Ông đứng, tay cầm cái kính lão đưa qua đưa lại. Ông nói:
- Tôi đã gọi điện thoại giữ chỗ trên chiếc tàu thủy Queen Mary. Cuộc du hành bằng tàu thủy qua biển cả sẽ làm sáng sủa tâm trí của chúng ta, và cho chúng ta có thời gian suy nghĩ. Chúng ta sang bên Anh để xem thanh niên nam nữ ở bên đó có tư tưởng quay về chiến tranh và đánh đấm hay không.
Ông hết nhìn gương mặt ngỡ ngàng của người này đến gương mặt ngỡ ngàng của người khác. Ông nói tiếp:
- Tôi không yêu cầu các người tán thành tôi, mà đòi hỏi các người phải tuân phục. Chúng ta hết thảy đều cần có định hướng. Ba cần cho con đấy, Susan ạ. Hiện giờ con cư xử như một con ngốc! Thế giới không đáng chán như con tưởng đâu. Con đã tự đặt mình ở mức độ khá thấp để phán đoán, mà còn nhiều cách nữa. Cám ơn Chúa, thanh niên tất cả không phải là nhũng tên như Peter. Các anh của con là một chứng minh...
Susan cãi lại. Cô nói giữa hai hàm răng khít rịt:
- Hai người đó! Ba có nhận Winsten là một con người đúng nghĩa hay không? Anh ta la một người cha, đơn thuần chỉ là một người cha mà thôi.
Bà Elinor càu nhàu lớn giọng:
- Câm miệng lại đi, nó đến kia kìa...
Và Winsten đến thật. Anh từ nhà thương về. Anh đứng ở ngưỡng của, dáng điệu sợ sệt, nhìn họ mỉm cười, nụ cười tê tái. Anh hỏi:
- Mấy đứa trẻ có ngoan không mẹ?
Anh ta đã bắt chúng đi ngủ sớm, trước lúc anh ra đi. Bà Elinor đáp:
- Mẹ không nghe một tiếng động nào, chắc chúng nó đã ngủ cả rồi. Con đã ăn tối chưa?
- Con đã ăn ở Manchester - Winsten nói. Anh đi vào và ngồi xuống đốt một điếu thuốc.
- Madge ra sao? - Bà Elinor hỏi.
Phải có ai đó để hỏi cái câu cần hỏi chứ. Ông William thì ngồi bất động, con Susan thì đang quạu.
- Vợ con rất khỏe. Bác sĩ quả quyết cuối tuần cô ấy về được. - Winsten nói có vẻ nhẹ mình - Người ta cho cô ấy được dậy ngày mai. Thật lạ lùng. Cái gì hôm nay cũng có vẻ lạ lùng. Chúng ta làm những chuyện mà hôm qua người ta đoán là xấu.
Winsten lại mỉm cười bằng một nu cười héo hắt, và bắt gặp vẻ chiến thắng trên gương mặt của Susan. Anh ta quay về phía ông William và hỏi:
- Con có làm cản trở câu chuyện của ba không?
Susan đứng lên, vẻ cương quyết, nói:
- Không, không có chi. Con đi ngủ đây. Thế là hết, thưa quý vị.
Cô đưa hai tay cầm cái váy rộng của mình và vừa đi ra vừa nhún nhảy, hai chân như không đụng đất. Ông William quan sát con và hiểu là cô con gái của ông nhất quyết không vâng lời ông. Ông trân mình, ngồi thẳng người, ông cảm thấy mạch máu căng lên trong huyết quản một cách nguy hiểm. Ông tự bảo: đây là cái cách làm cho máu tăng lên quá độ, bọn trẻ thường dùng để làm cho bọn già mau chết. Ông buộc lòng tự thư giãn, hít những hơi thật sâu và không để ý gì đến câu chuyện thuốc men giữa Winsten và bà Elinor. Một lát sau, bà Elinor hỏi:
- William, anh thấy khó chịu trong người à?
- Ừ, - Ông trả lời với cách cực chẳng đã - nhưng chẳng hề chi, em đừng lo. Winsten, con vừa nói gì khi nãy?
- May phước con đã sinh ra gặp thời, con đã thoát được cuộc chiến tranh trước và quá già với cuộc chiến tranh sau.
Ông William đứng dậy nói:
- Hôm nay tôi cảm thấy mệt kinh khủng.
Ông do dư, và bỗng nhớ lại, nếu để Winsten một mình với mẹ, thì bà Elinor sẽ kể chuyện ông lo lắng cho Susan, và Winsten bao giờ cũng hành động theo lương tâm, sẽ coi như là bổn phận thuật lại cho mẹ anh nghe những lời nói phi lý của Jessica về ông. Nhưng sự mệt nhọc tràn ngập con người ông, che lấp mọi chuyện khác.
- Anh đi nghỉ đây em. - Ông nói mạnh dạn hơn.
Ông cúi xuống hôn vào má bà và cảm thấy bàn tay bà phớt qua mặt mình. Ông vừa bước lên cầu thang vừa nghĩ: như thế đủ rồi. Hôm nay như thế này còn hơn là đủ nữa. Thật là một phép lạ là ông còn đủ sức để làm việc nuôi vợ nuôi con.
* * * * *
Đêm ấy ông ngủ thật ngon, đến nỗi bàn tay bà Elinor vuốt ve má ông mà ông lại tưởng là nằm mơ kéo dài sự từ giã vừa qua. Ông tỉnh giấc. Ông nghe tiếng bà Elinor gọi ông từ một chốn xa xăm.
- William, anh yêu. Dậy đi. William, William!
- Cái gì thế? - Ông nói không ra tiếng, và chới với như rơi từ cõi hư vô.
Bà Elinor ngồi xuống giường, một bím tóc có ánh bạc tòn ten rũ xuống trên vai trần của bà. Bà hỏi:
- William, anh đã tỉnh chưa?
- Rồi, tỉnh rồi!
- Chưa, chưa tỉnh đâu, anh bạn khốn khổ của em. Ồ, William, anh thử xem.
Ông dần dần tỉnh thức, nặng nề vươn khỏi bóng tối, mở mắt và nhướng mày nhìn bà. Ông hỏi:
- Có gì bất ổn sao em?
- Em định không thức anh dậy - Bà thò thẻ - Nhưng em lại cảm thấy làm thế không nên. Anh hãy đến bên cửa sổ, mà đừng gây tiếng động.
Ông đứng lên. Bà nắm lấy bàn tay ông, hai người lần mò đến bên cửa sổ. Bà vén rèm của, và nói thật khẽ:
- Anh trông kìa.
Qua màn sương mù, ánh trăng chiếu soi mặt cỏ và con đường. Ông thấy có chiếc xe hơi, xe của Peter. Còn anh chàng thì đứng kế bên, bất động. Bà Elinor nói:
- Phòng Susan có ánh đèn. Em nghe tiếng nó khua động được nửa giờ rồi. Em nghe tiếng nó lên tầng trên và em biết không sai diễn tiến của sự việc. Em chờ xem xe của Peter đến ngoài đường và ngừng trước nhà. Bây giờ là bốn giờ sáng.
Ông William vội vàng bước ra cửa lớn, nhưng bà níu giữ ông lại.
- Anh đợi tí, đợi tí đã... Ý kiến của anh sang Anh thật là hay. Nhưng điều ấy hoàn toàn vô ích. Nước Anh cũng không gây được ấn tượng gì cho nó, cả Peter cũng thế. Có lẽ đối với chúng ta, chắc có. Mà đối với chúng nó thì chẳng có ai làm được gì. Anh William, anh hiểu không?
- Em muốn để nó làm hỏng cuộc đời của nó sao? - Ông William nói giọng khản đặc.
Bà choàng hai cánh tay qua cổ ông, rồi nói:
- Cứ để cho nó ra đi, anh William. Như thế có ngày nó sẽ trở lại. Nếu chúng ta tìm cách ngăn chận nó, thì nó thà chết con hơn là trở về...
Ông thấy mình quá do dự nên không nói ngược lại. Biết đâu bà có lý?
Bà đưa ông trở lại cửa sổ, tay trong tay, họ đứng chờ. Trái tim của họ cùng đập một nhịp đau thương, cái đau của riêng những người tuổi tác, cánh cửa được mở nhè nhẹ, và Susan bước ra, mỗi tay xách mỗi cái va-li. Peter giành lấy và để phía sau xe. Cả hai hành động trong im lặng, hai cái bóng trong sương mù, chúng ôm nhau, siết nhau một lúc lâu rồi lên xe. Xe chuyển bánh, đi chầm chậm qua con đường trải sỏi, qua cửa song sắt và biến dạng vào đêm.
Ông William thấy bà Elinor đang run rẩy. Bà khóc. Ông ôm bà vào lòng và siết vào ngực. Bà đã khóc bao lâu rồi? - Chắc bà đã khóc từ nhiều năm... Ông đâm sợ và cảm thấy thù ghét con cái ông. Nó cứ đi đi, cả tụi chúng nó cứ đi hết đi. Miễn là ông giữ được người vợ yêu quý của ông, chỉ một mình bà thuộc về ông là được rồi.
- Anh tự hỏi, tại sao chúng ta không bao giờ còn có con nữa? - Ông rít lên một cách dữ tợn, cổ như nghẹn lại.
Ông có cảm giác là bà đang nén tiếng khóc, nuốt vào những tiếng núc nở, và cố gắng để giữ bình tĩnh.
- Ôi, em cứ khóc đi - Ông năn nỉ bà - Đối với anh, điều đó chẳng có sao. Vì vậy, em cứ khóc đi, em yêu...
Bà lắc đầu và đứng nhích ra xa ông một chút. Bà nói:
- Em không muốn, không muốn khóc. Em khóc sẽ làm cho lòng anh tan nát, mà ở tuổi em...
- Ý nghĩ gì kỳ quái vậy?
- Không, em biết mà!
Bà đưa tay áo nhàu nhò lên chậm mắt, nuốt nước bọt một hai lần, rồi bà nói sau một lúc:
- Em tự hỏi...
- Em muốn biết gì nào? - Ông hỏi, giọng thiết tha.
Bà lại lắc đầu, cắn môi và nói tiếp:
- Em tự hỏi, chúng ta có nên nói với chúng nó biết là chúng ta đã thấy chúng nó ra đi, mà cứ để vậy?
Ông mỉm cười cay đắng:
- Điều đó làm tan nát cõi lòng chúng nó, vì chúng ta đã không giữ chúng nó lại. Điều đó làm hỏng tất cả tính cách anh hùng...
Bà mỉm cười, cười thành tiếng, rung lên, dứt quãng.
- Anh nói thế là đúng. Chúng ta không nên nói lại...
Rồi quay về phía chồng, bà lao mình vào tay ông, rúc đầu vào cái hốc trên vai ông và khóc một cách tuyệt vọng.
Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 6 năm 2015