← Quay lại trang sách

16 - 20

16 - ĐỒ PHẢN CHỦ Lão chánh tổng làng kia có con chó khôn lắm. Mỗi khi mắng người nhà, lão ta thường lấy con chó để sĩ nhục bọn họ. Trong bọn đầy tớ lão, có một anh thấy thế mới nghĩ cách báo thù. Bữa nọ, anh lại gần chủ, thưa rằng : - Bẩm ông, con cũng biết tính con ngây dại lắm. Ông bảo con chó nó khôn hơn con thật đúng. Ấy thế mà nếu con chó nhà ta, nó lại biết nói như người, thì còn quí biết bao. Lão chánh tổng cau mặt : - Mày khùng à, chó gì mà nói được ? Anh đầy tớ trả lời : - Dạ bẩm ông, ấy thế mà thật đấy. Trước đây ít bữa, có mấy quan về đi săn ở khu rừng làng ta, con đi theo coi thì rõ ràng có hai con chó biết nói tiếng người thật. Con lại gần hỏi các quan, mới biết thời buổi văn-minh này, đã mở trường để dạy chó biết nói tiếng người nữa. Lão chánh tổng tưởng thật : - Ờ, phải chớ, sáo cưỡng còn nói được, huống hồ là giống chó. Nếu không bận việc nhà, tao lên Sài-gòn một chuyến thử xem sao. Nhưng tức quá, không làm thế được, mùa gặt đến nơi rồi. Anh đầy tớ thưa: - Dạ bẩm ông, cái đó không ngại, ông cứ phó thác cho con. Thế rồi sáng hôm sau, anh đầy tớ được lệnh lão chánh cho phép dẫn chó lên Sài-gòn với một số tiền hai chục để thuốc men chi phí. Tới nơi, anh đầy tờ đem chó bán phứt cho tiệm mộc-tồn rồi đem số tiền hai chục nhảy vào sòng bạc để tính chuyện ăn thua. Sau khi ăn chơi đã và đánh bạc hết nhẵn, anh trở về. Lão chánh hỏi chó đâu, anh tatrả lời: - Bẩm ông, các quan Tây giỏi thật ! ai đời con vừa mới dẫn chó đến, các quan đã nhìn ngay và nói :

‘‘Con chó này khôn lắm’’. Con đưa ra hai chục và để con chó lại. Sáng nào con cũng đến thăm một lần. Hôm qua, lúc con đến, nó đã nói bập bẹ được một câu :

‘‘Nhà có khách, nhà có khách’’ . Quan Tây bảo về thưa với ông cho năm chục, ông đã đưa hai chục, con về xin nốt. Lão chánh không ngần ngại đưa tiền cho anh, anh lại đi Sài-gòn. Số tiền đó lại chui vào sòng bạc và mấy cô em ở hộp đêm. Ba hôm sau anh đầy tớ lại trở về. - Bẩm ông, giỏi thật, giỏi thật, lúc con vừa đến, con chó nhà ta đã chạy ra kêu : ‘‘Kìa, cậu đã lên chơi’’, rồi chuyện trò với con hồi lâu. Tuy nó nói được nhưng còn ngọng lắm. Quan Tây bảo còn phải ở lại dăm bữa nữa, để chích thêm thuốc, và các ngài bảo con về nói với ông cho thêm năm chục nữa. Lão chánh nói : - Năm chục nữa à, sao lắm thế, nhưng, nó nói được chứ? - Dạ ông cứ tin ở con. Thế là năm chục nữa của lão chánh tổng lại thòi ra, anh đầy tớ lại được một phen chơi bời thả cửa. Nhưng khác hơn lần trước, lần này anh ta ở mãi nửa tháng mới về. Khi tới cổng làng, anh ta đã ra vẻ bực tức, cằn nhằn. Lão chánh tổng không thấy chó, hỏi đâu- anh đầy tớ trả lời : - Bẩm ông, như thế thì tệ thật, tệ thật, con chó nhà ta nó chó lắm, nó liến thoắng như mấy tên bồi bếp, bồi tháng tiệm. Con vừa lên, nỏ hỏi thăm ông có mạnh khoẻ không? rồi nó nhe răng ra cười bảo : ‘‘Này đằng ấy, từ độ tớ đi vắng, lão chánh chúng mình dạo nầy có tò tí với con ở nữa không, còn chọc ghẹo con Tư Rơi để chồng nó vác dao sang tân nhà như trước nữa không ?’’ - Thưa ông, con nghe lộn ruột quá, nên đánh chết nó tức thì. Lão chánh nghe nói, bỗng đỏ mặt, thét lên : - Đồ phản chủ, quân bất lương, đồ phản chủ, mày giết nó đi là phước cho tao đấy !...

17.— MÈO HOÀN MÈO Anh chàng nọ có thằng con trai, đặt tên cho nó là thằng Mèo. Một hôm, người bạn ở xa tới chơi, biết vậy, bảo : - Bộ hết chữ rồi sao, mà anh lại đặt tên cho con như vậy ? Anh ta trả lời : - Không phải là hết chữ, mà vì thằng nhỏ nhà tôi nó nghịch lắm nên mới đặt ra như thế để xem nó có bớt phần nào không. Anh bạn đáp : - Nếu thế anh cho phép tôi đặt tên lại cho nó bớt phá. Anh nghe lời, kêu thằng con lên để nhờ anh bạn đặt tên lại. Thằng nhỏ đi lên. Anh bạn trông thấy bảo : - Này cháu ạ, ba cháu đặt tên cho cháu là Mèo, bác nghe kỳ quá, vậy để hôm nay bác đổi lại cho cháu, cháu chịu không ? Thằng bé gật đầu. Ông khách nói : - Bác đặt tên cho cháu là Phong, Phong nghĩa là gió, cháu chịu không? Vốn thằng nhỏ đã mười lăm mười sáu tuổi và đã đi học được ít năm, nên nó liến thoắng trả lời ngay : - Dạ, thưa bác, bác đặt tên khác chớ Phong thì còn kém vì tường năng tấn phong ? (tường cản được gió). Ông khách nói : - Thế thì đặt tên là Tường vậy. Thằng bé trả lời : - Cháu thấy Tường là đẹp, nhưng cũng; còn xoàng vì thử năng xuyên tường (chuột hay khoét tường) bác ạ. Ông khách nói : - Vậy thì tên Thử nhé ? Thằng bé trả lời : - Dạ thưa bác, Thử cũng không được vì miêu năng chóc thử (mèo bắt được chuột). Ông khách và ông chủ nhà, cả hai cùng, nhìn thằng bé tủm tỉm cười rồi lắc đầu bảo nhau : - Thôi cứ để tên nó là Mèo vậy, chớ biết làm sao bây giờ.

18.— VỎ QUÝT DẦY MÓNG TAY NHỌN Hai anh bạn-đường cùng đi chung với nhau, khi đến cái quán kia, cả hai cùng mua chung một quả mít bổ ăn và giao hẹn cứ tính hột xem anh nào ăn nhiều thì phải chịu trả phần tiền nhiều hay ít. Một anh có tánh tham ăn và láu cá, nên khi ăn nuốt cả hột, chỉ thỉnh thoảng mới bỏ một hột ra cho có lệ. Anh nọ biết ý, nhưng vẫn bình tĩnh không nói gì, đợi lúc ăn hết, anh mới ôm bụng òa lên khóc. Anh kia thấy thế, hỏi tại sao, anh nọ trả lời: - Trời ơi, làm sao mà cứu được, tôi lỡ nuốt phải một hột. Trời ơi, làm sao mà cứu được, ông nội tôi hồi xưa cũng vì nuốt phải hột mít, không biết lấy ra, để nó mọc cây ở trong bụng rồi chết. Nghe anh nọ nói, anh kia sợ cuống lên: - Ối trời ơi, thế thì làm sao bây giờ đượcr từ nãy tôi nuốt có đến cả chục hột. Anh nọ trả lời: - Ừ, ừ, thì chúng ta hãy tính tiền cả hột trong bụng và hột ở ngoài. Anh kia thẹn quá chẳng biết làm sao mà chữa được.

19.— TIỀN ‘‘ĐỒNG-MÔN’’ Chị đàn bà nọ có tánh hễ mỗi lần đi chợ là y như phải ăn quà cho no bụng đã thèm- Bữa nọ trên đường đi chợ về, chị vừa đi vừa tính để khi chồng hỏi thì trả lời cho xuôi chuyên ăn bớt, chị tính: - Hai đồng bạc bún, - Ba đồng bạc lòng, - Hai đồng bạc đậu phụ, - Một đồng bạc mắm tôm chanh. Bữa nay ăn hết, vị chi tất cả là sáu đồng. Tiền thịt một ký 20 đồng phải tính là 22 đồng. Tiền rau 5 đồng phải tính là 7 đồng. Tiền trà 2 đồng phải tính là 3 đồng. Tiền muối một đồng phải tính là hai đồng. Tính xong, chị vừa ngoe ngoảy vừa đi vừa nói thuộc lòng. - Hai mươi hai đồng bạc thịt, bảy đồng rau, ba đồng bạc trà, và hai đồng bạc muối. Ai dè trong khi chị vùa đi vừa tính thì một anh chàng nọ ở đằng sau nghe biết. Anh ta ghi lấy tất cả vào một tờ giấy rồi đưa cho chị ta: - Này chị, chị làm ơn đem giùm tôi tờ giấy này về đưa cho anh ấy, đây là tiền bổ đồng-môn để đi đám thầy học mới chết. Chị nhớ bảo anh ấy lo gấp. Chị kia tưởng thật, cầm lấy tờ giấy. Khi về đến nhà, chị để bịch thúng xuống, đưa tờ giấy cho chồng : - Này, môn với khoai, đi mà lo tiền để mà đi đám thầy đồ đi. Anh chồng cầm lấy tờ giấy, coi xong bảo : - Chữ nầy viết khó quá, để tôi đi lo mượn tiền, má mày cầm lại nhà tía hỏi xem họ viết những gì, rồi về ngay để tôi sửa soạn đi cho kịp. Chị vợ cầm giấy tất tả đi lại nhà cha đẻ, vừa đi vừa lẩm bẩm : - Học với hành, có bấy nhiêu chữ mà đọc cũng không ra. Khi về đến nhà cha đẻ, chị đưa tờ giấy cho ông già : - Nhà con bảo nhờ tía xem giùm anh xem họ viết những gì để đi đám tang thầy đồ. Ông già cầm lấy, xem xong, đỏ mặt thét : - Đồ khốn nạn ! đi chợ ăn bớt, mày mà không liệu tìm đường nói đi thì về nó đánh cho nhừ đòn, ai bảo mày ăn gì tới hai đồng bạc bún, ba đồng bạc lòng, với hai đồng đậu phụ, và một đồng mắm tôm chanh. Mày muốn cho tao mang xấu nữa hay sao mà cầm giấy này lại, muốn tốt đi ngay cho khỏi chỗ này mau...

20 - QUÝT LÀM CAM CHỊU Ngày xưa, có một anh chàng học hành chẳng có chi, nhưng tính hay nói chữ. Đã thế lại chỉ quanh năm ăn bám vợ, chớ chẳng làm được cái mẽ gì xem cho ra hồn. Bởi thế nên vợ anh và cả những anh em, họ hàng, làng xóm, ai ai cũng ghét, mạng danh cho anh là thằng cha ‘‘ăn bám vợ’’. Anh ta nghĩ lấy làm tức và nhục nhã, mới cùng một vài anh em bạn chí thân, nghĩ ra mưu kế để chuộc lại thanh danh, nhất là làm cho chị vợ phải phục. Một hôm anh ta nghĩ ra một kế rất tài tình. Bữa ấy, vợ anh đi chợ bị kẻ cắp lấy mất một quan tiền, về nhà nghĩ tức mãi. Nắm lấy cơ hội có một không hai này, anh ta đưa cho tên lạ mặt một quan tiền, và dặn cứ đúng đến giờ ngọ thì đem đến mà trả cho vợ anh, rồi anh sẽ thưởng cho. Thế rồi anh ta trở về khoe với vợ: - Má mày ạ, tao có một phép rất thần diệu là chỉ hít một cái thì thằng ăn trộm phải đem tiền đến mà trả. Chị vợ hỏi : - Phép đó ở đâu mà anh học được ? Anh ta đáp : - Thì từ bấy lâu nay, tao chẳng làm gì, chỉ ăn bám má mày để tu luyện phép ấy. Sở dĩ tao chưa dám nói cho má mày hay vì phép này của cụ Thái Thượng lão quân truyền cho, cụ hiện hồn lên bảo hễ chưa đắc đạo, phải giữ kín không cho ai biết. Nay tao đã đắc đạo, mới nói cho hay, vậy má mầy để tao thử hít cho mà coi. Nói đoạn, anh ta đưa mũi lên trời hít một cái thật dài. Anh ta vừa hít xong, tên kẻ cắp đã mang tiền đến trả, và xin vợ chồng anh tha lỗi. Chị vợ cả phục. Chiều đến, anh ta lại bảo vợ phải làm thịt gà vái đức Thái-Thượng để ngài phù hộ cho phép được linh-nghiệm. Thế là từ bữa ấy trở đi, chị vợ anh và tất cả mọi người trong họ ngoài làng, ai nấy đều phục anh, cho anh là một nhân tài hiếm có trong thiên hạ, và anh ta cũng hiu hiu tự đắc với mọi người, cho rằng mình đây cũng chẳng phải là kẻ tầm thường. Một truyền mười, mười truyền trăm, chẳng mấy chốc, anh ta nổi tiếng là một ông trạng ‘‘hít’’. Tiếng tăm trạng ‘‘hít’’ truyền đến tai vua. Bữa nọ, nhà vua bị kẻ trộm lấy hết cả vàng bạc, châu báu trong cung, tìm kiếm không ra, mới cho sứ giả đi mời Trạng Hít đến. Được lệnh vua mời, anh ta sợ hết hồn, nhưng nào có thể từ chối được, nên phải buộc lòng. ra đi, và nghĩ thôi phen này chắc hẳn là chết đến nơi rồi. Khi anh ta tới kinh đô, mới xin nhà vua cho nghỉ ngoài để hít, đặng lập kế thoát thân. Anh ta cũng nghĩ là mình đến ngày tận số. Nhưng không dè thánh nhân lại đãi kẻ khù- khờ ! Thấy có trạng đến, bọn ăn trộm nghe tin, cả sợ, tối đến mới lại rình xem trạng hít ra sao. Anh ta nằm trong nhà quán dịch, nghĩ mãi không ra được kế gì để thoát thân mới than thở : - Rổ thật là quýt làm cam chịu, trời đất ơi, sao mà qúyt làm cam chịu thế ! Anh ta chỉ than vậy, chớ nào có hít được gì đâu. Nhưng không dè hai thằng ăn trộm lại một lên là Cam và một tên là Quýt. Chúng nó nghe thấy giựt mình nên bước vào sụp lạy. - Lạy quan lớn tha cho, chúng con trót dại, xin quan lớn đừng tâu hòang-thượng. Anh ta lúc đó, mới được thể và quát tháo om sòm, khảo chỗ giấu ở đâu. Chúng nó sợ quá, phải khai ngay chỗ chôn, để cầu xin quan lớn sinh phúc đừng kê tên nó ra. Thế là sáng mai anh ta vào tâu vua đã hít được chỗ trộm giấu đồ. Nhà vua cho đi đào, quả nhiên lấy lại được hết, không thiếu một món gì, và để thưởng công, nhà vua mới tặng phong anh ta là Trạng Hít.