31 - 35
31 - ĐÊM KHUYA GÀ GÁY Một anh chàng nọ, vợ anh mới ở cữ, cô em vợ được cha mẹ cho đến để đêm lại bồng cháu giúp chị. Vốn có máu băm-lăm, nên anh ta mới lén xuống chân giường định bò sang bên giường của cô em vợ nằm. Thấy động ở dưới đất, cô em nhìn ra, biết ngay là anh rể, mới vừa bồng cháu vừa ru rằng : À................ ơi ! Đêm khuya gà gáy ó o, Hỡi chànq quân tử kia bò đi đâu ? Anh chàng ta nghe hát, cả thẹn, nên cũng đáp lại rằng : Đêm khuya gá gáy ó o, Anh ngủ không được anh bò anh chơi. Cô em vợ thấy thế, tức thì lại ru cháu, và hát đối lại rằng : — À........................ ơi / Cháu ơi cháu ngủ cho no, Đêm khuya gà gáy ó o, Của dì, dì giữ ai bò mặc ai. Anh chàng ta mắc cỡ, phải câm họng và bò trở lại giường mình.
32 - NƯỚC MẮM HÂM Một anh nọ có tính sợ vợ vô cùng và ngu hết chỗ nói. Bởi thế, suốt đời cứ bị vợ đàn áp mà không làm sao được. Anh ta biết thế là nhục, mắc cỡ với anh em bạn hữu. Song vì đã ngu lại yếu đuối, nên biết vậy mà vẫn phải cắm cổ phục tùng theo lệnh vợ chỉ huy. Một hôm có người bạn ở xa đến thăm. Anh ta chạy xuống nhà dưới năn nỉ với vợ : - Mẹ nó nè, bữa nay tôi có khách, vậy mẹ mày để tôi làm chồng một hôm. Nghĩa là bao giờ có mặt khách đến nhà thì mẹ mày để cho tôi được phép cự hay la lối gì thì la, chớ không khách khứa họ bảo vợ ăn hiếp chồng thì nhục cả. Tôi yêu cầu và đề-nghị mẹ mày cho tôi oai một bữa hôm nay thôi. Chị vợ thầy chồng quanh năm suốt tháng bị mình ăn hiếp, nghe nói cũng thương tình, nên ưng thuận để đẹp mặt cả đôi, và để được tiếng với anh em bạn hữu của chồng khen mình là một người vợ hiền. Vậy là bữa ấy anh ta được tự tung tự tác, chị vợ chẳng hề hé răng nửa lời đề cãi. Người bạn thấy thế cũng đem lòng thán phục. Tới bữa ăn. Mâm cơm dọn lên, món ngon, vật lạ đủ thứ. Tuy thế anh ta vẫn rầy vợ đủ chuyện : - Nào tô canh này sao mẹ nó nấu mặn quá thế này ? - Chèng ơi, món xào gì mà lại như thế này ? - Dĩa thịt làm sao mà nấu như thế này ? Thấy chồng chê bai đủ thử, chị vợ tuy tức lộn ruột, song chị vẫn vui cười và vẫn trả lời lễ phép với chồng. Anh chồng lúc đó thật như chim sổ lồng, anh quên cả phận mình nên lại lên mặt quá Ngó đi ngó lại, anh nhìn mâm cơm không biết còn món gì để chê. Tức quá, khi nhìn thấy chén nước mắm, anh la lại mừng và thét vợ : - Này mẹ nó, sao chén nước mắm này, mẹ nó không hâm lên. Nghe nói, người bạn lăn ra cười. Chi vợ thấy thế, mắc cỡ không thể nào còn chịu được cái ngốc của chồng, mới xúm lại túm tóc anh ta mà dần cho một trận nên thân. Vì chuyện đó đồn đi, nên thiên hạ sau này mới có cái tên ‘‘phường nước mắm hâm’’ để chỉ những anh chàng sợ vợ và ngu ngốc.
33 - HÁN VƯƠNG ĂN ỚT Có bốn anh chàng nọ, tính thích làm thơ nôm đáo để, vì anh nào cũng hy vọng thành một thi nhân để tiếng trên đời như Đỗ Phủ, Lý Bạch. Một bữa nọ, cả bốn anh rủ nhau đi chơi. Khi đến một cái miếu thờ Quan Công, trên bàn thờ có treo một bức tranh vẽ Quan Công ngồi giữa, còn một bên là ông Châu Xương, một bên nữa là ông Quan Bình Nhưng cả bốn anh, nào có biết là đền thờ ai, và bức tranh vẽ gì. Ấy vậy mà bốn anh cũng rủ nhau mỗi người làm một câu thơ để góp lại cho thàhh một bài thơ tứ tuyệt để kỷ niệm một cuộc đi chơi có tính chất phong nhã. Tẩt cả cùng tán thành. Anh thứ nhất khơi đọc : - Hán Vương ăn ớt mặt đỏ gay. Anh thứ hai đọc tiếp : - Một bên thái tử đứng khoanh tay. Anh thứ ba, trông thấy hình ông Châu Xương đọc-tiếp : - Thằng mọi râu ria cầm cái mác. Một bức tranh vẽ ba ông, mà ba anh đa đọc hết, còn anh thứ tư không biết làm sao. Anh nhìn mãi, thấy ở trên bàn thờ có hai con hạc bằng đồng đứng lên lưng con rùa, nhưng nào anh có biết con chi chi, bởi thế nên anh ta mới tiếp ngay : - Còn bên cò quắm đạp cà cay. Tất cả bốn anh cùng nức nở khen hay và ghép lại thành một bài thơ tứ tuyệt ở trước bàn thờ Quan Vân Trường nhà Hán : Hán Vương ăn ớt mặt đỏ gay. Một bên thái tử đứng khoanh tay. Thằng mọi râu ria cằm cái mác. Còn bên cò quắm đạp cà cay.
34 - THUA GÌ ĐƯỜNG HÁN Một ông quan võ có tánh thích làm thơ, nhưng thơ ông chẳng ra quái gì, nên ít ai ca tụng. Tuy thế, ông cũng vẫn làm, vì ở bên cạnh nhà ông, có một anh chàng vốn dĩ trời sanh cho cái tánh nịnh, cho nên bất cứ bài nào của ông làm ra đọc cho nghe, anh ta cũng đều khen hay hết thảy. Một anh thích nịnh, lại gặp được một anh hay nịnh, bởi thế cho nên cả hai cùng ý hợp tâm đầu, nên hễ ông quan võ làm được bài nào thì lại gọi anh ta sang, đọc cho anh ta nghe, để anh ta khen hay và rồi cho anh ta nhậu. Một hôm, ông quan võ làm xong một cái chuồng bồ câu, hứng chí, ông làm một bài thơ tứ tuyệt, rồi chiều đến ông cho gọi chàng kia sang nhậu, để đọc cho anh ta nghe : Bốn cột chông chênh đứng giữa trời Khi thì bay bổng lúc bay khơi. Ngày sau hẳn đẻ ra con cháu, Nướng chả, băm viên đánh chén chơi. Đọc xong, ông. nói : - Đó tôi đọc, bác nghe được không ? Anh chàng kia, nức nở khen hay và phân tách, bình phẩm từng câu : - Hay lắm, xin quan lớn đọc lại cho con nghe lần nữa. Ông quan võ đọc: - Bốn cột chông chênh đứng giữa trời ; Anh chàng kia phân tách bình phẩm liền ngay : - Hay lắm con xét như câu này, thì quan lớn ngày sau sẽ làm đến tứ trụ. - Khi thì bay bổng lúc bay khơi. - Hay, hay lắm, ngài còn thăng quan tiến tước nữa chớ chẳng thế này đâu. - Ngày sau hẳn đẻ ra con cháu, - Trời ơi, hay quá nữa, gia đình quan lớn còn phát tài, sai lộc, đa đinh nữa. - Nướng chả, băm viên đánh chén chơi - Hay quá, hậu vận quan lớn còn được an nhàn và phong lưu phú quí. Được anh ta khen, ông quan võ mũi nở ra to bằng cái gáo. Ông rung đùi đắc chí và rót thêm rượu ba-xi-đế vào cho anh ta. - Thơ tôi lắm câu cũng tự nhiên nhất; bữa nay vui tôi thử làm một bài thơ tức cảnh, xem sao. Anh kia nghe nói liền hứng ngay vào - Dạ bẫm quan lớn như thế thì còn gì cho bằng ; để quan lớn làm, rồi con sẽ xin phép họa theo. Chàng ta vừa nói xong, thì có con chó ở trong gầm chui ra gặm xương. Ông quan võ ngó quanh chẳng thấy cảnh gì nên thơ, chỉ thấy có con chó, nên ông mới tức cảnh làm ngay thơ ‘‘chó’’ rằng : Chẳng phải ngựa, bò, chẳng phải trâu Tục danh con chó sủa gâu gâu. Khi nằm với vợ thì lại đứng; Cả kiếp không ăn một miếng trầu. Anh kia gật đầu khen hay, hớp một ly rượu rồi anh ta đọc tiếp để họa vận bài thơ con chó: Quanh năm đường đít lại đường đầu, Hễ thấy ai vào sủa gâu gâu. Ăn hết của thơm lẫn của thối, Trăm năm chẳng được hớp trà tầu. Chàng ta đọc xong, cả hai cùng tấm tắc khen hay và cùng mời nhau rót thêm rượu. Một chị đàn bà ở lối xóm nghe được câu chuyện văn thơ này, chị ta vốn cũng có học chút đỉnh, nên tối đến, chị mới ru con và hát lớn lên rằng: Văn như quan lớn vô Tiền Hán; Thơ đáo thằng tôi thất Thịnh Đường. Anh chàng kia, và ông quan võ nọ, biết chị ta hát xỏ mình, nhưng cũng đành ngậm tăm để chịu, chớ biết làm sao được.
35 - TỘI HÒA THƯỢNG Tại ngôi chùa nọ có một ông Hòa thượng và bốn lão thầy chùa. Một đêm đi làm đám ở xa về đói bụng, ngang qua nhà sau, thấy có một cây dừa có trái rất nhiều. Tất cả năm người mới dừng chân lại, bàn mưu tính kế hái trộm để ăn cho đỡ lòng. Nhưng khốn nỗi lại sợ khi trái dừa rớt xuống làm động đất, chủ nhà hay chạy ra bắt được, thì xấu hổ cả đám, còn mặt mũi nào là những vị tu hành. Nghĩ vậy, ông Hòa thượng mới giải thích cho bốn lão thầy chùa hay, rồi phân công, tự mình leo lên hái, còn bốn lão đứng dưới căng mền ra hứng, mỗi lão phải giữ một góc mền. Làm như thế, khi trái dừa rớt xuống rất êm, không sợ gì ai biết. Phân công xong, ông Hòa-thượng leo lên. Giá như người ta bẻ từng trái một thì đâu có chuyện gì xảy ra. Đằng này không thế, ông ta lại sẵn máu tham vặn cả quày rồi từ trên ngọn dừa ném xuống. Tưởng vậy là nhất cử lưỡng tiện. Không, dè quày dừa nặng quá rớt xuống làm bốn lão thầy chùa dủm lại rồi đụng đầu vào nhau, chết nhăn răng một lượt. Ông Hòa thượng sợ quá, vội vàng từ trên cao nhảv xuống, chạy thẳng về chùa. Giữa lúc dạng hốt hoảng không biết lập cách nào đem bốn cái xác lão thầy chùa đi được, thì dịp đâu may mắn, bắt gặp một thằng trộm đang cạy cửa. Ông liền nảy ra mưu kế, lén chạy lại nắm ngay lấy nó mà bảo : - Mày làm gì thế, thôi đừng ăn trộm nữa mang tội với Phật và bị người ta cười cho đấy. Thằng ăn trộm lạy van, xin tha vì hoàn cảnh nhà nghèo, chớ không muốn làm vậy. Ông Hòa-thượng phán : - Đã thế, tao cũng tha, sẵn đây ở trong chùa mới có một người bị bệnh. chết. Vậy mày chịu khó đem đi chôn giùm, tao sẽ trả một trăm quan tiền. Thằng ăn trộm bằng lòng, ông ta liền bảo nó đứng đợi, rồi mở cửa chùa, lẻn ra ngõ hậu đi kéo một xác thầy chùa đem vào trong. Đoạn kêu nó vào giao đem chôn đi và dặn : - Thằng này chết gặp giờ linh, vậy mày có chôn, chôn cho khéo, không nó lại bò về đây nữa. Thằng ăn trộm vâng vâng dạ dạ, xóc anh thầy chùa lên vai, và thẳng ra cánh đồng chôn. Trong lúc nó đi, ông Hòa thượng lại đi kéo xác anh thầy chùa khác. Chôn xong, thằng ăn trộm về chùa để lãnh tiền thì Hòa thượng lại chỉ và bảo rằng : - Tao đã dặn mày phải cho kỹ lưỡng, mà không biết làm sao, lại để nó bò về thế này ? Thằng ăn trộm nhìn, quả đầu trọc lóc bình vôi, còn mình thì bận áo cà sa. Nó tưởng hiện về thật, nên lại vác chạy ra ngoài đồng chôn nữa. Khi chôn xong trở về, ông Hòa thượng lại nói gạt như trước. Và một lần nữa, đến xác anh thầy chùa thứ tư, thằng ăn trộm tức mình không đem chôn nữa mà thay vào bằng cách ra ngoài sông liệng xuống cho cá mập xơi, đặng không còn hiện hồn về được nữa. Khi nó liệng đánh ầm một cái thì ở trên bãi cỏ một anh cùi sợ quá nhảy lên. Anh này cũng đầu trọc, nên thằng ăn trộm tưởng anh thầy chùa hiện về nữa, nên vội vàng sấn lại xốc nách, rồi giương thẳng cánh mà liệng ra giữa dòng. Vừa liệng nó vừa nói : - Lại còn muốn về mà báo hại bắt tao chôn lần nữa phải không ? Làm xong đâu đó, thằng ăn trộm trở về chùa lãnh tiền. Không dè trong lúc nó đem anh thầy chùa thứ tư đi thì ông Hòa thượng vì thức khuya mệt quá nằm lăn ra đó mà ngủ say như chết, nên trong lúc hốt hoảng, nó lại tưởng cái thây ma trở lại mới cả giận rút ngay dao ra đâm một lát vào cổ cho khỏi hiện về. Thế là một mình nó phải chôn tới bốn cái thây ma và giết oan hai mạng ngay trong một đêm. Tới phiên ông Hòa thượng, nó cũng đem xác ra ngoài sông để táng cho cá mập, rồi lại trở về để lãnh số tiền mướn. Lần này nó chắc chắn là được, nhưng không dè tới chùa thì lúc đó mặt trời đã hừng đông. Nó vào chùa, chẳng còn thấy một bóng ai nữa, mà chỉ còn thấy một vũng máu. Đã mất công khó nhọc quá xá, lại không được lãnh một đồng tiền mướn nào, nên nó phát uất lên mà chết liền tại đó. Khi xuống dưới âm phủ được ba tháng mười ngày, nó mới biết rõ đầu đuôi câu chuyện và phát đơn đi kiện ông Hòa thượng. Diêm Vương sai quỷ sứ đi bắt ông Hòa thượng và bốn lão thầy chùa vào xử. Tất cả đều cung khai sự thật, nên ngài mới phán rằng tất cả tội trạng này đều do ông Hòa thượng gây ra và ông này phải gánh lấy hết trách nhiệm. Phán xong, ngài bắt ông Hòa thượng phải đầu thai lên làm người chuyên nghề quanh năm suốt tháng đi leo dừa mướn cho thiên hạ để chuộc lại những tội lỗi đã gây. Do đó mà từ ấy trở đi mới nẩy sinh ra những người đi leo dừa để bẻ trái xuống, rồi nghề ấy, được truyền đi khắp nơi có nhiều kẻ cũng bắt chuớc làm theo.