← Quay lại trang sách

46 - 50

46 - PHÁT ĐIÊN Trong một phiên xử, quan tòa hỏi bị can : - Tại sao ông tát bà này trên xe buýt ? Bị cáo : - Thưa quan toà, tôi với bà này đi chung chuyến xe buýt. Bà ngồi đâu mặt với tôi. Đầu tiên tôi thấy ba ta mở ví ra lục lạo như tìm vật chi, rồi lại đóng ví lại, rồi mở ví ra, rồi lấy hộp phấn, rồi dồi mặt, rồi bỏ vào ví, rồi đóng ví lại, rồi mở ví ra, lấy nước hoa xức, rồi đóng ví lại, rồi mở ví ra, rồi... Quan toà ngắt lời : - Tôi hỏi ông tại sao, sao ông không trả lời ngay lại nói quanh nói quẩn ? Bị cáo : - Dạ thưa quan tòa cho tôi nói tiếp vì nó là sự thật... rồi lấy tiền cầm ở tay, rồi mở ví ra bỏ tiền vào, rồi đóng ví lại, rồi mở ví ra lấy son tô môi, rồi đóng ví lại, rồi... Quan tòa sốt ruột : - Ông ăn nói gì lạ vậy ? Ông làm tôi phát điên lên hả ? Bị cáo cười ; - Dạ, dạ, chính tôi cũng như quan toà vậy ! Tôi điên lên, nên mới tát cho bà ta một cát đấy ạ !

47 - NGŨ PHÚC LÂM MÔN Sáng mùng một tết nọ, có năm anh chàng cùng rủ nhau đến nhà ông Nhạc để chúc thọ một lượt. Khi chuyện trò được một lúc, anh thứ nhất vì ngứa đầu quá không dám gãi, nên ứng khẩu đọc : Con hươu nó ở trên rừng, Nó ăn lá lộc mọc sừng lên đây. Đoạn anh ta đưa tay lên đầu gãi lia lịa cho đỡ ngứa. Anh thứ hai vì có chứng bệnh thò lò mũi, nhưng không dám đưa tay chùi, sợ ông nhạc biết, liền ngâm : Một đàn chim nhạn bay ngang, Bay đi bay lại nó sang bên này. Rồi anh ta lấy tay áo đưa lên mũi quệt qua quệt lại cho nước mũi khỏi chảy dài xuống miệng. Anh thứ ba lại đau mắt, bị xốn xang khó chịu quá, nước mắt cứ trào ra, nhưng nghĩ không lẽ đưa khăn lên chùi mắt, sợ ông nhạc cười, anh ta cũng ứng khẩu: Nghĩ đời mà chán cho đời, Hai hàng lệ ngọc thương người xót xa ! Thế rồi anh ta cũng điềm nhiên đưa khăn lên chặm mắt. Rồi đến anh thứ tư bị ngứa ở bộ hạ, ngứa quá, không thể nào chịu nổi, anh ta đọc luôn : Thì tôi thua sắc kém tài, Tôi xin lui xuống cho người khác lên. Vừa lúc ấy, anh thứ năm xì hơi trung tiện ra, khiến cả nhà bịt mũi. Mắc cỡ anh ta không biết làm sao chữa thẹn, nhân thấy ông nhạc đang thắp nhang trước bàn thiên ngoài cửa, liền tức cảnh đọc hai câu tập Kiều : Trông ra nào thấy đâu nào, Hương thừa nhường vẫn ra vào đâu đây, Ông Nhạc nghe được thích quá vừa cắm nhang vừa nức nở khen tuyệt và quay lại năm anh chàng rể, rồi báo với bà nhạc : - Bà nó thấy chưa, năm mới năm me, nhà mình ngũ phúc lâm môn đấy !

48 – TRỜI SINH THẾ Ông nhà giàu nọ có hai chàng rể : rể lớn là một dân cày chất phác hiền lành. Nhưng tính cục mịch, rể nhỏ là một anh học trò chăm học, nhưng lại hay khoe chữ nghĩa. Bữa nọ nhân có mặt hai chàng, ông bố vợ muốn thử tài anh rể nhỏ, nhân thể để làm bẽ mặt (1) anh rể lớn, liền rủ hai anh đi dạo chơi quanh làng. Đến bên một cái ao, thấy đàn ngỗng đang bơi lội, tiếng kêu oang oác, ông bố vợ hỏi anh rể nhỏ tại sao ngỗng lại kêu to thế, anh này nghiêm trang đáp : - Trường cảnh tắc đại thanh (nghĩa là cổ dài thì tiếng kêu to). Rồi ông quay lại hỏi anh rể lớn, anh này tặc lưỡi thưa : - Trời sinh thế ! Ông bố vợ cười chế nhạo, và thầm phục anh rể nhỏ hay chữ. Khi gặp một đàn vịt, ông bố vợ hỏi tại sao vịt nói trên mặt nước, anh rể nhỏ trả lời : - Đa mao thiểu nhục tắc phù (nhiều lông ít thịt thì nổi). Còn anh rể lớn cũng lại nói : ‘‘Trời sinh thế !’’. Cuối cùng đến một tảng đá lớn nứt đôi ở gần đồi, ông bố vợ hỏi tại sao tảng đá nứt ra, anh rể nhỏ đáp : - Phi nhân đả tắc lôi đả (không người đánh tất trời đánh). Còn anh rể lớn cũng chỉ lại nhắc : ‘‘Trời sinh thế !’’. Về đến nhà, anh rể nhỏ được bố vợ khen ngợi nên lên mặt. Anh rể lớn thấy vậy, tức quá đỏ mặt vặn lại anh rể nhỏ : Chú mày bảo ‘‘Trường cảnh tắc đại thanh’’ thế con ễnh ương cổ đâu mà cũng kêu to ? Còn ‘‘đa mao thiểu nhục tắc phù’’ thế cái thuyền làm gì có mao, có nhục mà cũng nổi ? Đến đá nứt mà chú mày bảo ‘‘phi nhân đả tắc lôi đả’’ thì láo quá, láo quá. Tao hỏi cái chỗ chú mày ở bụng mẹ chui ra, nhân nào đả, lôi nào đả, sao nó cũng nứt đôi ra vậy. Thế chẳng phải ‘trời sinh’’ là gì thế? ! I Chú thích : [1] bỉ mặt.

49 - ẤY ĐI XEM Xưa có anh chồng rất mực quí vợ, bạn bè mời đi chơi, dù cố nài ép thế nào, anh ta cũng trở về nhà trước nửa đêm. Một hôm, vì quá vui anh vui em, chén chú chén bác, anh ta say quá, không thể trở về trước nửa đêm như thường lệ được, nên phải ngủ lại nhà bạn. Sáng hôm sau, khi trở về tới nhà, người vú già đã đứng đón sẵn và báo tin rằng : - ‘‘Thưa cậu, mợ ở nhà bị ốm, từ sáng tới giờ chưa ăn uống gì cả. Cháu hỏi mợ có ăn cháo không để cháu nấu, nhưng mợ không ăn; cháu hỏi mợ có ăn canh bánh đa để cháu đi mua, nhưng mợ chẳng chịu ăn gì cả, hiện mợ đang nằm trong buồng’’. Anh chồng hốt hoảng vừa đi vào vừa lẩm bẩm một mình : ‘‘Mình thật là vô tình quá, vợ ở nhà đau ốm mà không hay, không biết ốm đau ra làm sao đây ? » Khi anh chồng vào buồng, thấy vợ nằm quay mặt trở ra, trông có vẻ thiểu não lắm, anh chồng liền ngồi xuống giường, vừa hỏi vừa để tay lên trán vợ : - Mình ốm làm sao ? Anh vì bị mấy người bạn ép uống say quá không về được, mình tha lỗi cho anh nhé ! Mình đã ăn uống gì chưa ? Để anh bảo đi mua bánh mình ăn nhé ! Chị vợ không nói năng gì cả anh chồng lại hỏi : - Hay là mình ăn cháo gà nhé ? Chị vợ bèn gắt lên : - Để yên cho người ta nằm. Rồi quay ngay mặt trở vào. Anh chồng tức quá, đứng ngay lên định nói : ‘‘Ông lại nện cho một trận bây giờ !’’. Nhưng vốn nể sợ, anh ta không dám dùng chữ ‘‘nện’’ liền nói rằng : - Ông lại ‘‘ấy’’ cho một cái bây giờ ! Chị vợ nghe thế liền quay ngoắt ngay lại cong cớn : - A !Có giỏi thì ‘‘ấy’’ đi xem nào...

50 - THƠ QUAN VÕ Một bữa nọ, bốn ông quan võ, thấy bọn quan văn cậy có tài làm thơ, cũng rủ nhau về tư dinh uống rượu làm thơ. Nhân trước mặt có cây khoai nước, bốn ông dùng làm đề mục ngâm vịnh. Ông thứ nhất mở mào : Ai khéo sinh ra cái giống khoai. Ông thứ hai nghĩ rồi đọc : Dọc nó làm dưa cưng dẻo dai. Ông thứ ba ngâm tiếp : Củ nó luộc ăn coi cũng khá. Ông thứ tư nghĩ rằng cây khoai chỉ có củ dọc, thi đã được hai ông nói tới rồi, vậy chỉ còn lá. Lúng túng mãi không biết tả cái lá như thế nào, chợt ông nghĩ ra rồi vỗ đùi ngâm : Lá nó như, như... rứa mới tài, Đọc xong bốn ông thích chỉ vỗ tay cười ha hả. Một ông khoái chí quá đề nghị : - Thêm, thêm, và làm thơ chữ, chứ không thèm thơ nôm nữa. Nhân thấy cây tùng, bốn ông lại lấy đó làm đề. Ông thứ nhất đọc : Hạnh ngộ tri âm, hạnh ngộ tùng. (May gặp tri âm, may gặp thông). Ông thứ hai vốn đã nghe lỏm được một câu thơ cổ về Tích Trương Kế liền ứng khẩu tiếp luôn : Sơ tam sơ tứ nguyệt mung lung. Ông thứ ba chợt nhớ đến câu sấm Trạng Trình đọc liền : Mã đề dương cước anh hùng tận. Ông thứ tư chẳng hiểu ba ông kia nói những gì, nhưng nhớ đến mấy tên trong sự tích hát tuồng liền chắp thành câu kết : Quan Công đại chiến Uất Trì Cung. Ngâm xong, cả bốn ông lại cười ha hả và tự cho như thế quả thật là văn võ song toàn.