← Quay lại trang sách

khúc chuyển giao SỐ HAI Chương 10 LỜI TÁC GIẢ: TÌM MÌNH TRONG THẾ GIỚI HẬU TUỔI THƠ

Để lại tuổi thơ đằng sau, người trẻ cần làm những gì để bước vào đời sống của người lớn, để có thể được coi là trưởng thành? Học một nghề, tập quản lý tài chính, học chịu trách nhiệm, tập tự quyết, trở nên “biết suy nghĩ” hơn, có lẽ đó là những câu trả lời phổ biến từ gia đình, nhà trường, và xã hội mà người trẻ hay nhận được. Nhưng với nhiều nhà tâm lý học phát triển, những bài tập kia chỉ là bề nổi. Mang tính nền tảng hơn, người trẻ cần giải quyết ba vấn đề cơ bản sau: trưởng thành về cảm xúc, thông qua việc xây dựng cho mình năng lực cảm xúc (emotional competence); phát triển khả năng suy ngẫm, lập luận về phải trái, đúng sai (moral reasoning); và xác định một căn tính (identity) riêng của mình, trong đó việc tách rời khỏi cha mẹ, trở thành một cá thể độc lập, là một yếu tố cơ bản. Chúng ta hãy lần lượt đi sâu vào ba khía cạnh này.

Xây dựng năng lực cảm xúc

Có những người gặp khó khăn để diễn tả nội tâm của mình, họ không biết mình đang bị căng thẳng vì lo lắng, tổn thương hay tức giận, hay vì cả ba điều này, họ chỉ thấy mình đang “sắp phát điên lên.” Ngược lại, những người tinh tế có thể ý thức được những cảm xúc chồng chéo bên trong mình, nhận ra thời điểm chúng tới và khoảnh khắc chúng ra đi. Đây là đặc điểm đầu tiên của năng lực cảm xúc: cá nhân có khả năng đi vào trong bản thân và nhận diện được quang cảnh tình cảm của mình. “Tôi vui vì được ở với bố, nhưng tôi buồn vì chỉ được gặp mẹ vào cuối tuần,” một đứa trẻ có năng lực cảm xúc phát triển có thể nắm bắt, gọi tên những mâu thuẫn trong mình như vậy.

Đặc điểm quan trọng thứ hai của năng lực cảm xúc là khả năng đi vào người đối diện, dựa vào những biểu cảm của họ và vào bối cảnh mà nhận biết và diễn giải được cảm xúc của họ. Khuôn mặt kia, ngôn ngữ cơ thể đó đang toát ra những điều gì, và nguyên do gì nằm sau chúng? Mặt khác, hiểu được sự vận hành cảm xúc của người khác cũng giúp người ta ý thức được về tác động của mình tới người kia, và qua đó điều chỉnh các biểu đạt của mình cho phù hợp. Một thực khách có thể vẫn khen món ăn của chủ nhà dù mình không thực sự thích, để người kia không bị tổn thương một cách không cần thiết. Ngược lại, người vô cảm là người thiếu khả năng đoán nhận được tác động của các hành vi hay lời nói của mình tới phong cảnh cảm xúc của người đối diện. Năng lực cảm xúc là một phần của năng lực xã hội, người có năng lực cảm xúc cao có khả năng hợp tác, nhận biết xung đột và giải quyết chúng một cách tích cực và qua đó xây dựng được các quan hệ giàu có và hài hòa cho mọi bên liên quan.

Cuối cùng, khía cạnh thứ ba của dạng năng lực này là khả năng điều hòa để ứng phó với các cảm xúc tiêu cực trong các tình huống khó khăn. Điều này giúp người ta kiểm soát được các xung động của mình, qua đó có thể thích ứng trước áp lực, uyển chuyển ứng phó trước những khó khăn của cuộc đời. Một ví dụ là tình huống bị khước từ. Thay vì bị nhấn chìm bởi giận dữ hay đau buồn khi nhu cầu của mình không được đáp ứng, người ta ghi nhận cảm giác tệ hại đang trỗi dậy bên trong mình, không chối bỏ nó, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh để đối thoại, suy nghĩ hay tự khích lệ, và qua đó phục hồi nhanh hơn.

Giống như mọi năng lực khác, năng lực cảm xúc được trau dồi qua thực hành, được xây dựng qua năm tháng. Có nhiều nguồn tác động tới năng lực cảm xúc của người trẻ: môi trường xã hội, trường học, bạn bè, gen, nhưng cha mẹ được cho là một trong những nguồn quan trọng nhất. Nếu được người lớn quan tâm tới đời sống tình cảm của mình, trẻ sẽ cảm thấy được khích lệ để thể hiện cảm xúc, và qua đó dần hiểu và diễn giải về chúng tốt hơn. Đáng tiếc, trong nhiều gia đình, sự quan tâm của cha mẹ chỉ hướng tới phần xác của trẻ: ăn uống, sức khỏe, học hành. Phần hồn của nó, những niềm vui, nỗi buồn, sự thấp thỏm, những hồi hộp và hy vọng, không được chạm tới. Vì hiểu biết lệch lạc về nghĩa vụ làm cha mẹ, vì bản thân có nhiều nhu cầu không được đáp ứng, vì chính họ có năng lực cảm xúc thấp, những cha mẹ này không nhận biết và ứng xử phù hợp được với cảm xúc của con mình. Những biểu hiện của tâm hồn đứa trẻ không được ghi nhận và phản hồi. Ở mức tệ hơn, những buồn bã, tổn thương, mong mỏi, khao khát của nó bị gạt đi, bị miệt thị là vớ vẩn hay cáo buộc là ích kỷ và gây phiền.

Do thiếu cơ hội rèn luyện, đứa trẻ lớn lên trong một gia đình có bố mẹ xa cách, lạnh nhạt hay hung hãn, hằn học thường sẽ lóng ngóng trong việc thể hiện tình cảm và sau này gặp khó khăn để trình bày các trải nghiệm cảm xúc của mình, ví dụ cho bạn đời hay bác sĩ tâm lý. Trẻ bị ngược đãi thường kém hơn trong khả năng hiểu được các tín hiệu biểu đạt trên khuôn mặt người khác, và do đó vụng về hơn trong tương tác với bạn bè. Khi bị xáo trộn, chúng cũng ít có khả năng tự điều hòa cảm xúc của mình hơn - chúng chưa bao giờ quan sát được điều đó ở cha mẹ mình, những người thường hay bị cuốn theo những xung động giận dữ hay tuyệt vọng một cách mất kiểm soát. Ở cực ngược lại, người có năng lực cảm xúc vừa biết cách biểu đạt rõ ràng vừa biết cách lắng nghe. Họ có cảm giác làm chủ bản thân, bình an và tự tại.

Phát triển khả năng lập luận về đúng sai

Một quá trình quan trọng khác mà người trẻ phải đi qua là phát triển năng lực lập luận về đạo đức. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này được bắt đầu bởi Lawrence Kohlberg, một nhà tâm lý học người Mỹ, vào thập kỷ 1960. Khi nói tới phát triển đạo đức, Kohlberg không có hàm ý là người trẻ cần tiếp nhận một hệ giá trị đạo đức sẵn có nào đó, mà ông nói tới khả năng suy ngẫm liên quan tới công bằng và công lý. Kohlberg theo dõi một nhóm trẻ em từ mười tới mười sáu tuổi qua nhiều năm và nhận ra rằng trong quá trình lớn lên, khả năng này của chúng phát triển từ thô sơ, đơn giản tới tinh tế và phức tạp.

Vợ của một người đàn ông đang ốm nặng mà ông ta không có đủ tiền để mua một loại thuốc đắt tiền (với giá đó, chủ hiệu thuốc sẽ thu được một khoản lợi nhuận lớn), ông ta vật nài người chủ hiệu thuốc để được giảm giá, nhưng bất thành. Liệu ông ta có nên đột nhập vào cửa hàng và lấy trộm thuốc? Vì sao nên, vì sao không nên?

Đây là một tình huống có tên là song đề của Heinz (tên của người đàn ông có vợ ốm nặng) mà Kohlberg hay dùng trong các phỏng vấn sâu của mình. Theo Kohlberg, quá trình trưởng thành đạo đức có ba mức mà các cá nhân phải lần lượt đi qua chứ không thể nhảy cóc. Mặt khác, khi đã đạt được một mức nhất định, người ta sẽ không tụt xuống mức trước đó.

Mức đầu tiên được Kohlberg đặt tên là tiền quy ước (pre-convention). Các cá nhân ở mức phát triển này không dùng các quy ước xã hội để định hướng cho ứng xử của mình. Một hành vi được coi là sai nếu nó bị trừng phạt. Ăn bánh của bạn mà không được sự đồng ý được coi là sai, không phải vì cái bánh là tài sản của bạn hay điều đó làm bạn buồn, mà vì nó đem lại hậu quả là bị cô giáo mắng. Ngược lại, một hành vi được coi là ổn nếu nó không dẫn tới sự trừng phạt. Vượt đèn đỏ là chấp nhận được nếu như ở thời điểm đó không có công an.

Cũng ở mức này, “tốt” là những gì đem lại lợi ích cho bản thân. “Tôi được cái gì?” là câu hỏi chủ đạo để định hướng hành vi cá nhân. Một đứa trẻ đồng ý làm việc nhà vì được bố mẹ trả tiền (chứ không phải vì nó cho rằng nên giúp đỡ người lớn) là người nằm ở mức phát triển này. Nhu cầu và lợi ích của người khác chỉ được xem xét nếu nó đem lại lợi ích cho bản thân, theo phương châm hai bên cùng có lợi.

Mức này phổ biến ở các trẻ em nhỏ, nhưng cũng có ở nhiều người lớn (như có thể thấy qua ví dụ vượt đèn đỏ). Những cá nhân ở mức này có xu hướng tuân thủ máy móc để tránh bị phạt mà không đặt câu hỏi về tính hợp lý của quyền lực.

Ở mức phát triển thứ hai, mức quy ước (conventional), người ta có khả năng suy ngẫm vượt ra khỏi mối quan tâm trước mắt về lợi ích cá nhân. Người ở mức này coi những quy ước của cộng đồng là chuẩn mực của đạo đức. Động cơ đằng sau của họ là mong muốn được người khác nhìn nhận mình như một “thành viên tốt,” để mình có một hình ảnh đẹp trong mắt người khác. Cũng ở mức này, người ta cho rằng mình có nghĩa vụ giữ vững trật tự xã hội (được xây dựng qua các quy ước và quy định), vì nếu ai cũng bất tuân thì hệ thống sẽ sụp đổ. Đạo đức được đánh đồng với tuân thủ các quy định, quy ước, và do đó, vẫn được áp đặt từ bên ngoài. Người ta không thách thức chúng và không đặt câu hỏi về tính công bằng hay hàm lượng công lý của chúng.

Phần lớn người trẻ, trong quá trình phát triển của mình, sẽ dừng lại ở mức này.

Mức ba, mức cao nhất của sự trưởng thành đạo đức, được Kohlberg gọi là hậu quy ước (post-conventional). Những người ở mức này coi luật lệ và quy định là cần thiết và hữu ích nhưng không đóng cứng; chúng có thể, và cần được thay đổi nếu chúng đi ngược với quan điểm của họ về tự do và công lý. Họ hành xử theo niềm tin cá nhân về thế nào là lẽ phải, và niềm tin cá nhân này có thể xung đột với những quy định hiện tại của xã hội. Với người quan sát bên ngoài, người ở mức ba và người ở mức một dường như giống nhau, nhưng sự khác nhau nằm ở chỗ người ở mức một hành xử để mình có lợi nhất và để không bị trừng phạt, còn những người ở mức ba hành xử theo nguyên tắc đạo đức của mình và để không bị lương tâm lên án.

Trong xã hội, chỉ một số nhỏ cá nhân đạt được tới mức độ phát triển này.

Với song đề của Heinz bên trên, các cá nhân ở các mức phát triển khác nhau có thể có những câu trả lời như thế nào? Lưu ý một lần nữa là mức phát triển của ai đó không được thể hiện qua việc họ tán thành hay phản đối hành vi ăn trộm thuốc, mà qua cách thức người đó lập luận để đi đến quan điểm của mình.

Những tính toán của một người ở mức phát triển tiền quy ước xoay quanh lợi ích của bản thân và khả năng bị trừng phạt, anh ta có thể sẽ cho rằng:

“Heinz nên ăn cắp nhưng cần rất khéo léo để khỏi bị bắt.” Hoặc:

“Heinz không nên ăn cắp vì cuộc sống trong tù sẽ rất kinh khủng mà chưa chắc đã cứu được vợ.”

Khác với người ở mức một, người ở mức hai nhìn mình trong tổng thể của một tập thể lớn hơn. Anh ta có xu hướng hành xử để được người khác chấp nhận và để giữ trật tự và sự ổn định của cộng đồng (mà không đặt câu hỏi về ý nghĩa và sự hợp lý của các quy ước mà cộng đồng đang sử dụng). Một người ở mức này có thể sẽ trả lời:

“Heinz nên ăn cắp, nếu không thì sẽ bị mang tiếng là không hết lòng vì người thân.” Hoặc là:

“Heinz không nên ăn cắp vì đó là vi phạm pháp luật.”

Ở mức ba, mức hậu quy ước, những quyết định đạo đức của một cá nhân thực sự độc lập. Chúng đến từ nhận thức và những nguyên tắc đạo đức của họ, mà không bị ô nhiễm bởi sự sợ hãi quyền lực hay ham muốn lợi lộc hay nhu cầu được tán thưởng và chấp thuận. Vượt ra ngoài luật lệ hiện hành, họ đi tìm lời giải phù hợp hơn để giải quyết xung đột về công bằng và công lý mà tình huống đưa ra. Người ở mức phát triển này có thể sẽ trả lời:

“Heinz nên ăn cắp thuốc, cứu mạng sống là nguyên tắc đạo đức cao nhất và cần được ưu tiên hơn là lợi nhuận (của người chủ hiệu thuốc), và luật pháp cần được thay đổi để không ai phải chết vì nghèo.” Hoặc là:

“Heinz không nên ăn cắp thuốc vì người khác có thể cũng cần thuốc như vợ ông ta, và mọi mạng sống có giá trị như nhau.”

Trẻ em bắt đầu ở mức phát triển thứ nhất, chúng đơn giản không đủ nhận thức để hiểu về những triết lý vận hành ở các mức sau. Trong quá trình trưởng thành, thông thường một đứa trẻ mười bốn tuổi sẽ có những suy nghĩ “chín chắn” và nhiều chiều hơn một đứa trẻ tám tuổi. Tuy nhiên, nhiều người già vẫn nằm ở mức phát triển đầu tiên, trong khi một đứa trẻ mười lăm tuổi đã có thể xây dựng cho mình những suy nghĩ ở mức ba. Một cá nhân dịch chuyển từ một mức lên mức tiếp theo không phải đơn thuần qua học vẹt những lời răn dạy, mà qua những khủng hoảng nội tâm. Khi thấy bất an với quan điểm của mình, khi thấy nó không trả lời được cho tình huống và trải nghiệm mới gặp, họ phải tìm cách giải quyết xung đột và qua đó đạt được một tầm nhận thức mới.

Mục tiêu của giáo dục trong gia đình và trong nhà trường là hỗ trợ để trẻ em và người trẻ đạt được mức độ phát triển cao nhất. Điều đó chỉ có thể xảy ra khi chúng sống trong một môi trường cởi mở, nơi chúng được tự do suy nghĩ, được hướng dẫn có cái nhìn đa chiều, được dìu dắt để nhận ra mâu thuẫn trong lập luận của mình, được khuyến khích xây dựng quan điểm cá nhân và phản biện cái nhìn của người lớn mà không bị phán xét. Người lớn chỉ trích, phủ nhận cái nhìn của người trẻ và áp đặt quan điểm của mình bằng “lên lớp” hay ra lệnh sẽ không giúp người trẻ trưởng thành. Có thể nhiều cha mẹ Việt không muốn nghe điều này, nhưng với Kohlberg và các nhà tâm lý học phát triển khác, sự độc lập trong tư duy của người trẻ là điều cần thiết và cần được ưu tiên, chứ không phải quyền của cha mẹ được áp đặt hệ giá trị của mình lên con cái.

Hình thành căn tính

Tôi là ai, con đường nào cho tôi, điều gì làm tôi hạnh phúc, đó là những trăn trở lớn của người trẻ, và chúng đều liên quan tới căn tính, tới cách người trẻ định nghĩa bản thân mình. Căn tính, theo Erik Erikson, một trong những cha đẻ của lĩnh vực tâm lý học phát triển, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình trưởng thành. Ở đây, căn tính được hiểu như một tập hợp các lựa chọn và cam kết cho các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Người trẻ cân nhắc về con đường nghề nghiệp, suy nghĩ về vai trò và chỗ đứng của mình trong cộng đồng. Họ tìm hiểu những cảm giác và cảm xúc liên quan tới cơ thể, tình dục và tầm quan trọng của nó trong cuộc sống của mình. Họ tạo dựng quan điểm về tình bạn, tình yêu và hôn nhân, về chính trị và tín ngưỡng, về các giá trị đạo đức. Căn tính là cầu nối cần thiết giữa tuổi thơ và tuổi người lớn, để người trẻ có thể bước vào các giai đoạn sau của cuộc đời, tạo dựng các mối quan hệ gia đình và xã hội vững chắc, khỏe mạnh. Căn tính cho người ta một cảm giác vững vàng, được neo đậu, mình tìm được bản thân. Thiếu nó, không biết mình là ai, mình đang đi đâu, mình đóng vai trò gì trong cái thế giới này, người trẻ sẽ thấy con người mình không toàn vẹn, mình trôi dạt, và có thể gặp bất ổn trong các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống người lớn sau này. Hành trình đi tìm mình, xây dựng một bản thể mà họ có thể tự chấp nhận, là vất và, phức tạp và thách thức - người trẻ không phải “chỉ có mỗi chuyện học” như nhiều phụ huynh thường nghĩ.

Quá trình tạo dựng căn tính ở người trẻ bao gồm hai yếu tố: quá trình khám phá và quá trình cá nhân hóa. Ở quá trình khám phá, người trẻ xem xét, tìm hiểu các quan điểm, ý kiến, giá trị khác nhau, thử nghiệm, so sánh, khước từ, chấp nhận, để tiến đến cam kết với những lựa chọn nhất định. Các nhà tâm lý học cho rằng người trẻ cần đi qua quá trình này một cách thấu đáo, thay vì vội vàng quyết định (ví dụ dưới ảnh hưởng của thầy cô hay môi trường xung quanh), hoặc bị ép buộc (ví dụ bởi gia đình) bước vào một lựa chọn nào đó.

Trong quá trình thứ hai, cá nhân hóa, người trẻ dần tách khỏi cha mẹ, ý thức của họ về sự riêng biệt và độc nhất của mình dần rõ rệt lên. Họ hướng tới quyền được tự lựa chọn và ra quyết định riêng - đó là tự chủ về hành vi. Mặt khác, nếu như trẻ nhỏ thường cho rằng bố mẹ mình hoàn hảo và luôn đúng, thì người trẻ nhận thức được rằng cha mẹ có thể sai, và bắt đầu có xu hướng đặt câu hỏi về quan điểm, ý kiến của cha mẹ - đó là tự chủ về giá trị.

Tiếp nối các nghiên cứu của Erik Erikson, nhà tâm lý học James Marcia đưa ra bốn trạng thái căn tính mà người trẻ nói riêng và mỗi cá nhân nói chung có thể rơi vào.

Ở trạng thái mờ nhạt về căn tính (identity diffused), cá nhân không có cam kết rõ ràng và cũng không có nhu cầu tìm kiếm, tạo dựng căn tính. Họ trôi nổi qua ngày và trì hoãn việc đối mặt với các câu hỏi cơ bản trong cuộc sống.

Ở trạng thái nhận sẵn căn tính (identity foreclosed), cá nhân có thể cam kết về nghề nghiệp, quan điểm hôn nhân, hay hệ giá trị, nhưng những lựa chọn này được họ tiếp nhận một cách máy móc (có thể từ rất sớm) từ cha mẹ hay những người có quyền lực khác trong môi trường sống của họ. Chúng không thực sự là của chính họ, họ đã chấp nhận chúng mà không đi qua một quá trình khám phá và thử nghiệm.

Với thời gian, một người trẻ ở trạng thái mờ nhạt có thể quay ra chấp nhận một cách thụ động các ý tưởng của cha mẹ, và chuyển sang trạng thái nhận sẵn. Ngược lại, một người đang ở trạng thái nhận sẵn có thể trở nên nghi ngờ các quan điểm mà anh ta tiếp nhận từ cha mẹ, và cuối cùng rũ bỏ chúng, nhưng lại không có nhu cầu thay thế chúng bằng những cam kết mới. Trong trường hợp này, anh ta dịch chuyển từ trạng thái nhận sẵn sang trạng thái mờ nhạt.

Mặt khác, người trẻ có thể rơi vào một trạng thái khủng hoảng mà James Marcia gọi là chơi vơi về căn tính (identity moratorium). Đây là lúc người nhận sẵn bắt đầu đặt câu hỏi về những gì mình đã tiếp nhận từ cha mẹ, với mong muốn tìm cho mình những lựa chọn mới. Hoặc đây là lúc người mờ nhạt trở nên tích cực để trả lời cho các câu hỏi tôi là ai, tôi muốn gì. Người chơi vơi là người không hài lòng nữa với trạng thái hiện có của mình, anh ta tìm tòi, khám phá, nhưng chưa tìm được con đường mới, những giá trị mới cho mình.

Trạng thái chơi vơi có thể có hai lối ra. Ở lối ra tích cực, cá nhân giải quyết được khủng hoảng bản sắc, tìm được đường đi và vai trò xã hội của mình. Sau một quá trình vật lộn nội tại, họ bước sang trạng thái thành đạt về căn tính (identity achieved). Những lựa chọn của họ có thể cuối cùng không khác so với mong muốn của cha mẹ, nhưng họ đạt được kết quả này không qua sự áp đặt hay tiếp nhận máy móc, mà qua quá trình khám phá của riêng mình. Người thành đạt đã trải qua một quá trình “tổng hợp bản thể” (ego synthesis, theo chữ của Erikson) và cảm thấy mình nhất quán với bản thân, mình có sự tiếp nối từ quá khứ và có thể tự tin nhìn vào tương lai. Thú vị là Marcia dùng chữ thành đạt để chỉ một kết cục thành công của quá trình đi tìm mình, trong khi xã hội hay dùng chữ đó để chỉ sự tích lũy vật chất hay địa vị xã hội. Sự dịch chuyển từ chơi vơi sang thành đạt được gọi là quá trình phát triển tiến bộ.

Ở lối ra tiêu cực, người trẻ từ bỏ công cuộc tìm kiếm của mình và rơi ngược trở lại trạng thái mờ nhạt (lưu ý là một khi đã ở trong chơi vơi, người ta không quay lại trạng thái nhận sẵn được nữa). Marcia gọi đây là phát triển thụt lùi. ông gọi trạng thái mờ nhạt hay nhận sẵn kéo dài là trạng thái trì trệ.

Tuy trạng thái thành đạt khá bền vững, nhưng nó không ổn định mãi mãi. Một sự kiện lớn, một trải nghiệm mới, một giai đoạn mới của cuộc đời, có thể khiến người ta hoài nghi về cách sống hiện tại, lại rơi vào trạng thái chơi vơi, và có thể ở tuổi trung niên hoặc thậm chí muộn hơn, lại một lần nữa bước vào quá trình tìm kiếm bản thân.

Các lĩnh vực khác nhau của căn tính cũng có thể ở trong các trạng thái khác nhau, chúng không đồng bộ. Ví dụ, một cá nhân có thể biết rõ mình muốn gì trong nghề nghiệp, nhưng lại không chắc chắn về xu hướng tình dục hay quan điểm hôn nhân. Trong trường hợp này, trạng thái của lĩnh vực mà cá nhân cho là quan trọng nhất với mình sẽ được coi là trạng thái căn tính chính của cá nhân đó.

Chân dung của bốn trạng thái này khác nhau như thế nào?

Trong bốn nhóm, những người trẻ nhận sẵn thường có mức độ tư duy độc tài và thành kiến cao nhất. Trong các mối quan hệ, họ hay phụ thuộc vào người khác và đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài mà không chịu trách nhiệm cá nhân. Theo Marcia, thoạt nhìn những người nhận sẵn có vẻ hài lòng và vững vàng, giống nhóm thành đạt, nhưng sự cứng nhắc và thái độ tự vệ của họ nhanh chóng lộ ra. Họ thường phục tùng quyền lực và các chuẩn mực, và có xu hướng đi theo những quan điểm của cha mẹ hay những nhà lãnh đạo cứng rắn với niềm tin rằng mình được dẫn dắt vào con đường đúng đắn duy nhất.

Người nhận sẵn hay tìm đến sự tán thành và tán thưởng của người khác, họ có mức độ tự chủ thấp, hành động dựa vào ý kiến bên ngoài, và hay được coi là “ngoan ngoãn.” Đây cũng là nhóm ít cởi mở nhất trước các trải nghiệm mới. Người ở nhóm này cũng có những phong cách nhận thức đơn giản, thô sơ và khả năng suy ngẫm về lẽ phải (theo lý thuyết của Kohlberg được trình bày bên trên) ít phát triển. Giống nhóm mờ nhạt về căn tính, các chọn lựa bạn bè của họ đơn điệu. Ranh giới bản thể giữa họ và cha mẹ thường không được xác lập rõ ràng. Họ lớn lên trong các gia đình mà cha mẹ coi việc chấp thuận và tuân thủ chuẩn mực và giá trị của gia đình là rất quan trọng.

Có thể không tạo ra khủng hoảng trước mắt, nhưng trạng thái nhận sẵn ngăn cản sự sáng tạo và nảy nở của người trẻ. Một lúc nào đó trong cuộc đời, có thể người ta sẽ bị chiếm đoạt bởi cảm giác mình sống một cuộc đời xa lạ, mình sống hộ, mình bị lạ lẫm trong chính con người mình, mình không thống nhất với bản thân. Và họ sẽ tuyệt vọng hay giận dữ về thời gian và những cơ hội đã mất.

Người trẻ mờ nhạt thường có mức độ phát triển nhận thức cũng như khả năng suy ngẫm đạo đức thấp. Họ thường có suy nghĩ đơn giản, và kém trong việc cộng tác, phối hợp với người khác. Nhóm này không đồng nhất như ba nhóm còn lại, có người thì sống qua ngày một cách vô tâm, vô tư, có người thì lại rất cô đơn. Những người này thường không ở trong những quan hệ gần gũi - họ thiếu một cảm giác về cái tôi để có thể đóng góp tích cực vào một quan hệ tay đôi hay vào một nhóm nào đó, và hay thu mình. Nhìn chung, dường như người mờ nhạt không có một cái lõi ở bên trong mình. Họ thiếu tự tin và thiếu tự chủ. Ở tuổi thơ, họ thường bị cha mẹ xa cách và chối bỏ.

Những cá nhân chơi vơi có thể hoặc hoang mang, lo lắng, hoặc lặng lẽ, suy ngẫm. Những người này không dễ tuân thủ, phục tùng và có một cảm nhận ổn định về giá trị bản thân. Theo kinh nghiệm của Marcia, họ hay biến cuộc phỏng vấn về căn tính thành một buổi trị liệu để giải mã những xung đột và sự vật vã nội tâm của mình. Các quan hệ người với người của họ thường dữ dội và chao đảo. Nhóm này có khả năng nhận thức và suy ngẫm đạo đức cao. Họ hoài nghi hơn hai nhóm trên, cởi mở trước các trải nghiệm mới và có xu hướng tự chủ trong quá trình ra quyết định. Cha mẹ của họ cũng có xu hướng nhấn mạnh sự độc lập của trẻ trong thực hành nuôi dạy con của mình.

Các nhà tâm lý học thấy rằng những cá nhân thành đạt thường có khả năng nhận thức cũng như năng lực suy ngẫm về đạo đức cao nhất. Họ chịu trách nhiệm về bản thân mà không đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài. Họ vững tin về giá trị của mình và có thể hoạt động trong stress mà không bị phá hủy. Trong tương tác, người thành đạt vừa uyển chuyển vừa vững vàng, và có được sự gần gũi trong các quan hệ cá nhân. Đây là những người nhiêu suy tư, chiêm nghiệm, nhưng lại cởi mở trước các trải nghiệm mới. Họ đánh giá sự việc theo quan điểm riêng và dùng logic khi ra quyết định chứ không bị phụ thuộc vào hay bị thao túng bởi người khác, và cũng không bị sa vào các định kiến. Người thành đạt gắn bó với người thân của mình mà vẫn nhận biết được điểm mạnh và điểm yếu của họ. Họ thường được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình hỗ trợ sự phát triển độc lập của trẻ. Cuối cùng và quan trọng nhất, người trẻ thành đạt về căn tính có một cảm giác vững vàng, bình an (well-being). Trong các lĩnh vực quan trọng của cuộc sống, họ đã xác định được điều họ muốn, và tin tưởng rằng các lựa chọn đó phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình. Họ có cảm giác thống nhất với bản thân, “ở nhà” trong cơ thể của mình, họ biết mình đang đi đâu.

Như vậy, cái đích của quá trình trưởng thành của người trẻ đã rõ ràng, đó là việc xây dựng thành công cho mình một căn tính. Gia đình có thể làm gì để hỗ trợ người trẻ trong hành trình khó khăn và quan trọng này?

Ngược với quan điểm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và kỳ vọng của nhiều cha mẹ Việt muốn con cái đi theo hình dung của mình về thế nào là một cuộc sống hạnh phúc, các nhà chuyên môn khuyên rằng gia đình nên cho người trẻ cơ hội để đi qua trạng thái chơi vơi, và cho phép, thậm chí khuyến khích họ thử nghiệm các vai khác nhau. Người trẻ được giúp đỡ tốt nhất nếu cha mẹ ghi nhận và hỗ trợ mong muốn trở nên độc lập của họ, nhưng cùng lúc gia đình vẫn là điểm tựa hậu phương để họ có thể trở về nghỉ ngơi khi mệt mỏi và được an ủi khi vấp ngã. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái là lành mạnh khi nó không níu kéo người trẻ, khiến họ mặc cảm có lỗi vì muốn đi con đường riêng của mình, cũng không khiến họ muốn cắt đứt mọi sợi dây với gia đình trong sự oán hận, mà khi nó cho họ sự yên tâm rằng họ được thấu hiểu và chấp nhận, họ có chỗ đứng trong gia đình, bất kể tương lai họ có ra sao. Đó mới là một quan hệ yêu thương đích thực.

Nhưng nhiều người trẻ không có may mắn được sống trong một môi trường gia đình như vậy. Thay vì được trợ giúp và khích lệ trong hành trình đi tìm mình, họ bị giam cầm trong một ngục tù nhân danh tình yêu. Hãy lắng nghe những câu chuyện của họ trong phần sau của cuốn sách này.