Chương 15 LỜI TÁC GIẢ: THỂ DIỆN CỦA CHA MẸ VÀ TÌNH YÊU NGỤC TÙ
Nếu như phần đầu của cuốn sách vẽ nên một thế giới vắng bóng người lớn, nơi cuộc sống của đứa trẻ thiếu sự hiện diện vật lý hay tinh thần của cha mẹ, và phần hai là câu chuyện của những đứa trẻ nhầm vai, bị trở thành bạn đời thay thế hoặc phụ huynh của cha mẹ mình để phục vụ nhu cầu tinh thần hay vật chất của họ, thì những số phận ở phần ba này có một điểm chung. Những đứa trẻ sống trong một nhà tù do cha mẹ chúng dựng nên, trá hình là sự quan tâm và yêu thương. Trong tâm lý học, những cha mẹ này hay được gọi là narcissistic - ái kỷ, yêu bản thân thái quá. Vì cả hai chữ tiếng Việt này đều khá trừu tượng, xa lạ và không truyền tải được những nét cơ bản của nhân cách này, nên tôi sẽ dùng chữ “sĩ diện”. Hiểu một cách đơn giản nhất, người sĩ diện luôn lo sợ bị người khác coi thường, chê bai, nhưng còn nhiều điều khác nữa để nói về chân dung của họ.
Điểm chung lớn nhất của những người này là họ coi đứa trẻ như một sự nối dài của bản thân (extension of the self), họ sở hữu nó như một cái tay hay đôi mắt, chứ không coi nó như một cá nhân có cảm xúc và nhu cầu riêng. Không những họ không nhìn vào mong muốn và nhu cầu của con hay cháu mình, họ coi nó chủ yếu như một phương tiện để thỏa mãn những mong muốn và nhu cầu của mình, ông của Hòa phải nhìn thấy tấm bằng đại học của cháu mình, nếu không ông sẽ chết không yên, dù Hòa đã được bác sĩ chẩn đoán trầm cảm. Ông bà của Hải Như phải thấy em đi du học, nếu không họ sẽ coi đời mình là thất bại. Hương, lúc mười tuổi, bị trầm cảm vì sức ép học piano khổng lồ, nhưng vẫn phải tiếp tục cho tới khi cô giáo dạy đàn bắt nghỉ, chị của cô bị bố mẹ coi là độc ác vì vẫn độc thân. M.H. phải tiếp tục giữ “job thơm” dù nó khiến cô phải uống thuốc trầm cảm liên miên. Dù ghét Ngoại thương, Yến vẫn phải quay lại học, kể cả khi cô đã trở thành người hoang tưởng. “Cứ có cái bằng hẵng, rồi tính sao thì tính” (mẹ của Yến). Trang không được phép yêu con gái, vì điều đó không phù hợp với định nghĩa đứa con của mẹ cô. Trong tất cả các trường hợp này, nhu cầu của bố mẹ được đặt cao hơn nhu cầu của đứa con. Nhu cầu của trẻ, nếu có được nêu lên, cảm xúc của nó, nếu có được thể hiện, sẽ bị gạt đi, bỏ qua, hoặc tệ hơn, bị coi là một sự phiền hà hay sự tấn công vào người chăm sóc nó.
Bởi đứa con là phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu của bố mẹ sĩ diện, họ đầu tư vô cùng nhiều tâm sức, thời gian và tiền bạc vào nó. Trong nhiều trường hợp, sau khi đã thất bại trong các lĩnh vực khác như hôn nhân hay con đường công danh, họ coi đứa con là dự án quan trọng nhất của đời mình, và do đó có xu hướng kiểm soát toàn bộ cuộc đời của đứa trẻ, phá vỡ ranh giới bản thể vốn cần có giữa các cá nhân. Họ kiểm tra cặp sách, xem tin nhắn, đọc nhật ký, khắc nghiệt theo dõi cách đi đứng, nói năng, cách cầm đũa lên, đặt bát xuống của nó, chỉ đạo nó về ăn mặc, tóc tai, ngành học, can thiệp vào chuyện yêu đương, hôn nhân, chỗ làm việc, và cuối cùng là cách nuôi dạy con, tức là cháu của họ.
Tính ái kỷ của cha mẹ sĩ diện hay được ngụy trang dưới các mác khác nhau. “Bằng cấp là để tốt cho đứa trẻ”, “tất cả chỉ là vì con”. Hoặc nó được đặt trong một hệ giá trị đạo đức để lý giải cho các trói buộc. “Không lập gia đình là bất hiếu với cha mẹ”, con cái có trách nhiệm “làm bố mẹ vẻ vang” và “đền đáp sự hy sinh của cha mẹ”.
Khi đứa trẻ thực hiện được mong muốn của họ, họ cảm thấy cái tôi của mình được vuốt ve, bản thể của mình lành lặn, cuộc sống của mình đầy đủ, có ý nghĩa. Khi đứa trẻ không đáp ứng được hoặc không muốn đáp ứng nhu cầu của họ, họ sẽ đau đớn, sợ hãi hay giận dữ như một trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Để chống lại cảm giác suy sụp, tan vỡ, thất bại, họ đánh trả bằng cách cáo buộc đứa con là kém cỏi, vô dụng (khi nó không có khả năng thực hiện mong muốn của họ), hay ích kỷ, không biết nghĩ, không biết thương bố mẹ (khi nó khước từ). Họ khủng bố tinh thần bằng những trận lăng nhục hoặc sự im lặng tra tấn kéo dài, họ trừng phạt thể xác bằng đánh đập hay bắt trẻ nhịn ăn. Từ rất sớm, đứa trẻ hiểu rằng để có được và giữ được sự quan tâm và tình yêu của bố mẹ, nó phải làm đúng theo ý họ. Không bao giờ nó có thể cho phép mình nghỉ ngơi, cho phép mình ngừng cố gắng làm bố mẹ hài lòng.
Nguồn cung thể diện (narcissistic supply) là một khái niệm được dùng để chỉ những thứ nuôi dưỡng cảm nhận về giá trị bản thân của người sĩ diện. Đứa con, thông qua các thành tích (được hiểu theo nghĩa tất cả những gì có thể tạo ra sự khen ngợi, công nhận của họ hàng hay người ngoài, từ điểm số tới việc đẻ được con trai) là một nguồn cung thể diện quan trọng cho cha mẹ sĩ diện. Giống những người nghiện vật chất hay quyền lực, cha mẹ sĩ diện thấy bao nhiêu cũng không đủ. Khi đứa con đem về điều họ muốn, họ thỏa mãn trong chốc lát, nhưng nhanh chóng cho rằng mình nghiễm nhiên có quyền và xứng đáng, và sự thèm khát bên trong họ lại trỗi dậy. Mặt khác, nếu nguồn cung thể diện bị khô hạn (người vợ muốn ly hôn, đứa con khước từ con đường họ vạch ra), họ sẽ có cảm giác giá trị của mình bị lung lay, mặt tiền của mình bị hoen ố, bản thể của mình bị đe dọa.
Xuất hiện mọi nơi mọi chỗ trong cuộc sống của đứa con, kiểm soát, theo dõi và chỉ đạo, nhưng cha mẹ sĩ diện thường không kết nối tình cảm với đứa trẻ. Vì tập trung vào nhu cầu của bản thân, họ vô cảm trước thế giới tinh thần của con, bỏ qua nhu cầu cảm xúc, đời sống tình cảm của đứa trẻ. Những thành viên trong gia đình sống như những cá thể xa lạ, trong khi khoảng cách vật lý của họ lại không thể gần hơn. Không khí trong gia đình, nếu như không hằn học hay căng thẳng thì cũng lạnh lẽo. Minh Quân có đầy đủ sự hỗ trợ vật chất nhưng khao khát một cách đau đớn được bố mẹ thấu hiểu, chia sẻ, dù chỉ ở mức độ như cô tư vấn của trường đại học. Mẹ của Hương không thể hiểu được là các con có thể buồn vì không khí trong nhà, và cho rằng cô khóc vì mất tiền hay thất tình. Là những người có độ thấu cảm rất thấp, họ không thế nhận biết, ghi nhận các cảm xúc của con và đem lại sự an ủi hay khích lệ thích hợp. Mặt khác, họ cũng không thể đọc tên các cảm xúc của bản thân. Bị “điếc” về cảm xúc và có cuộc sống nội tâm nghèo nàn, họ có thể lạnh băng tiếp tục bắt ép đứa con kể cả khi nó đang đau khổ cùng cực. “Đến giờ nhớ lại tôi vẫn rùng mình,” Hương nói về những giờ tập đàn piano của mười năm trước.
Cha mẹ sĩ diện cũng không có khả năng chiêm nghiệm, suy ngẫm về mình để có thể dẫn tới ý thức muốn thay đổi bản thân. Vậy nên họ cũng không thấy được trách nhiệm của mình trong các vấn đề. Khi thành công, họ nhận hết công trạng về mình; khi thất bại, họ đổ lỗi. Thật khó hình dung họ có thể xin lỗi con, cháu, hoặc xin lỗi nhau. Họ thực tâm coi mình là hoàn hảo. Ông bà của Hải Như không mảy may đặt câu hỏi liệu mình có cần điều chỉnh hành vi hay không. Bố mẹ của Hương hoàn toàn bất ngờ khi nghe chị của Hương nói hôn nhân bạo lực của họ chính là lý do cô không muốn lập gia đình. “Bố mẹ có làm gì con đâu mà con bị thế này?” Mẹ của Hương thắc mắc về bệnh trầm cảm của cô, một câu hỏi tôi tin là thực lòng.
Một điểm chung nữa của các cha mẹ sĩ diện là họ thường không có khả năng ứng xử với stress khi nó xuất hiện trong cuộc sống, và hay phản ứng bằng cách đổ lỗi, đẩy trách nhiệm cho người mà họ cho là gây ra vấn đề trong cuộc sống của họ.
Chưa bao giờ được học cách tìm ra lời giải, họ chỉ theo bản năng chặn lại hoặc đánh trả người kia, và khước từ ghi nhận cảm xúc và nhu cầu của người ấy. Trong một gia đình lành mạnh, điểm số kém của đứa trẻ sẽ được nhìn nhận như một vấn đề, và các thành viên sẽ cùng nhau tìm nguyên nhân và lời giải. Đứa trẻ bị cô lập ở trường, phương pháp dạy không phù hợp, nó buồn vì người bà mới qua đời, nó bị hổng kiến thức? ở gia đình sĩ diện, bản thân đứa trẻ được coi là vấn đề, và nó có trách nhiệm dọn dẹp vấn đề đó. “Mày đừng để tao lo, tao không muốn nhìn thấy cái thái độ ấy của mày,” mẹ của Hương yêu cầu cô phải “dẹp” đi những cơn hoảng loạn, và trao thêm cho cô trách nhiệm “không để mẹ sốt ruột.” “Mệt với bay, cuối năm rồi còn không được yên,” bố của Hòa nói khi biết cô bị trầm cảm. Phản ứng đầu tiên của bố mẹ M.H. sau khi cô uống thuốc ngủ là gào lên, “Mày giả công, mày báo hiếu tao như thế này đây…” Bị xâm chiếm trọn vẹn bởi trạng thái tâm lý của mình, họ không thể quan tâm tới cô và tìm hiểu lý do dẫn tới hành động của cô. Họ chỉ quan tâm rằng trong tương lai mình không bị “làm ảnh hưởng” nữa. “Mày làm thế lần nữa thì tao đuổi mày ra khỏi nhà.” Nếu đứa con học kém, bị trầm cảm, hay tự tử thì chính nó là người mắc lỗi. Nó làm phiền tới người khác; nên không những nó không xứng đáng được giúp đỡ, nó cần phải bị trừng phạt.
Sự thiếu vắng thấu cảm cũng dẫn tới việc nhiều cha mẹ sĩ diện có một thái độ yêu cầu, đòi hỏi thường chỉ phù hợp với trẻ nhỏ. Nỗi sợ bị bỏ rơi khiến mẹ Hương luôn chì chiết hai đứa con “không biết nghĩ tới mẹ, cứ ra ngoài làm chuyện bao đồng,” và bắt hai chị em cô chia nhau ở nhà, khiến chị của cô không nỡ ra sống riêng dù bị đày ải. Ngoài ràng buộc bằng cưỡng bức, họ còn ràng buộc bằng cách thể hiện mình yếu đuối, mình đã hy sinh tất cả và cần phải được trả ơn. “Không biết thương bố mẹ à?” là vũ khí hữu hiệu để thao túng tinh thần đứa con. Mẹ của Trang cho mình quyền bắt con gái phải yêu con trai. Bố mẹ của M.H. cho mình quyền nhận hai phần ba thu nhập của cô. Kể cả khi cô phải lánh tới nhà bạn trong thời điểm nguy cơ tự sát lên đỉnh điểm, mẹ cô cũng liên tục gọi điện giục cô về nhà vì “mẹ rất ốm, mẹ cần người chăm sóc.” Ngay cả lúc này, mẹ cô cũng chỉ có thể nghĩ tới nhu cầu của mình.
Bên dưới tất cả những nét nhân cách kia là cơ chế tâm lý gì? Sâu bên trong các cha mẹ sĩ diện là một sự bất an vô thức về giá trị của bản thân. Theo các nhà tâm lý học Kohut và Kernberg, sự bất an này đến từ những trải nghiệm tuổi thơ thiếu thốn tình yêu thương. Lớn lên, họ trở thành những cá nhân luôn khao khát được tán thưởng, khen ngợi, công nhận. Với họ, thể diện là cái bản thể giả, là tấm áo giáp bảo vệ cho một bản thể thật khiếm khuyết và đầy thương tích. Do đó, họ có đặc tính “hypervigillant” (siêu cảnh giác), luôn sợ hãi bị coi “không ra gì,” bị “mất mặt”. Họ vô cùng nhạy cảm và dễ tự ái trước những đánh giá, chê bai có thật và tưởng tượng của người khác về khả năng tài chính, địa vị xã hội, mức độ hạnh phúc trong gia đình mình. Nỗi xấu hổ ngấm ngầm, cảm giác nhục nhã là mình không có giá trị khiến họ luôn lo lắng đứa con có thể cung cấp lý do để họ bị “coi thường”. Bởi vậy, họ, nói hẳn ra miệng hay chỉ để trong đầu, luôn so sánh con mình với con người khác, về điểm số, bằng cấp, mức thu nhập hay tình trạng hôn nhân.
Để nâng giá trị của mình lên, người sĩ diện thường có xu hướng hạ thấp, chê bai, miệt thị, coi thường người khác, đặc biệt là những người gần họ nhất - con cái, vợ chồng, họ hàng. Sau buổi gặp đầu tiên với Hải Như, tôi nhận được điện thoại của mẹ em. Rõ ràng là chị đã bỏ công theo sát từng bước chân của con mình. Tôi những tưởng chị sẽ quan tâm xem Hải Như đã tâm sự gì với tôi, có điều gì về em mà chị không biết, suy nghĩ của em thế nào, em có hạnh phúc không, có cần giúp đỡ gì không. Nhưng tôi đã lầm, cuộc điện thoại là một màn độc thoại vô tận, trong đó mẹ của Hải Như nói xấu con mình là lười nhác, dối trá, hỗn láo. Chị đã gọi điện để bảo vệ hình ảnh cá nhân, thay vì để hiểu con hơn.
Quan hệ của các cha mẹ sĩ diện với nhau và với người xung quanh thường trong trạng thái rối loạn và bất an. Bố mẹ của Hương “dành cả tuổi thanh xuân để miệt thị nhau.” “Mẹ mày có lúc định giết tao” (bố của Trang nói với con). “Bố mày bị điên rồi” (mẹ của M.H. nói với con). Nhiều năm sau khi ly dị, mẹ của Hải Như vẫn chửi bố em là “kẻ khốn nạn.” Parental alienation, việc kéo con về phe mình để xa lánh, coi thường, sợ hãi hay hắt hủi người phụ huynh kia là một dạng của thao túng tâm lý và bạo lực tinh thần, và có thể đẩy đứa trẻ vào xung đột nội tâm và chấn thương tâm lý lớn.
Thế giới của cha mẹ sĩ diện thấm đẫm sự giận dữ. Mẹ của Trang gào thét “như tiếng ở địa ngục vọng lên” khi chồng khước từ lên sân thượng cùng ngắm trăng, ông và bố của Hòa triền miên gửi tới nhau những cơn giận tăm tối. M.H. cảm nhận bố mình là một thực thể hằn học và trống rỗng. Đây là sự giận dữ mà nhà tâm lý học Heinz Kohut gọi là thịnh nộ vì mất thể diện, hay là cuồng nộ ái kỷ (narcissistic rage). Chúng là phản ứng trước những tấn công có thật hay tưởng tượng vào giá trị của người sĩ diện. Đứa con du học phải quay về vì khủng hoảng tâm lý, nó không muốn kết hôn, nó muốn ly hôn, nó yêu người đồng tính, tất cả đều có thể được coi là những cú đánh vào thể diện, khiến dự án nuôi dạy con của họ có nguy cơ bị lung lay. Đó là những lúc họ sự “mất mặt’’, sợ mặt tiền của họ bị kéo xuống, làm lộ ra bộ mặt thực tế bên trong mà họ tự cho là kém cỏi, thất bại, sẽ khiến họ bị coi thường. “Thật là nhục!” “Mày làm thế thì tao còn mặt mũi nào nữa?’ Đây cũng là chữ cha mẹ sĩ diện hay dùng nhất khi con cái làm trái ý họ. Cả đời mình, người sĩ diện cố gắng chống lại cảm giác nhục nhã đáng sợ. Họ cũng có xu hướng coi mình là nạn nhân (đặc biệt sau tất cả những “hy sinh” của họ cho bạn đời hoặc con cháu), và có nhu cầu mãnh liệt trả thù cho người “gây hại” cho họ. Cơn giận dữ là một sự đánh trả để tái thiết lập giá trị của họ, một sự tự vệ để họ lại cảm thấy an toàn trong thế giới của mình.
Cảm giác nhục nhã là xăng dầu tưới tắm cho ngọn lửa nóng giận, và giận dữ khiến người ta đánh mất khả năng nhận thức và phán xét lành mạnh. Họ có thể nổi xung một cách không tương xứng trước một “lỗi” nhỏ nhất của người xung quanh. Đứa trẻ lê dép, vợ để cái quạt vướng lối đi, chồng không muốn ngắm trăng cùng. Mỗi ý kiến trái chiều của con hay bạn đời bị coi là “mất dạy”, “cãi”, “láo,” và không thể dung túng, ở nét này, họ giống những người gia trưởng, không chấp nhận ý kiến nào khác mình. Người nói khác ý họ không đơn giản là người bất đồng, mà là người dám thách thức uy quyền và con người họ. Có một sự đau đớn được gây ra bởi nỗi thất vọng triền miên trong cuộc đời của họ. Nghèo, không thành đạt (trong tương quan với họ hàng hoặc bạn bè), hôn nhân bất ổn, là những đòn tấn công chí mạng vào người sĩ diện khiến họ trở thành bất mãn, đau đớn kinh niên, phải tìm tới những xung đột hoặc “sai phạm” nhỏ nhất để trút giận và qua đó làm dịu nỗi đau bên trong của mình. Qua sự phục tùng hay sợ hãi của con cái và người xung quanh, cảm giác nhục nhã và nỗi sợ hãi về sự vô giá trị của họ được xoa dịu đi chốc lát.
Mâu thuẫn thay, cha mẹ sĩ diện vừa muốn nhìn thấy sự “thành đạt” của đứa trẻ, vừa vô thức sợ hãi quá trình cá nhân hóa của nó (inpiduation). Đây là quá trình hình thành cá tính, xác định ranh giới cá nhân, tách khỏi cha mẹ và đi tìm sự độc lập, vốn là đặc trưng của quá trình lớn lên và trưởng thành của người trẻ. Quá trình tách khỏi bố mẹ này được cha mẹ sĩ diện vô thức coi là một sự đe dọa tới cái tôi của họ, bởi một đứa trẻ độc lập sẽ có nguy cơ thoát khỏi vai trò công cụ mà nó đang phải đóng. Nỗi sợ hãi vô thức này khiến họ xâm lấn vào sự riêng tư của đứa trẻ (qua việc đọc nhật ký hay lục cặp của con), và có thể dẫn tới những cơn giận dữ khi đứa trẻ có những biểu hiện thiết lập cá tính, đi tìm cái tôi. Trang phải lén lên mạng ngắm vòng và dây chuyền. M.H. hứng chịu một trận lôi đình từ bố sau khi cắt tóc ngắn mà tới giờ cô không biết rõ vì sao. Cũng vì lý do đó mà cha mẹ sĩ diện khước từ cư xử với con mình theo đúng lứa tuổi của nó. Họ thường xuyên cho nó biết là nó “không làm được trò trống gì”, họ miệt thị và coi thường những đam mê, mơ ước, suy nghĩ và kế hoạch của nó. Họ cảm thấy yên tâm khi đứa con mười tám tuổi “vẫn không biết yêu đương là gì”. Nhiều lúc, họ bị giằng xé giữa sự tự hào về thành tích của con mình, và nỗi mặc cảm mình thua kém. Bên ngoài, bố của M.H. khoe chỗ làm “danh giá” của cô; ở trong nhà, ông hằn học, “Mày tưởng mày kiếm ra đồng tiền mà to à?”
Lớn lên trong một gia đình sĩ diện mang lại những chấn thương tâm lý to lớn.
Để nhận được tình cảm của cha mẹ, nhiều đứa trẻ cố gắng chạy theo yêu cầu của họ cho tới khi kiệt sức. Chúng trở thành một bản thể rỗng, một cái gương phản chiếu mong muốn của người lớn. Không được khám phá bản thân, phát triển cảm xúc, được phạm sai lầm, không biết đến cảm giác được yêu thương mà không đi kèm điều kiện, chúng gặp khó khăn để phát triển cảm giác cuộc sống này là đáng sống, và bấu víu vào những thành tích của mình để tìm chút ý nghĩa. Chúng lớn lên mà cảm thấy xa lạ với chính mình - chúng đã luôn được dạy rằng cảm xúc, mong muốn, nhu cầu của bản thân là dị dạng, ích kỷ, sai trái hay độc ác. Nhiều người trẻ gặp khó khăn đế xây dựng những quan hệ lành mạnh, nơi họ có thể tự tin nêu lên nhu cầu của mình và lắng nghe nhu cầu của người khác, thực hành cho và nhận một cách hài hòa. Không ngạc nhiên, dù có thể ưu tú về trí tuệ, nhiều người trẻ trong những câu chuyện ở phần này luôn cảm thấy cô độc, lạc lõng và chật vật để bước vào tình yêu.
Khi cảm thấy được trân trọng, bản thể của mình có giá trị, mình xứng đáng được yêu thương vô điều kiện, đứa trẻ sẽ có khả năng tách biệt một hành vi có lỗi và con người mình. “Tôi đã làm một điều tệ hại,” nó sẽ nói, thay vì, “tôi là một điều tệ hại.” Nó sẽ khám phá thế giới với cảm giác tự tin, vững vàng và an toàn. Lớn lên, nó sẽ bình tĩnh trước những tấn công vào cái tôi của mình và không đói khát sự tán dương của người ngoài hay sự phục tùng của con cháu. Nó sẽ có thể thừa nhận những khiếm khuyết của mình mà không nổi nóng, không thấy bị đe dọa hay nhục nhã. Sai lầm không phá hủy nó, mà dẫn tới cơ hội đế thay đổi và tiến bộ.
Ở thái cực ngược lại, khi lớn lên với cảm giác triền miên là bản thể của mình không được chấp nhận, nhiều đứa trẻ có cảm giác mình “hỏng hóc”, vô giá trị”, trở nên căm ghét bản thân và thấy mình không xứng đáng với bố mẹ. M.H. thấy tội lỗi vì hành vi tự tử của mình đã “làm phiền mọi người.” Nhiều lúc, Trang thấy mình là quái vật, phế phẩm, tình yêu đồng tính của mình là “sở thích quái dị”. Trong một thời gian dài, Minh Quân cho rằng sẽ tốt hơn, an toàn hơn cho bố mẹ nếu họ cho tiền vào số tiết kiệm, thay vì đẻ ra cậu. Một cuốn sổ tiết kiệm sẽ không có rủi ro “đi chệch hướng” như là đứa con đồng tính.
Nhiều đứa trẻ tìm cách chôn vùi những nhu cầu riêng và những khao khát của mình. Em gái của Minh Quân, mười sáu tuổi, tự bằng lòng với sự lạnh lẽo trong gia đình, “Tôi được ăn uống, ăn mặc đầy đủ, được đi học, tôi không cần nhiều hơn.” Nhiều người khác sống trong xung đột đau đớn giữa một bên là bản thể của mình và một bên là đòi hỏi, kỳ vọng của cha mẹ. “Tôi đã từng quyết tâm sẽ không bao giờ yêu con trai để hoàn thành bổn phận làm con”. Minh Quân cay đắng, “nhưng làm sao tôi có thể chống lại chính bản thân?” Trong những bức thư viết cho mẹ mà không được gửi đi, Trang van xin mẹ cho cô “yêu tạm” con gái. Cô thèm khát được sống thật với những cảm xúc yêu đương tuyệt đẹp của mình, và cảm thấy ghê tởm bản thân vì phải tạo ra một mặt nạ dối trá.
Tôi đã tận mắt chứng kiến sự tàn phá của những xung đột này. Trong quá trình cuốn sách này thành hình, Hòa lún sâu dần vào trầm cảm, khiến em phải bảo lưu và về quê sống trong sự khủng bố tinh thần của những người họ hàng giận dữ và thất vọng. Mong mỏi lớn nhất mà bất thành của em là được người thân ôm vào lòng, “Hòa ơi, con đã mệt nhiều rồi, ông, bà, ba, mẹ ở đây với con, con hãy nghỉ ngơi… “ Khi tôi viết những dòng này, Hương lại rơi vào chu kỳ mới của lo âu và hoảng loạn, và M.H. vẫn tiếp tục uống thuốc trầm cảm liều cao. Trong tất cả những gia đình này, tờ chẩn đoán bệnh của bác sĩ không khiến người nhà thay đổi thái độ với con cháu mình.
Ám ảnh nhất với tôi là cảm giác bế tắc bao trùm. Tình trạng không lồi thoát khiến Hòa muốn tọng cái giẻ lau nước tiểu của ông ngoại vào mồm mình, khiến M.H. thấy bản thân trở thành một zombie chai sạn, cáu bẳn, và độc địa, khiến Trang nhiều lúc muốn gào thét, nổ tung, hay biến thành một vật vô tri vô giác. Bơ vơ trong một thế giới không hơi ấm, những đứa trẻ này “như người lữ hành trong đêm, mong mỏi ánh đèn pha xa xăm của một chiếc xe nào đó đến đón mình về nhà.”
Để khép lại phần này, hãy lắng nghe thêm một câu chuyện buồn nữa, câu chuyện của Hồng Long, để thấy ngục tù mang tên tình yêu có thể phá hủy một con người ở mức độ như thế nào.