khúc chuyển giao SỐ BA Chương 17 LỜI TÁC GIẢ: GÁNH NẶNG CỦA TUỔI THƠ
“Đừng có đổ lỗi cho hoàn cảnh nữa!”, không hiếm khi chúng ta nghe được những câu nửa khuyên nhủ, nửa trách móc như vậy, gửi tới những người đã trải qua một tuổi thơ khắc nghiệt. “Tất cả là do mình, phải mạnh mẽ vượt lên nghịch cảnh chứ.”
Liệu những bình luận này có lý? Liệu người ta có thể để những trải nghiệm tuổi thơ sang bên và bước vào cuộc sống tương lai, đơn giản như lật một trang vở? Liệu điều người ta cần chỉ là “nghị lực”?
Vào thập kỷ 1960, nhà tâm lý học Mary Ainsworth, dựa trên nền tảng những nghiên cứu của John Bowlby, thiết kế một thí nghiệm quan trọng mang tên “Tình huống lạ”, nhằm tìm hiểu tác động của mối kết nối giữa trẻ sơ sinh và mẹ (hoặc người chăm sóc chính) lên tâm lý và hành vi của chúng. Ainsworth để người mẹ mang trẻ nhỏ trên dưới một tuổi của mình vào một căn phòng có nhiều đồ chơi và một người lạ. Sau một lát ở cùng trẻ, người mẹ rời đi một mình, để trẻ ở lại. Sau một thời gian ngắn nữa, người mẹ quay trở lại.
Lặp lại thí nghiệm đơn giản mà tài tình này ở nhiều trẻ, các nhà nghiên cứu quan sát được bốn nhóm hành vi khác nhau. Ở nhóm đầu, khi người mẹ ở trong phòng, đứa trẻ mạnh dạn khám phá không gian và tự tin tương tác với người lạ. Khi người mẹ rời căn phòng, chúng trở nên căng thẳng và hốt hoảng, nhưng lúc thấy mẹ trở lại, chúng vui mừng chào đón mẹ, nhanh chóng lấy lại trạng thái cảm xúc cân bằng và yên tâm tiếp tục tìm hiểu các đồ chơi.
Những trẻ này có sự phát triển tâm lý khỏe mạnh, và được các nhà tâm lý học cho là có một gắn kết vững vàng (secure attachment) với người chăm sóc chúng. Đứa trẻ có gắn kết vững vàng tự tin tìm hiểu thế giới quanh mình, biết rằng nó luôn có thể quay về bên người chăm sóc, tìm thấy ở người đó một nơi trú ẩn an toàn, nó được bảo vệ, che chở, an ủi khi mệt, sợ hay buồn, cảm giác an toàn, tin tưởng này được tạo ra khi người chăm sóc có thái độ ấm áp và sự nhạy cảm cần thiết để nhận biết các nhu cầu tình cảm của trẻ và có những phản hồi phù hợp. Đặc biệt trong những năm tháng đầu đời, khi khả năng thể hiện bản thân qua ngôn ngữ của trẻ còn rất giới hạn, đứa trẻ cần được seen, được người chăm sóc nhìn thấy, gọi tên những cảm xúc của nó để nó có thể phát triển cảm nhận về chính mình. Quá trình người mẹ quan sát và tương tác về mặt cảm xúc với con được gọi là “phản chiếu” (mirroring) - người mẹ đóng vai trò như một cái gương để đứa trẻ soi vào và nhận ra bản thân trong các biểu cảm của mẹ. Nếu quá trình soi gương này bị khiếm khuyết, nếu trẻ sơ sinh nhìn vào mặt mẹ mà như nhìn vào một bức tường, đứa trẻ có thể lớn lên với cảm giác mình vô hình, mình là một bản thể rỗng, và lang thang cả đời đi tìm một ai đó cho nó cảm giác nó được nhìn thấy, được thấu hiểu.
Đứa trẻ có gắn kết vững vàng với người chăm sóc là đứa trẻ được là chính mình. Nó có thể thử nghiệm, khám phá, vấp ngã mà không thấy xấu hố, nhục nhã hay căm ghét bản thân. Nó được nâng đỡ và tiếp sức bởi cảm giác được quan tâm và yêu thương vô điều kiện, rằng con người mình có giá trị, mình sẽ được trợ giúp khi cần, mình không đơn độc. Chính tâm lý vững tin này giúp chúng sau này có thể đi qua các tình huống sóng gió và các thách thức của cuộc đời một cách vững vàng hơn.
Nhóm trẻ thứ hai mà các nhà nghiên cứu quan sát được trong thí nghiệm Tình huống lạ cũng tỏ ra quan tâm tới đồ chơi và người lạ trong phòng, nhưng điểm khác biệt là khi người mẹ rời khỏi phòng, chúng không tỏ ra bị kích động. Và khi mẹ chúng quay lại, chúng cũng dửng dưng, thậm chí nhìn ra chỗ khác và tránh không để mẹ bế chúng lên. Những đứa trẻ này được cho là gắn kết với người chăm sóc theo mẫu hình né tránh (avoidant attachment).
Loại hình gắn kết này là kết quả của một người chăm sóc xa cách và lạnh lẽo. Họ có thể vô cảm không nhận ra nhu cầu tình cảm của trẻ, họ có thể không đáp ứng được những nhu cầu này vì còn bận rộn với những nhu cầu của chính mình, do họ có một hôn nhân bất hạnh, họ phải vật lộn mưu sinh, hay họ bị quá tải vì trẻ hay ốm hoặc khó ăn. Dù hành xử của người chăm sóc có nguồn cơn gì đằng sau đi chăng nữa thì những trẻ ở nhóm này tin rằng mọi biểu đạt nhu cầu của mình là vô ích, mình sẽ không tác động được gì tới người chăm sóc. Sự dửng dưng là một chiến lược để ứng phó với việc bị bỏ rơi và chối từ về cảm xúc. Từ rất nhỏ, chúng đã hiểu rằng chúng cần được cho gì thì nhận nấy, chứ không thể yêu cầu. Cách ứng phó này giúp trẻ không rơi vào trạng thái đòi hỏi và bị kích động mạnh, điều khiến chúng có thể bị người chăm sóc đẩy ra xa hơn nữa. Tuy nhiên, sự dửng dưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, nhịp tim của chúng mách bảo nhu cầu được che chở bên trong chúng.
Lại có những đứa trẻ mà ngay từ đầu đã luôn dính lấy mẹ mà không quan tâm tới không gian xung quanh. Khi người mẹ rời căn phòng, nhóm trẻ này trở nên vô cùng hoảng sợ. Đáng chú ý là sau khi người mẹ trở lại, chúng vẫn không lấy lại được trạng thái cảm xúc cân bằng, mà trở nên giận dữ. Chúng có thể bò tiến tới mẹ, nhưng rồi lại đánh và đẩy mẹ ra. Chúng “dỗi”. Đây là những trẻ có kết nối lo sợ (anxious attachment), kết quả của việc chúng không tin tưởng được là khi cần mình sẽ luôn có mẹ ở bên, nhất quán và chắc chắn. Người mẹ lúc hôn hít vồ vập, lúc lại dửng dưng, xa cách. Sự thất thường, khó đoán định của mẹ khiến chúng hoang mang; nguy cơ bị thất vọng, bị bơ vơ luôn lơ lửng trên đầu khiến chúng sợ hãi và bất lực.
Sau này, Ainsworth và đồng nghiệp xác định thêm một nhóm thứ tư. Trẻ ở nhóm này không có hành xử thống nhất, chúng tỏ ra xa lánh, rồi lại đeo bám và giận dữ, rồi lại chuyển sang thẫn thờ hay hoảng sợ. Loại hình kết nối này được gọi là hỗn độn - mất phương hướng (disorganised - disoriented attachment) và xuất hiện nhiều ở trẻ bị ngược đãi nặng khiến chúng khiếp sợ chính người nuôi dưỡng chúng, hoặc ở trẻ có người chăm sóc mắc bệnh tâm lý như trầm cảm và do đó năng lực nuôi trẻ bị hạn chế nghiêm trọng.
Những kết quả nghiên cứu của Ainsworth và John Bowlby đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết lý nuôi dạy trẻ ở phương Tây. Trước đó, người ta cho rằng tương tác cảm xúc giữa mẹ và con không đóng vai trò trong quá trình phát triển của trẻ nhỏ, thậm chí sự gần gũi mẹ con còn gây bất lợi cho chúng. Một thực hành phổ biến hồi đó của các nhà hộ sinh là cách ly trẻ sơ sinh khỏi mẹ, trừ lúc chúng được cho bú. Họ sợ rằng trẻ gần mẹ nhiều sẽ bị hư hoặc trở nên yếu đuối, không đủ mạnh mẽ để đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống sau này - một quan điểm ngược một trăm tám mươi độ với kiến thức tâm lý học ngày nay.
Trở lại với lời khuyên “Đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, phải tự mình phấn đấu đi chứ!” hay được gửi tới các nạn nhân bị ngược đãi hay bạo lực tinh thần khi họ còn nhỏ. Liệu các vết thương tâm lý có thể được làm lành đơn thuần bởi thời gian hoặc được vượt qua bởi ý chí? Đáng tiếc là không đơn giản như vậy.
Qua những trải nghiệm đầu đời với người chăm sóc của mình, trẻ em hình thành những quan điểm về bản thân và về người khác. Bowlby gọi những quan điểm này là những mô hình nội tâm (internal working model). Một đứa trẻ có gắn kết vững vàng, trưởng thành trong một môi trường ấm áp và an toàn về cảm xúc và tâm lý, sẽ xây dựng một thế giới quan rằng “tôi xứng đáng được yêu thương” và “người khác là tin cậy được.” Khi trẻ lớn lên, những mô hình nội tâm này sẽ định hướng hành vi của chúng cũng như cách chúng phán đoán hành vi của người khác. Như vậy, con trẻ mang mẫu hình gắn kết của mình như một hành trang để đi vào tương lai. Người ta được lập trình bởi trải nghiệm tuổi thơ của mình. “Phần mềm” của họ chỉ được thay đổi nếu sau này họ có những trải nghiệm mới, đi ngược với những trải nghiệm thơ ấu, và những trải nghiệm mới này đủ mạnh, đủ nhiều, và xảy ra trong thời gian đủ dài. Do vậy, nếu môi trường sống không nhiều thay đổi, một đứa trẻ lớn lên sẽ gắn kết với bạn đời và con cái của mình theo cách hồi nhỏ nó gắn kết với người chăm sóc nó.
Do đó, tương tự như những trẻ em của Ainsworth, người lớn cũng rơi vào bốn nhóm khác nhau.
Nhóm người vững vàng xây dựng cuộc sống của mình trên nền tảng của một gắn kết an toàn, kết quả của một tuổi thơ đầy đủ về tình cảm. Họ có cái nhìn tích cực về bản thân và về những người xung quanh. “Tôi không gặp nhiều khó khăn để gần gũi với người khác,” họ sẽ xác nhận. “Mặt khác, tôi cũng không lo lắng là mình sẽ bị cô đơn, và ít khi sợ bị người khác khước từ.” Ở đây, “gần gũi” được hiểu là khả năng mở lòng để thể hiện những cảm xúc và suy nghĩ thực của mình, thái độ tự tin để tìm tới sự quan tâm, chăm sóc của người khác, cũng như sự sẵn sàng quan tâm, chăm sóc ngược lại. Người vững vàng vừa có thể độc lập vừa có thể thân thiết, qua đó xây dựng được những quan hệ khỏe mạnh với bạn đời và con cái. Thái độ lạc quan giúp họ có khả năng ứng xử cao hơn với các tình huống thách thức trong cuộc sống.
Nhóm thứ hai là những người né tránh. Những người này không tìm tới sự gần gũi trong quan hệ. Họ đề cao sự độc lập, “cứng rắn”, hiểu theo nghĩa không tìm đến sự giúp đỡ, an ủi của người khác. Để không bị tổn thương, họ tránh các tình huống mà mình có thể bị chối từ bằng cách không thừa nhận cảm xúc của mình hoặc rời xa nguồn tạo ra cảm xúc đó. Họ không bộc lộ tình cảm với người thân, coi thường tầm quan trọng của cảm xúc trong quan hệ, và khó chịu khi người thân tỏ ra cần họ hay muốn biểu đạt tình cảm với họ. Xa hơn, họ yêu cầu người thân phải “tự lập” như họ. “Đừng có đòi hỏi, tao cho mày như thế là nhiều lắm rồi, chưa bao giờ có ai giúp tao hết,” họ hay nói với con như vậy. Đây cũng chính là những người có xu hướng yêu cầu người khác ngừng “đổ lỗi cho hoàn cảnh” và chế giễu những người này là “yếu đuối” và “hay làm quá lên.” Bowlby gọi hình mẫu tâm lý này là “tự lập cưỡng chế” (compulsive self-reliance), một sự tự cô lập méo mó.
Nhóm người lớn thứ ba là những người lo âu. Không có khả năng đứng một mình, họ có xu hướng đeo bám, bấu víu, khiến người thân cảm thấy ngạt thở. Họ thường lo lắng cao độ rằng mình bị coi là không có giá trị, họ cảnh giác trước khả năng bị bỏ rơi, bị rút đi sự quan tâm hay yêu thương. Nếu như người né tránh giống cái cột điện trơ trơ thì người lo âu hay trở thành những cơn ghen tuông, giận dỗi, oán trách vượt tầm kiếm soát và bùng nổ từ những cớ rất nhỏ. Điều này càng khiến người thân của họ có xu hướng rút ra xa, và qua đó lại củng cố nỗi sợ bị chối từ của họ. Quan hệ với bạn đời của họ có thể cũng bền, giống như ở người vững vàng, nhưng không phải vì họ hạnh phúc; vì sợ bị bỏ rơi và cô đơn mà họ chấp nhận ở trong một quan hệ bất hạnh.
Cuối cùng là nhóm hỗn độn - mất phương hướng. Giống những đứa trẻ ở cùng nhóm, những người lớn này không có mẫu hình hành xử rõ ràng và mang trong mình những nét của cả người né tránh lẫn người lo âu.
Chúng ta có thể thấy thấp thoáng ở đây hình bóng của những cha mẹ trong nhiều câu chuyện của cuốn sách này. Những cha mẹ không có năng lực cảm xúc, không muốn kết nối hay không biết cách kết nối với đời sống tinh thần của con cái, chỉ gói gọn nghĩa vụ của mình vào chuyện chu cấp cho con ăn học. Những cha mẹ tấn công, sỉ nhục con cái vì cho rằng mình đáng nhận được nhiều hơn những gì chúng đem lại. Những cha mẹ vì lo sợ bị bỏ rơi và cô đơn mà giám sát cuộc đời của đứa con và ôm nghẹt chúng vào lòng. Trong phần lớn các trường hợp, những hành xử này tới từ nỗi đau tuổi thơ của chính những cha mẹ này, từ những thất vọng, giận dữ và cay đắng với cha mẹ của họ, với cuộc đời họ. Lớn lên trong sự đói khát tình yêu, họ đẻ và nuôi con như một cố gắng để thỏa mãn các nhu cầu của mình, để cảm thấy mình quan trọng, mình có giá trị, có năng lực, những điều họ không nhận được từ cha mẹ họ. Sự vô minh và hệ quả của một tuổi thơ cằn cỗi khiến họ không ý thức được về sự độc hại trong hành vi của mình. Cha mẹ lạnh lẽo cho rằng sự vắng mặt của mình trong đời sống tình cảm của trẻ không ảnh hưởng gì tới nó. Cha mẹ bạo lực cho rằng đó là điều đứa trẻ cần để chuẩn bị bước vào đời.
Thế còn những người con của những cha mẹ này, họ sẽ phải mang gánh nặng tuổi thơ theo suốt đời? Họ sẽ trở thành một phiên bản mới của cha mẹ mình, điều mà rất nhiều người trẻ trong cuốn sách này luôn lo sợ? Có cách nào để họ hàn gắn những vết thương và chữa lành những sang chấn tâm lý, để “nâng cấp phần mềm”, để xây dựng được gắn kết vững vàng với bạn đời tương lai và con cái của mình? Đây sẽ là nội dung của phần cuối của cuốn sách.