Phần thứ nhì - Chương I
dịch giả: bảo sơn
Phần thứ nhì - Chương I
gày giờ qua đi. Hai tháng sống ở nhà quê yên ổn quạnh hiu, lặng lẽ trôi đi lúc nào không biết; thực ra những xúc động, những cảm giác và những nỗi vui sướng của mấy tuần lễ ấy đã quá đủ cho cả một đời người. Những mộng chúng tôi đã xây đắp với một cuộc đời ẩn dật không được hoàn thành như ý. Chúng tôi chưa hề biết thế nào là một công việc khổ sở khó nhọc chẳng có một ý thức gì về phận sự, mà cũng không hiểu thế nào là hy sinh, là quên mình vì người khác mà tôi đã tưởng tượng ra trong lúc hứa hôn với Sách. Trái lại, giữa chúng tôi chỉ có một tình yêu vị kỷ, lòng khao khát được yêu, được luôn luôn vui vẻ, và hoàn toàn quên hẳn cuộc đời bên ngoài. Thực ra thì một đôi khi chồng tôi chúi ở trong buồng làm việc, đi ra tỉnh hay chăm lo công việc; nhưng tôi thấy rõ rằng Sách phải để tôi như vậy là khổ tâm lắm. Mà Sách cũng đã thú thực với tôi rằng ngoài tôi ra Sách chẳng thiết gì cả, chẳng muốn làm gì cả. Tôi cũng cảm thấy như vậy. Tôi có đọc sách, đánh đờn, săn sóc tới trường học, hay hầu chuyện mẹ chồng tôi, chẳng qua chỉ vì những công việc ấy có dính líu với Sách, được Sách tán thưởng; công việc gì mà Sách không lưu tâm tới thì tôi cũng bỏ mặc, và thấy ngoài chồng tôi ra sao lại có thể có những công việc lố lăng ấy! Có lẽ đấy chỉ là vì ích kỷ, nhưng ích kỷ ấy lại đem hạnh phúc lại cho tôi và nâng tôi vượt ra khỏi đời sống hằng ngày. Đối với tôi ở trên đời này chỉ có mình Sách, Sách là người hoàn toàn nhất không còn ai bằng; tôi chỉ có thể sống được vì Sách. Còn đối với Sách thì tôi là người đàn bà đẹp nhất đời, có đủ mọi đức tính; tôi biết vậy và cố gắng để được như vậy cho xứng đáng với người đàn ông hoàn toàn nhất đời.
Một hôm Sách vào buồng tôi đang lúc tôi đọc kinh. Tôi nhìn Sách xong lại tiếp tục cầu nguyện. Sách không muốn làm phiền tôi, ngồi vào một cái bàn và mở một cuốn sách ra. Tôi thấy hình như Sách nhìn tôi, tôi quay lại. Sách mỉm cười, tôi cũng bật cười lên không thể tiếp tục sám hối được nữa.
Tôi hỏi Sách:
- Anh đã cầu kinh chưa?
- Đã. Em cứ tiếp tục đi, anh ra đây.
- Có thực không anh?
Sách không trả lời, định đi ra thì tôi giữ lại:
- Anh! Em xin anh, chiều em, cùng đọc một bài kinh với em đi.
Sách quỳ xuống bên cạnh tôi; hai tay buông thõng một cách vụng về; vẻ mặt nghiêm trang, Sách bắt đầu đọc ấp a ấp úng. Chốc chốc, Sách lại quay sang tôi, để đợi tôi khen hoặc nhờ tôi nhắc.
Khi Sách đọc xong, tôi ôm chầm lấy Sách cười. Sách đỏ mặt lên, hôn tay tôi và nói:
- Em lúc nào cũng thế, lúc nào cũng thế! Làm như anh mới lên mười ấy.
Nhà chúng tôi là một nhà kiểu cổ ở thôn quê đã bao nhiêu đời truyền lại cho nhau, ghi lại bao nhiêu là kỷ niệm gia đình chân thật, những kỷ niệm mà ngay từ hôm tôi mới về ở đã thành ra của chính tôi rồi. Những đồ đạc và lối xếp đặt ngăn nắp trong nhà của bà An đều rập theo lối cổ, mọi thức không phải đều lịch sự hay tốt đẹp cả: nhưng từ bọn tớ cho đến đồ đạc, cả đến đồ ăn thức uống, cái gì cũng sung túc, sạch sẽ, chắc chắn, gọn gàng khiến người ta phải kính trọng. Trong phòng khách, đồ đạc bày một cách cân đối, cả những hình ảnh treo trên tường cũng vậy; trên sàn nhà thì trải thảm hay là chiếu. Trong phòng tiếp khánh đàn bà thì có một chiếc dương cầm, hai cái tủ có ngăn rút khác nhau, mấy cái đi-văng, mấy cái bàn xoay khảm xà cừ. Trong phòng làm việc của tôi thì bà An trang hoàng, bày những đồ đẹp nhất của những thời đại khác nhau, và có cả một tấm gương mà những ngày đầu, mỗi khi tôi soi bóng lại thấy sờ sợ, thế mà rồi sau tôi lại quý như một người bạn cũ. Không ai nghe thấy bà An nói bao giờ, thế mà trong nhà mọi việc đều đâu vào đấy, đúng răm rắp như một chiếc đồng hồ lên dây, cứ kể ra thì có nhiều đầy tớ quá, nhưng họ đều đi giày nhẹ không có gót (bà An ghét nhất trần đời là nghe thấy bước chân đi nặng); tôi tớ hình như kiêu hãnh về cảnh mình; nhưng hễ thấy bà già đâu là sợ run lên, và đối với chúng tôi, nhà tôi và tôi, thì săn sóc hết sức tử tế chu đáo; nói tóm lại người nào người nấy đều vui vẻ làm phận sự mình. Cứ đều đều, thứ bảy nào cũng lau nhà rũ thảm, đầu tháng nào cũng làm lễ tẩy trần và thết tiệc tất cả những người ở lân cận, theo những tục lệ hết sức cổ. Nhà tôi thì không có dính dáng gì vào những công việc ở trong nhà cả, chỉ trông nom công việc đồng áng và để mất rất nhiều thì giờ vào việc ấy. Mùa đông cũng như mùa hạ, Sách dậy rất sớm, lúc tôi ngủ dậy đã không thấy đâu nữa. Quen lệ cứ đến giờ dùng nước trà thì Sách về, chúng tôi dùng riêng và phần nhiều, sau những nỗi cực nhọc buồn phiền, vào giờ ấy, Sách vui vẻ lạ, vui cái tính mà chúng tôi gọi là “say cuồng” ấy. Tôi hay bắt Sách kể lại công việc buổi sáng của Sách cho tôi nghe, và Sách hay tuôn ra những chuyện pha trò buồn cười đến đứt ruột; có khi tôi bắt phải kể chuyện đứng đắn, thì Sách nín cười và nói. Tôi ngắm nhìn mắt Sách, môi Sách, và không hiểu gì cả, tôi chỉ sung sướng được trông thấy Sách và nghe giọng của Sách nói, thế thôi.
Nhiều lần Sách bảo tôi:
- Nào, thế anh vừa nói những gì? Em thử kể lại xem!
Nhưng tôi chịu, không nhắc lại được. Mà tôi thấy lạ quá, sao Sách lại không nói chuyện gì về Sách hay về tôi, mà chỉ nói toàn những chuyện đâu đâu. Hình như chúng tôi không thể không lý đến những chuyện ấy. Mãi về sau lâu lắm, tôi mới bắt đầu hiểu và chia sớt những nỗi lo âu của Sách. Bà An thì chẳng bao giờ tôi gặp mặt trước bữa cơm cả, bà dùng trà một mình, và nếu có chuyện gì thì chỉ sai ngưỡi khác đến nói với chúng tôi.
Trong cái thế giới riêng của chúng tôi, sung sướng và hơi điên, tiếng nói của bà vang tới như những tiếng từ một thế giới nào khác, đứng đắn, đáng kính và đáng trọng. Nhiều khi tôi không nhịn được phá lên cười thấy con hầu khoanh tay nghiêm chỉnh từ tốn trình những câu tỷ dụ như: “Thưa Mợ, Bà ước ao muốn biết, sau bữa tiệc đêm hôm trước, cậu mợ ngủ có được an giấc không, còn bà suốt đêm bị đau ở cạnh sườn, và một con chó dại nào đã cắn inh ỏi để bà mất cả ngủ”.
“Bà còn bảo hỏi xem sáng hôm nay mợ có thích ăn bánh ngọt không, vì bà bảo con nói để mợ rõ là hôm nay không phải chị Tân làm, mà là chị Niên tập làm thử; Bà xem thấy bánh quế thì được nhưng bánh mì khô nướng cháy quá”.
Buổi sáng chúng tôi ít gần nhau. Tôi đọc sách hay đánh đàn, còn Sách thì viết hoặc đi vắng; tới bữa cơm ăn lúc bốn giờ, chúng tôi gặp nhau ở phòng khách; mẹ chồng tôi bước vào phòng một cách long trọng với mấy người bạn, là những nhà quý phái bị sa sút hay những khách trẩy hội đi lễ, luôn luôn lúc nào trong nhà cũng có dăm ba người. Theo cổ lệ, bao giờ cũng như bao giờ, Sách cũng đưa tay cho mẹ vịn; nhưng bà bắt Sách phải đưa nốt tay kia cho tôi, và bao giờ cũng như bao giờ, chúng tôi đi cũng va phải cửa. Bà An chủ tọa bữa cơm. Chuyện bao giờ cũng nói về những vấn đề lịch sự và đứng đắn. Nhưng thường khi bị những lời lẽ giản dị của những câu chuyện riêng của chúng tôi phá tan cái vẽ kiêu kỳ, hoa mỹ đi. Một đôi khi giữa hai mẹ con Sách xảy ra những cuộc tranh luận giễu cợt nhau; tôi ưa nhất là những cuộc đấu khẩu, trong đó tôi thấy rõ hơn bao giờ hết tình thương mến sâu xa của Sách đối với mẹ. Sau bữa cơm “me” (mẹ chồng tôi) ra ngồi ở phòng khách, trong một chiếc ghế bành lớn, chúng tôi thì đọc sách báo rất to tiếng, hoặc kéo nhau vào ngồi gần chiếc dương cầm trong phòng khách dành riêng cho đàn bà. Trong thời kỳ ấy, chúng tôi chung nhau đọc sách, nhưng chúng tôi vẫn ưa âm nhạc hơn hết, nó gợi cho chúng tôi nhiều cảm giác mới hoặc để cho chúng tôi có dịp hiểu biết nhau hơn. Khi tôi chơi những bản ưa thích nhất thì Sách ngồi trên một cái đi-văng đằng xa khiến tôi có muốn nhìn cũng khó thấy, chàng sợ ngượng nên cố giấu trong lòng những tình cảm bị tiếng đàn gợi ra. Luôn luôn Sách bất ngờ bị tôi đến gần bắt chợt được trên nét mặt những cảm xúc mà Sách không giấu nổi tôi. Bà An cũng thích gặp chúng tôi ở trong phòng ấy lắm, song bà lại sợ làm phiền chúng tôi; nhiều lúc đi qua phòng bà lại vờ làm ra bộ không để ý đến chúng tôi; nhưng tôi biết là bà không cỏ công việc gì cần phải đi qua đấy. Buổi chiều, chúng tôi uống nước trà ở trong phòng khách; chính tôi hầu trà, lúc ấy là lúc cả nhà lại được dịp quây quần với nhau. Cái công việc long trọng này, đưa chén, đưa cốc, mời mọc, thực là một cái tội cho tôi. Tôi thấy hình như tôi không xứng đáng với cái hân hạnh ấy, tôi trẻ quá và thiếu kinh nghiệm để sử dụng cái ấm đựng nước sôi bằng đồng bóng láng trông rất vĩ đại, và để đặt những cái cốc, cái chén vào cái khay con hầu bưng, và bảo nó: “Đưa mời ông Văn... đưa mời bà Minh...”, hoặc hỏi xem cỏ còn đủ đường không và liệu bớt lại cho u em và những đầy tớ lão thành.
Sách hay nói:
- Khá lắm, khá lắm, ai mà chẳng khen em là người lớn chững chạc!
Sau khi dùng trà rồi, me đem bài ra bỏi, phá trận, hoặc chơi với bà Minh; rồi me hôn hai chúng tôi, làm dấu cho chúng tôi, rồi chúng tôi trở về phòng riêng. Phần nhiều chúng tôi hay nói chuyện với nhau cho đến nửa đêm, và lúc ấy là lúc dễ chịu sung sướng nhất ngày. Sách kể chuyện quá khứ của Sách cho tôi nghe, chúng tôi bàn tính với nhau những chuyện tương lai, hoặc bàn luận về một vấn đề triết lý, cố nói thật khẽ để khỏi ai nghe thấy, nhất là bà An, bà bắt chúng tôi phải đi ngủ sớm. Có hôm đói, chúng tôi lén xuống bếp và được chị Năm giúp lấy những đồ ăn nguội, đem về buồng ăn ngấu nghiến, dưới ánh sáng một ngọn nến độc nhất, cả hai chúng tôi sống như hai người xa lạ ở trong cái nhà cổ rộng mênh mông ấy, khắp chỗ nào hình như cũng có những vong linh người trước và cái hình bóng nghiêm khắc của bà An. Không riêng gì bà An, ngay cả đến những người làm, người lão bộc, đồ đạc, tranh ảnh, cũng làm cho tôi tôn kính và sợ sệt, và có cái cảm tưởng như Sách và tôi không hẳn ở cái địa vị của mình, chúng tôi cần phải thận trọng, dè dặt. Bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi thấy biết bao nhiêu thứ - cái nền nếp bất di bất dịch ấy, cái đám người ăn dưng ngồi rồi và tò mò, thóc mách ấy - chẳng ích lại chi mấy mà lại còn vướng víu nặng nề nữa; nhưng hồi bấy giờ thì cái khó chịu phiền phức ấy chỉ kích thích cho chúng tôi yêu nhau thêm. Cả tôi lẫn Sách không ai tỏ ý khó chịu cả.
Mít, anh bồi đại nghiện điếu tẩu, bao giờ cũng vậy, cứ sau bữa cơm, khi chúng tôi còn ngồi ở phòng khách, là thế nào cũng lén vào phòng của Sách tháu thuốc lá để ở trong một cái ngăn kéo; và nhiều khi tôi đến buồn cười và sờ sợ thấy nhà tôi đi nhón gót chân lại gần tôi, khẽ nháy mắt, và chỉ cho tôi xem Mít đang lấy thuốc mà không ngờ bị chúng tôi biết. Khi Mít trở ra, không trông thấy chúng tôi, vẻ mặt khoái trá lắm, tưởng đã làm xong được một việc mà không ai biết, thì bao giờ Sách cũng bảo tôi “em là một thiên thần” và ôm lấy tôi hôn. Có khi cái tính khoan dung, cái vẻ bình thản, dửng dưng không thiết việc gì cả của Sách làm tôi khó chịu, tôi thấy tôi không thể làm được như thế và cho Sách là nhu nhược. Tôi nghĩ thầm: “Chẳng khác chi một đứa trẻ con không dám bày tỏ ý kiến của mình”.
Một hôm tôi trách Sách thì Sách la lên rằng:
- Ô! Em ôi, một người sung sướng như anh thì có thể cáu giận được không? Anh đã tin chắc từ lâu rằng, mình chịu nhịn người ta thì dễ hơn là bắt người ta khuất phục mình, và ở hoàn cảnh nào người ta cũng có thể sung sướng được. Hạnh phúc của chúng ta đầy đủ quá rồi, anh không thể giận dữ được, anh không thấy có gì là xấu xa nữa, anh chỉ thấy có điều đáng thương và đáng buồn cười thôi, và nhất là “hiện tại của chúng ta tốt đẹp lắm rồi, muốn hơn nữa e có hại”. Em có tin không, khi anh nghe thấy tiếng chuông, khi người ta mang lại cho anh một bức thư, hay khi anh ngủ dậy, anh thấy lo sợ. Anh lo sợ phải trông thấy sự vật biến đổi; còn gì có thể tốt đẹp hơn hiện tại nữa.
Tôi tin Sách mà không hiểu Sách. Tôi cũng sung sướng, nhưng tôi thấy mọi việc không thể thay đổi khác được mà trong trường hợp này ai ai cũng vậy; tuy nhiên tôi vẫn tưởng tượng thấy phải có một thứ hạnh phúc khác không lớn hơn nhưng không giống thế.
Hai tháng trôi đi như vậy, và tiếp đến mùa đông với những cơn gió bấc cùng những trận mưa tuyết; tuy Sách luôn luôn ở bên cạnh tôi, mà tôi vẫn thấy cô đơn hiu quạnh, cuộc đời thì phẳng lặng, ở Sách cũng như ở tôi, không có thêm cái gì là mới lạ nữa; trái lại chúng tôi hình như không tiến mà cứ đi giật lùi hoài. Nhà tôi thì hơn bao giờ hết, chăm chú vào công việc, và tôi lại thấy nhà tôi như ở một thế giới riêng biệt nào khác mà không muốn cho tôi đặt chân tới... Thái độ bình tĩnh thản nhiên của nhà tôi làm cho tôi khó chịu hết sức. Tôi không yêu nhà tôi kém đi, tôi vẫn luôn luôn sung sướng được nhà tôi yêu tôi; nhưng tình của tôi như đã đọng lại không tăng thêm lên nữa, và trong lòng tôi lại chen thêm một cảm tình khác, một nỗi lo âu thắc mắc. Tình yêu đối với tôi không đủ nữa, một khi tôi đã được hưởng đến tuyệt đích của nó. Tôi mong ước một cuộc đời hoạt động hơn cái cuộc đời yên ổn này. Tôi thích những cảm xúc, những nguy hiểm nó đòi hỏi tôi phải hy sinh. Khí lực của tôi dồi dào quá mà không được dùng đến trong cuộc đời yên tĩnh của tôi. Tôi giấu không cho nhà tôi biết những cơn buồn của tôi như giấu một việc xấu xa và sau những cơn buồn ấy là những cơn âu yếm nồng nàn, những cơn vui điên rồ làm cho Sách lo sợ. Thế nhưng Sách đã đoán biết tâm trạng của tôi trước cả tôi, và bàn với tôi đi ra tỉnh; song tôi yêu cầu Sách đừng có làm gì cả, e tan vỡ mất hạnh phúc của chúng tôi. Tôi đương sung sướng kia mà; tôi băn khoăn là chỉ vì tôi không phải khó nhọc, không phải hy sinh gì mà được sung sướng; mà tôi thì lại có nhiều khí lực. Tôi yêu nhà tôi và biết rằng ngoài tôi ra nhà tôi chẳng thiết gì cả: nhưng tôi lại muốn rằng tất cả mọi người đều trông thấy mối tình của chúng tôi, ngăn cản chúng tôi yêu nhau, để cho tôi càng thèm khao khát yêu chồng. Tâm trí tôi thì nghĩ ngợi bận rộn, mà tôi vẫn còn những tính tình của tuổi trẻ, tôi cần phải hoạt động mà vẫn chưa tìm được việc gì làm cho cuộc đời khỏi yên tĩnh quá. Tại sao Sách lại bảo rằng chúng tôi có thể đi ra tỉnh trúng vào lúc tôi đang mong ước? Nếu Sách không nói ra câu ấy thì có lẽ tôi đã hiểu rằng riêng tôi là người có lỗi, tôi đã chán nản một cách vô lý và có hại, và tôi chỉ cần thắng được sự chán nản ấy là đời tôi hoàn toàn sung sướng. Nhưng trong đầu óc tôi, lúc nào cũng lởn vởn ý nghĩ rằng tôi cần phải đi chơi xa một ít lâu, có thế thì tôi mới thoát khỏi ưu phiền như bây giờ, song tôi lại nghĩ như thế thành ra vì tôi Sách lại phải dứt bỏ những thứ Sách đang ưa thích và yêu mến đi, và tôi tự thấy bứt rứt, hổ thẹn. Rồi thời giờ qua đi, tuyết càng ngày càng chất đầy ở bên tường cạnh nhà, chúng tôi vẫn luôn luôn hiu quạnh, không ai thấy ai thay đổi chút nào; trong khi ở nơi khác là cả một thế giới hoạt động, vui đùa ồn ào ầm ỹ không biết chi tới chúng tôi, tới cuộc đời của chúng tôi đang lặng lẽ trôi đi. Tệ hại nhất là chúng tôi thấy thói quen mỗi ngày một ép cuộc đời của chúng tôi vào một cái khuôn bất di bất dịch; tình yêu của chúng tôi đã mất hết tự do và chịu hòa theo nhịp sóng đều đều và bình tĩnh của thời gian. Chúng tôi buổi sáng thì vui vẻ, buổi trưa thì đạo mạo, buổi chiều thì dịu dàng. Tôi bụng bảo dạ “Làm điều thiện và ăn ở cho phải đạo” như Sách đã nói thực là hay lắm, nhưng tôi thấy chưa cần đến vội; chúng tôi còn khối thì giờ, trong khi ấy còn bao nhiêu là thứ khác, tôi thừa sức làm. Tôi không cần “ăn ở cho phải đạo” tôi chỉ cần một cuộc đời đấu tranh vật lộn; tôi muốn cuộc đời tôi được tình cảm hướng dẫn, mà hóa ra tình cảm lại bị cuộc đời hướng dẫn. Tôi muốn cùng Sách tiến tới tận bờ một vực thẳm rồi tôi bảo Sách: “Chỉ một bước nữa thì em rơi xuống vực thẳm, chỉ một cử động nữa thì hết đời em” để cho Sách mặt tái xanh tái mét đi, giang đôi tay cứng chắc ra ôm lấy tôi và đem tôi đi bất kỳ đâu đâu cũng được.
Tinh thần tôi thành ra bị khủng hoảng, sức khỏe bị suy giảm đi. Một hôm tôi thấy khó chịu hơn mọi ngày, Sách ở buồng giấy về, sắc mặt không vui, ít khi Sách như thế lắm, tôi nhận thấy ngay và hỏi có việc gì. Sách không muốn trả lời tôi và nói rằng không có gì đáng để cho tôi bận tâm cả. Về sau tôi biết rằng viên cảnh sát trưởng đòi những người nhà quê lên, và, vì bất bình với nhà tôi, viên ấy đã buộc cho họ những điều lỗi không chính đáng và đe tư tòa. Sách chịu không nổi, không cho là một chuyện tầm thường đáng buồn cười và thương hại; Sách bực mình và không muốn nói với tôi; nhưng tôi thì lại thấy hình như Sách coi tôi là trẻ con không biết gì và không hiểu nổi những công việc của Sách. Tôi im lặng quay đi, và sai người nhà đi mời bà Minh lại xơi trà với chúng tôi. Tôi pha trà uống thật nhanh cho chóng xong rồi kéo bà Minh vào phòng khách và nói chuyện huyên thiên cố ý dằn mạnh vào giọng nói. Sách đi lại ở trong phòng, thỉnh thoảng lại liếc nhìn chúng tôi một cái. Những cái nhìn ấy đối với tôi có hiệu lực lạ lùng; càng lúc tôi càng thấy cần phải nói, phải cười nữa. Những điều bà Minh và tôi nói ra chắc buồn cười lắm. Sách không nói gì, rút lui về phòng riêng và đóng cửa lại, Sách đi rồi, tự nhiên tôi mất hẳn vui đi đến nỗi bà Minh phải ngạc nhiên hỏi tôi làm sao thế, tôi không ngồi đi-văng, và cố giữ khỏi bật lên khóc. Tôi nghĩ thầm: “không biết Sách nghĩ những gì?”. Chuyện chẳng có gì mà làm như lo lắm, nếu Sách nói cho tôi nghe thì có phải tôi đã có thể bày tỏ cho Sách biết là chuyện chẳng có gì đáng kể không. Nhưng Sách lại cứ coi như là tôi không thể hiểu nổi chuyên gì cả và làm bộ khinh miệt tôi, tự cho mình bao giờ cũng có lý hơn tôi. Nhưng tôi, tôi cũng có lý, khi tôi buồn, khi tôi cũng muốn sống, muốn hoạt động mà không muốn ở yên một chỗ để thời giờ trôi qua mất, tôi cũng có lý của tôi chứ. Tôi muốn tiến hóa, mỗi ngày, mỗi giờ nhìn thấy những sự mới lạ, nhưng Sách thì lại muốn ở yên một chỗ và giữ tôi ở bên cạnh. Tôi cho là Sách muốn thì có khó gì đâu; Sách chẳng cần phải đưa tôi lên tỉnh, Sách chỉ cần làm như tôi, không phải kiềm chế giữ gìn gì cứ việc để mình sống một cách hồn nhiên. Chính Sách đã bảo tôi thế, thế mà sao hình như Sách không làm nổi. Cái khổ là ở chỗ ấy!
Tôi thấy nước mắt muốn trào ra và càng giận Sách thêm. Tôi đứng dậy vào buồng Sách. Sách đang ngồi viết; nghe thấy bước chân tôi, Sách quay lại nhìn một cái, rồi lại lặng lẽ lãnh đạm cúi xuống viết. Tôi khó chịu về cái nhìn ấy quá; đáng lẽ tôi đến bên cạnh Sách thì lại ngồi xuống bên cạnh bàn, mở một cuốn truyện ra coi. Sách ngừng viết ngẩng lên nhìn tôi rồi hỏi:
- Mai, em giận gì thế?
Tôi trả lời bằng một cái nhìn lạnh lùng có ý bảo:
“Hỏi mà làm gì? Khéo ân cần tử tế chưa!”
Sách lắc đầu mỉm cười một cách bẽn lẽn và trìu mến, nhưng lần đầu tiên tôi không cười đáp lại.
- Hôm nay em cỏ chuyện gì thế? Sao không nói cho anh nghe?
Rồi Sách lại tiếp:
- Ban nãy có chuyện gì đâu, hơi khó chịu một chút. Nhưng bây giờ anh có thể kể cho em nghe, có hai người nhà quê đi ra tỉnh...
Nhưng tôi không để cho Sách nói hết:
- Tại sao lúc uống nước trà em hỏi anh không nói ngay?
- Lúc bấy giờ anh đang tức giận, anh có thể nói bậy nói bạ.
- Nhưng chính lúc đó anh cần phải nói!
- Vì lẽ gì?
- Vì bao giờ anh cũng cho là em không thể giúp anh được bất kỳ một việc gì cả, anh lầm lắm.
Sách bỏ bút xuống hỏi:
- Sao? Anh chỉ lo là không có em thì anh không thể sống được. Không những em luôn luôn luôn giúp đỡ anh mọi việc, mà chính em làm hết tất cả mọi việc nữa.
Rồi Sách cười và tiếp:
- Đấy em xem! Anh chỉ sống ở như em, anh thấy hình như mọi việc mà được tốt dẹp là nhờ có em, em là...
- Phải em biết rồi, em là một đứa trẻ xinh đẹp mà người ta cần phải dễ yêu và không được quấy rầy nó chứ gì?
Tôi nói bằng một giọng đến nỗi Sách phải ngạc nhiên nhìn tôi, như vừa chợt khám phá ra được một điều gì ở tôi. Tôi nói thêm:
- Em không cần được yên ổn, yên ôn quá là thừa, là thừa...
Sách vội nói, ngắt lời tôi, như có ý sợ phải nghe tôi nói hết tất cả ra.
- Chuyện ấy chỉ cỏ vậy; thế em cho bên nào phải?
Tôi muốn nghe Sách nói, nhưng tôi lại thấy có cái thích muốn quấy rầy Sách. Tôi đáp:
- Em không muốn nói đến chuyện ấy nữa. Em không muốn sống chơi sống đùa, em muốn sống cho ra sống, y như anh vậy.
Sắc mặt Sách biến hẳn đi và lộ vẻ đăm chiêu đau đớn. Tôi tiếp:
- Em muốn sống với anh, ngang bằng nhau, với anh...
Tôi không thể nói hết câu: nét mặt Sách càng buồn thảm hơn. Một hồi lâu Sách mới nói:
- Em không ngang hàng anh ở chỗ nào? Về việc này anh tưởng chỉ có anh là có thể giao thiệp được với cảnh binh và những người nhà quê say rượu, thôi, chứ em đâu có làm gì được...
- Có phải chỉ có việc này thôi đâu.
- Em ạ, thôi anh xin em, em cố ráng hiểu cho lòng anh. Đau khổ có hay gì đâu, anh đã từng trải nhiều anh biết. Anh yêu em, vì thế anh muốn tránh cho em khỏi bị đau khổ giày vò... Đấy là lẽ sống của anh, anh chỉ sống vì tình anh yêu thương em. Vậy em hãy để cho anh sống.
Tôi nói không nhìn Sách:
- Anh bao giờ cũng có lý!
Tôi bực mình thấy Sách lại có vẻ thản nhiên và sáng suốt nhận định mọi việc một lần nữa, trong lúc tôi đang tức giận và cảm thấy gần như hối hận.
Sách nói:
- Mai, vậy em có điều gì? Không phải là chuyện xem anh phải hay anh trái, nhưng mà là một chuyện gì khác hẳn: em có điều gì giận anh? Em nghĩ kỹ rồi hãy trả lời anh, em nói cho anh rõ bản ý của em. Em giận anh chắc em cũng có một lý gì. Em cứ nói rõ xem anh có tội lỗi gì.
Tôi biết làm sao để cởi mở nỗi lòng với Sách? Thoáng qua một cái Sách đã hiểu tôi rồi; lại một lần nữa, trước mặt Sách tôi chỉ là một đứa con nít, không thể làm được một việc gì mà không bị người ta biết ngay lập tức, thành thử tôi chỉ bối rối thêm. Tôi nói:
- Em chẳng có điều gì giận anh cả. Chỉ có mỗi một điều là em buồn, và em không thích buồn như thế. Nhưng anh lại cho như thế là hay là tốt, và bao giờ anh cũng có lý cả.
Tôi vừa nói vừa nhìn Sách. Tôi đã đạt được mục đích, Sách đã mất cả bình tĩnh và lộ vẻ buồn rầu kinh hoảng.
Sách nghẹn ngào vì cảm động:
- Em? Chuyện này không phải là một chuyện đùa, nó sẽ quyết định số phận của chúng ta. Anh xin em, đừng nói gì vội, trước khi nghe anh hỏi em. Tại sao em lại muốn giày vò anh?
Tôi ngắt ngay lời Sách:
- Em biết mà, anh lại có lý rồi, anh đừng nói gì nữa thì hơn, anh có lý rồi.
Tôi nói một cách lạnh lùng, y như không phải là tôi nói mà là một hung thần nào nhập vào tôi và nói ra vậy.
Sách nói, giọng run run:
- Sao em lại ăn nói như thế?
Tôi òa lên khóc và thấy nhẹ người đi. Sách vẫn ngồi yên bên cạnh tôi không nói. Tôi thấy thương Sách, tự thẹn và bực mình về chuyện đã gây ra. Tôi không nhìn Sách, nhưng tôi đoán là Sách đang nhìn tôi một cái nghiêm nghị. Tôi quay lại: Sách đang nhìn tôi nhưng nhìn một cách rất âu yếm như xin lỗi. Tôi cầm lấy tay Sách:
- Sách tha lỗi cho em! Em không biết là em đã nói gì nữa!
- Em không biết nhưng anh biết, em đã nói sự thật.
- Nghĩa là làm sao?
- Chúng ta phải đi Bắc-Tơ-Bua. Bây giờ chúng ta không còn việc gì ở đây nữa.
- Tùy anh đấy.
Sách ôm chầm lấy tôi hôn:
- Em tha lỗi cho anh, anh rất có lỗi với em.
Chiều hôm ấy, tôi đờn rất lâu cho Sách nghe, trong khi Sách đi đi lại lại ở trong phòng lẩm nhẩm nói những gì, Sách có cái tính nói rì rầm một mình như thế, và nhiều khi tôi bảo Sách thử nhắc lại xem có nhớ đã nói những gì không, thì Sách nghĩ ngợi một chút rồi nói cho tôi nghe: phần nhiều Sách ngâm thơ hoặc nói bất cứ câu gì nhưng ở chỗ bất cứ ấy tôi cũng đoán biết được tâm trạng Sách. Tôi hỏi:
- Anh đang nói gì thế!
Sách đứng dừng lại, nghĩ ngợi rồi cười đọc cho tôi nghe hai câu thơ của Lermontov (một thi sĩ thời đại lãng mạn):
“... Và chàng ngạo ngược tìm giống tố,
Những tưởng bên trong thấy thái bình...”
Những tưởng bên trong thấy thái bình...”
Tôi nghĩ thầm: “Thì ra Sách là một người vượt lên trên những người thường; không có chi là Sách không biết! Làm sao mà ta không yêu Sách được!”.
Tôi đứng lên, ra cầm lấy tay Sách và đi bên cạnh Sách, cố đo bước chân cho đều với bước chân Sách.
Sách nhìn tôi cười và hỏi:
- Có phải thế không, em?
Tôi khẽ đáp:
- Vâng, phải.
Rồi bỗng cả hai chúng tôi đều vui sướng như điên như cuồng, chúng tôi cười tít cả mắt lên, và bước đi những bước càng lúc càng dài, gần như chỉ đi ở trên đầu ngón chân. Rồi chúng tôi cứ thế đi mãi, hết chọc tức lão Goa, lại bắt gặp me đương bói bài tây ở sa lông, chúng tôi qua hết phòng này sang phòng khác cho tới tận phòng ăn thì ngừng lại và nhìn nhau phá lên cười.
Nửa tháng sau, chúng tôi đi Bắc-Tơ-Bua.
Đánh máy: casau
Nguồn: VNthuquan.net- Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 12 năm 2014