- III - Kể chuyện lần đầu tiên về vụ ám sát- -
Từ pháp đình tới nhà ga chỉ vài trăm mét. Nhưng người ta vượt khoảng cách ấy bằng xe trượt tuyết. Ông thẩm phán và cảnh sát trưởng Filaret để mặc cho gã xà ích trùm lên người những tấm chăn lông thú. Giống như những đứa bé trong tã bọc của chúng vậy, ở đây, trùm kín khách leo lên xe là một phần việc không thể thiếu trong bổn phận của xà ích. Hai con ngựa trắng bạch. Tuyết, được gió thổi tạt đi, có hình dáng như những ngọn núi lửa màu trắng quất vào mặt Ismail làm dấu thánh giá khi leo lên xe. Gã to chình ình một đống. Như thể thân hình một con voi, một con ma mút [1] “Hãy cất bước, các con của ta”, gã xà ích nói với hai con ngựa.
Ông thẩm phán nhìn chung quanh mình. Tất cả những ai nghe Ismail nói cũng đều quay đầu nhìn, như ông thẩm phán, và tìm cô thiếu nữ vừa mới nói. Vì Ismail có giọng nói cao, nhỏ và yếu như giọng con gái. Không ai có thể ngờ cái giọng rất nhỏ ấy lại phát xuất từ cái thân hình đồ sộ kia, từ cái ngực rộng hơn mông ngựa kia. Chẳng khác gì một con voi lại đẻ ra một con chuột nhắt.
- Đây là lần đầu tiên ông nghe gã ta nói? - Viên cảnh sát hỏi ông thẩm phán.
- Tôi nghe giọng nói ấy hàng ngày, từ khi tôi ở đây. Nhưng tôi không thể nào tin rằng một người khổng lồ lại có thể có một giọng nói nhỏ đến thế. Nghe thật khó chịu.
- Đây là một người tự hoạn - Viên cảnh sát trưởng giải thích - Do đó gã ta có giọng nói như con gái. Nhưng đây là một người thánh đức. Một con người hoàn toàn tốt.
- Hãy ngừng lại, các con của ta - Ismail nói với hai con ngựa, vẫn cái giọng ấy.
Chiếc xe trượt tuyết ngừng lại sau nhà ga. Đây là một kiến trúc nhỏ hình chữ nhật. Không có lầu. Chỉ một tầng trệt. Tất cả đèn đều tắt.
Thẩm phán, cảnh sát trưởng và xà ích đi hàng một trên sân ga. Nhà ga không lớn hơn nhà người gác cổng sắt. Hoạt động của nhà ga chỉ thu gọn công việc đón chuyến tàu Bắc, chuyến tàu Nam gặp nhau lúc mười hai giờ trưa và lúc nửa đêm. Không một hành khách nào đi tàu để ý đến ga Agapia. Trong tuyến đường sắt, ga Agapia nhỏ và không có nghĩa lý gì, như một cái dấu phẩy trong một cuốn tiểu thuyết dài. Không ai chú ý đến nó. Cũng như người ta không chú ý đến nhà của viên gác cổng đường sắt. Các chuyến tàu, ngay cả tàu hàng cũng không cảm thấy bắt buộc đến thật đúng giờ tại một ga nhỏ đến thế. Mùa đông, có những tàu hàng đến trễ hai hay ba ngày.
- Ông có mặt trên sân ga khi nạn nhân đến à? - Ông thẩm phán hỏi.
- Đúng như vậy, Ismail có mặt ở đấy! - Viên cảnh sát trưởng đáp. Hỏi gã điều đó là gần như lăng nhục gã. Ismail có mặt khi tàu đến và khi tàu khởi hành. Luôn luôn có mặt.
Ga Agapia chỉ có một nhân viên. Ông ta tên là Nicolas Inimiora. Đây là một cái tên lạ lùng, biến thể của chữ Inima có nghĩa là tim nhỏ. Vì vậy người ta còn gọi ông Nicolas Inimiora là “Nicolas Tiểu Tâm”. Chính thức, ông là trưởng ga. Nhưng vì chỉ có một mình ông thôi, ông cũng làm luôn công việc phó trưởng ga, điện tín viên, nhân viên bán vé, quét dọn, khuân vác và bưu vụ. Nicolas Tiểu Tâm rất trẻ. Mới hai mươi hai tuổi. Ở Agapia tất cả các trưởng ga đều trẻ và thay đổi một hoặc hai lần mỗi năm. Người ta đưa họ đến đây để tập sự, ngay sau khi họ học xong khóa đào tạo trưởng ga. Ông trưởng ga Nicolas Inimiora có một chòm râu cằm nhỏ, chơi đàn măn-đô-lin và làm thơ. Ông ngủ trên một bộ ván, trong phòng làm việc. Đó là chỗ ấm nhất trong nhà ga. Ở đó có một lò sưởi bằng gang. Ngoài ông Nicolas Inimiora, người ta thấy có Ismail trên sân ga trong tất cả các chuyến tàu đến hay khởi hành. Không ai bắt buộc Ismail phải có mặt ở ga. Nhưng gã là xà ích, xà ích duy nhất, coi mình có bổn phận có mặt mỗi khi có chuyến tàu đến. Gã giúp trưởng ga khuân hàng quét tuyết không phải vì lợi lộc, mà chỉ vì gã có mặt ở đấy. Sau khi tàu chạy rồi, Ismail trở về nhà với hai con ngựa bạch của mình và đợi chuyến tàu đến tiếp, hoặc khởi hành tiếp. Ismail biết rằng gã không có khách. Vì thử hỏi có ai xuống ở Agapia? Nhưng gã không đến để có khách, gã đến vì gã là xà ích và xà ích thì phải có mặt ở nhà ga. Đôi khi về mùa hè có những hành khách chụp ảnh nhà ga, với sân ga nhỏ bé, ông trưởng ga có chòm râu cằm và gã xà ích cao hơn trụ đèn, mặc kiểu áo thầy tu bằng nhung màu xanh.
- Hãy kể cho tôi nghe sự việc đã xảy ra như thế nào? - Ông thẩm phán nói.
- Tôi đã kể với ông cảnh sát trưởng - Ismail đáp - Tôi có mặt ở nhà ga. Điện thoại báo rằng, chuyến tàu Bắc trễ bốn mươi phút. Như vậy là nó phải đến lúc mười hai giờ bốn mươi phút đêm. Tôi vào phòng giấy trưởng ga. Tôi ở đấy với ông Inmiora, cả hai ngồi gần bên lò sưởi. Ông Inmiora chơi đàn măn-đô-lin. Bốn mươi phút qua mau. Khi tàu đến các toa đều phủ đầy băng và tuyết, hai chúng tôi đều có mặt ở sân ga. Trước khi tàu ngừng, một cánh cửa mở ra, ở toa xe hạng nhất. Trên bậc bước, xuất hiện ông Antoine Tuniade mặt quân phục, tay trái xách một chiếc va-li nhỏ. Ông ta nhảy xuống và chạy đến tôi.
- Về lâu đài Ismail - Ông ta nói - Mau lên!
- Ông không bị cấm trại sao, ông Antoine? - Tôi hỏi.
- Có bị cấm trại - Ông ta đáp - Cả lữ đoàn của tôi bị cấm trại. Vì có bệnh truyền nhiễm trong thành phố nơi đóng quân. Nhưng, mặc dù vậy, tôi được nghỉ phép. Bốn ngày.
- Ông ta vui vẻ. Và rất sung sướng được nghỉ phép.
- Tôi hỏi: “Thưa ông Antoine, ít ra, ông đã làm điều bậy. Ông đào ngũ à?”... “Đào ngũ! Phiền phức lớn lắm đây”.
- Chúng ta hãy vào gặp trưởng ga đã. - Viên cảnh sát trưởng nói.
Nicolas Inimiora đã thức dậy rồi. Ông đã nghe tiếng chân và tiếng nói trước cửa phòng. Ông mời vị thẩm phán, viên cảnh sát trưởng và gã xà ích vào phòng giấy, vừa là phòng ngủ, nhà bếp. Gian phòng ấy cũng là phòng đợi cho hành khách, và chiếc lò sưởi bằng gang được đốt cho đèn sáng. Ở trong này rất nóng. Ông Inimiora, mặc áo ngủ, muốn mặc thêm áo cho đàng hoàng. Viên cảnh sát trưởng ngăn lại.
- Cậu Tuniade, con bà Patricia, bị ám sát. Đừng làm mất thời giờ vô ích. Hãy trả lời chúng tôi gấp và thật chính xác. Ông có thấy cậu Tuniade lúc cậu ta xuống từ chuyến tàu Bắc không?
- Tôi có thấy - Trưởng ga đáp.
Ông ta tái mét. Ông ta hỏi:
- Người ta đã giết cậu ấy bằng cách nào?... Ai? Ở đâu?
- Ở trước lâu đài. Bằng súng. Ai?... Người ta sẽ biết. Biết là ai và vì sao. Chúng tôi là người để làm việc đó. Ông hãy nói cho chúng tôi biết tất cả những gì ông biết, những gì ông đã thấy, và nghe.
- Tôi đã thấy cậu ta xuống từ toa hạng nhất. Rồi tôi thấy cậu ta chạy đến phía Ismail. Trước khi đi ra, chiếc va-li nhỏ nơi tay trái, cậu ta sực nhớ là chưa chào hỏi tôi, cậu ta bèn quay lui, chạy tới phía tôi, hấp tấp bắt tay tôi và nói với tôi: “Hẹn gặp lại ngày mai nhé, Tiểu Tâm. Tôi có bốn ngày phép. Thứ lỗi cho tôi, nếu tôi vội vã như thế này, nhưng tôi đói bụng, buồn ngủ và lạnh. Hẹn gặp lại ngày mai nhé”. Và cậu ta đi ra.
- Hai người là bạn thân?
- Bạn - Trưởng ga đáp - Chúng tôi gần bằng tuổi nhau. Và chúng tôi thông cảm nhau. Nhưng vì sao người ta có thể giết cậu ấy, thưa ông cảnh sát trưởng?
- Đó là tất cả những gì ông biết khi nạn nhân đến đây? - Viên cảnh sát trưởng hỏi.
- Tất cả - Viên trưởng ga đáp - Tôi thấy cậu ta leo lên xe trượt tuyết, Ismail trùm mền lên người cậu ta. Rồi họ lên đường.
Trưởng ga rất ưu phiền. Ông ta không dám hỏi chi tiết về vụ ám sát. Nhưng ông những muốn biết nhiều hơn.
- Ông Inimiora, ông hãy chú ý đến câu hỏi của tôi, vì nó vô cùng quan trọng cho kết quả của cuộc điều tra. Ông có chắc chắn rằng ngoài ông Antoine Tuniade ra, không một người nào khác đã xuống từ chiếc tàu Bắc?
- Không có một người nào khác - Trưởng ga đáp.
- Cảm ơn ông - Cảnh sát trưởng nói - Và bây giờ có một khuyến cáo: Ông hãy đề cao cảnh giác đêm nay. Kẻ sát nhân chắc chắn sẽ trở lại ga. Nó không thể ra đi bằng cách nào khác ngoài phương tiện xe lửa. Nó có thể tấn công ông, ông phải đề phòng. Bây giờ chúng tôi lên lâu đài. Chúng tôi sẽ phái đến đây một viên cảnh sát. Chúng tôi sẽ sớm trở lại.
Thẩm phán, cảnh sát trưởng và xà ích lại lên xe. Họ đi theo “Con đường Tình Yêu”, về hướng Tây và lên cao. Lâu đài của dòng họ Tuniades ở trên núi cao. Ở mút “Con đường Tình Yêu” ở bên kia lâu đài không còn có đường, có nhà nào nữa. Lâu đài là điểm tận cùng.
- Ismail - Viên cảnh sát trưởng hỏi - Anh có nói chuyện với ông Tuniade dọc đường không?
- Không. - Ismail đáp, vẫn với cái giọng the thé nghe rất khó chịu.
Để người khác nghe gã nói được rõ hơn, Ismail xoay cả toàn thân lại. Cũng như các con chó sói, gã không có cổ. Gã phải xoay cả người để nhìn lui phía sau.
- Dọc đường ông Tuniade làm gì?
- Ông ta huýt gió một lát thôi. Rồi ông ta nói là ông ta đói bụng. Tiếp đến, ông ta thử hát một bài hát đang thịnh hành, nhưng lại thôi. Và sau đó huýt gió trở lại trên suốt quãng đường về nhà.
- Và anh, anh đã làm gì trong suốt thời gian ấy? Anh không đặt những câu hỏi với ông Antoine? Anh không hỏi ông ta gì cả sao?
- Tôi không hỏi ông ta gì cả - Ismail nói - Gió Fohn thổi. Tôi đã cầu nguyện.
- Cầu nguyện?... Vì sao? - Ông cảnh sát trưởng hỏi.
- Thưa ông, tôi đã cầu nguyện cho những người đang đi đường đêm ấy và gặp bão táp dọc đường. Đó là điều duy nhất của tôi có thể cho những người khốn khổ đáng thương ấy. Cầu nguyện cho họ.
- Kẻ sát nhân không phải là người ở Agapia, thưa ông thẩm phán - Cảnh sát trưởng Filaret đột nhiên nói - Người ta không thể nghĩ được rằng một người ở đây lại có thể phạm tội giết người. Khổ thay một vụ giết người đã xảy ra tại đây. Và khổ thay máu đã chảy và làm hoen ố thành phố tinh khiết như tuyết của chúng tôi. Lại nữa tai họa ấy xảy ra ngay trong đêm đầu tiên của nhiệm kỳ phán quan của ông! Có một vụ trọng tội đúng vào đêm nay, chúng tôi, chúng tôi lâu nay chẳng bao giờ có!...
Cảnh sát trưởng Filaret giận dữ. Ông ngồi không yên, vùng vẫy dưới các lớp mền. Ông nói:
- Kẻ sát nhân sẽ bị tóm cổ, thưa ông thẩm phán. Đó là một người lạ. Và một người lạ không thể ra khỏi nơi đây trong mùa đông. Chỉ có loài chim mới ra khỏi đây được. Nhưng kẻ sát nhân không phải là chim. Và chúng ta sẽ bắt được nó. Chắc chắn như thế.
Hai con ngựa trắng leo từng bước trên “Con đường Tình Yêu”. Theo hướng Tây và lên cao. Trời vô cùng u ám. Người ta có trước mặt một tấm màng tuyết dày. Người ta không thấy được xa quá hai bước. Và người ta có cảm tưởng là chiếc xe trượt tuyết leo lên tận trời. Vì dốc thật cao. Tuyết dày đến tận ngực ngựa. Tuyết trắng như chúng.
Chú thích:
[1] Ma mút: (Mammouth) giống voi rất lớn đời xưa.