← Quay lại trang sách

- VI - Tuyết không có trí nhớ- -

Cổng hàng rào của lâu đài mở rộng. Tuyết đã hết rơi. Trời đất tối. Bây giờ là hai giờ rưỡi sáng. Ba người - thẩm phán, cảnh sát trưởng và xà ích nối đuôi nhau băng qua cửa song sắt đi vào rừng cây bao bọc quanh lâu đài. Tận phía sau rừng cây, nổi lên như trên một trang giấy trắng, hai cửa sổ có ánh đèn. Đấy là lâu đài Tuniades. Cái lâu đài danh tiếng mà chủ nhân đánh bạc ăn được trong một sòng bạc lớn ở Tây phương. Thật sự đây chỉ là một cái biệt thự miền núi. Có hàng ngàn cái như thế tại dãy núi Alpes du Tyrol, ở Thụy Sĩ, trong vùng Rừng Đen. Người ta đã gọi cái biệt thự miền núi ấy là lâu đài, vì nó có một hình dáng lạ, khác với hình dáng các nhà ở địa phương này, và vì các chủ nhân của nó là các quan chức cai trị Phanariot. Cũng giống như ngôi biệt thự của vua chúa ở Sinaia. Người ta cũng gọi là lâu đài Sinaia, vì nhà vua ở đó. Nhưng thật sự cũng chỉ là một biệt thự kiểu miền núi ở vùng Rừng Đen.

- Các cửa sổ mở ra là cửa sổ phòng khách - Cảnh sát trưởng Filaret giải thích - Xác nạn nhân nằm ở đó.

Ismail, gã đàn ông bị thiến đứng lại và đưa roi chỉ một điểm trong tuyết.

- Thưa ông, xác cậu ta ở chỗ này lúc tôi chạy tới nơi.

- Hãy chỉ chỗ đích xác nơi nạn nhân nằm lúc ấy. - Viên cảnh sát trưởng ra lệnh.

Ông thét Ismail:

- Anh sợ không dám đến gần à?

- Tôi sợ. - Gã xà ích đáp.

- Ismail, anh điên sao! Anh sợ gì?

- Tôi sợ giẫm chân lên máu của nạn nhân - Ismail đáp - Giẫm chân lên máu của một con người là mắc tội lớn lắm.

- Dẹp những điệu bộ kiểu cách đi! - Viên cảnh sát trưởng thét - Xác chết nằm chỗ nào? Anh thấy rõ là không có lấy một giọt máu, khắp nơi không một giọt nào.

- Lúc tôi chạy đến đây, thân thể cậu ta nằm trong tuyết. Nằm nghiêng phía tay mặt. Co quắp lại. Như thân hình những đứa trẻ nằm trong bụng mẹ. Tay đặt trên đầu gối, như lúc người ta nằm ngủ. Tất cả tuyết chung quanh nhuốm máu. Bây giờ, ông thấy đấy, không còn máu nữa. Tuyết đã xóa tan tất cả. Tôi không ưa máu. Cũng không còn dấu vết. Tuyết tinh khiết. Tuyết trinh bạch. Nó trinh bạch vì màu trắng tinh khiết của nó.

Ismail chuyển cây roi qua tay trái. Và gã làm dấu thánh giá. Như thể gã cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh.

- Thế cậu ta đã chết rồi, khi anh tới gần cậu ta? - Viên cảnh sát trưởng hỏi.

- Thưa ông, cậu ta đã chết rồi, má bên mặt dính vào tuyết. Như má con nít dính vào vú mẹ. Ôi! Lạy Chúa tôi! Con người lúc chết, lặp lại, trong chốc lát cuối cùng của cuộc đời, những vị thế, những cử chỉ và những thái độ giống như đã có trong chốc lát đầu tiên của cuộc đời khi mới sinh ra! Thân hình con người có cùng một hình dáng, co quắp, trong chốc lát đầu tiên và chốc lát cuối cùng của cuộc đời. Cậu Antoine Tuniade nằm co quắp như thế đó. Tôi đến gần cậu ta, nói với cậu ta. Tôi biết là đã quá trễ. Cậu ta đã chết rồi. Cậu ta không còn thở nữa. Máu không chảy nữa. Nó chỉ giọt xuống, thoát ra khỏi cái áo bộ đội. Mặt trắng toát. Trắng như tuyết. Tôi có sờ mặt và cổ, và thấy còn nóng. Những nụ tuyết rơi xuống trên má và trên trán tan ra. Những nụ tuyết rơi xuống trên môi cũng tan ra. Chúng tan ra vì thân xác còn nóng.

- Anh sẽ giải thích điều ấy với bác sĩ - Viên cảnh sát trưởng nói - Đối với tôi, những gì anh nói không đứng vững. Nếu con người đã chết, thì thể xác phải lạnh. Nếu anh nói là còn nóng, điều này có nghĩa là người ấy chưa chết.

- Cậu ta chết rồi, nhưng còn nóng - Ismail đáp lại - Người trẻ còn giữ được thân xác nóng một lúc sau khi chết. Người già thì thân lạnh, dù còn đương sống. Như thế đó.

Ismail ngừng một lát như để cố nhớ lại.

- Và sau đó? - Viên cảnh sát trưởng giục.

- Sau đó, khi tôi biết chắc là cậu ta đã chết rồi, tôi làm dấu thánh giá và chạy tới lâu đài. Để báo tin cho bà mẹ đáng thương. Nơi cửa sổ hàng hiên, trước khi kịp leo lên tầng cấp và gõ cửa, tôi thấy có ánh sáng xuất hiện, và cửa mở ra. Bà Patricia Tuniade đi ra, súng ngắn nơi vai. Sẵn sàng bắn. Bà đã nghe những phát súng như tôi. Ba đã lấy cây súng ngắn và bà đã rình sau cửa sổ. Nhưng bà đã không dám đi ra ngoài. Cũng không dám thắp đèn. Bà không biết ai bắn cũng không biết vì sao người ta bắn. Bà ta sợ. Khi bà ta thấy tôi và nhận ra tôi, bà để cây đèn trên cửa sổ và đi ra. Với cây súng ngắn sẵn sàng nhả đạn. Bà thét bảo tôi đứng lại và nói: “Ismail, té ra là mày, tao nhận ra mày! Đừng lại gần nữa, và nói cho tao biết lập tức, mày làm gì giữa đêm khuya, trong nhà tao, trong rừng cây nhà tao”.

“Tôi đưa con trai bà từ ga về, thưa bà Patricia”. Tôi đã trả lời như thế. Tôi đã đứng lại. Những tiếng nấc khóc đã lên tận cổ. Nhưng tôi tự kiềm chế.

“Mày đã đưa con tao từ ga về như thế nào? Nó ở đâu?” Bà ta đã hỏi như thế.

“Cậu ấy chết rồi, thưa bà - Tôi đã trả lời - Người ta đã bắn vào cậu ấy. Người ta đã giết cậu ấy. Cậu ấy ở đây. Phía sau tôi”.

“Antoine, chết?” Bà đã thét lên. Bà đã chạy tới phía tôi đứng.

Tôi đã chỉ xác con bà. Bà nhào xuống trên xác con, trong tuyết. Bà đã quăng súng. Bà đã hôn con như thể con còn ấu thơ. Và như thể còn sống. Rồi bà nằm dài trong tuyết bên cạnh con. Bà ôm siết con trong vòng tay. Tôi không thể nhìn cái cảnh ấy nữa. Tôi đã ôm cả hai lên trong cánh tay của tôi, cả cái xác và bà mẹ. Không nặng lắm. Dù là cả hai mẹ con. Và tôi đã mang họ vào trong phòng khách. Tội nghiệp Patricia, tội nghiệp lắm!... Nhưng tôi không còn có thể làm gì được nữa cho bà. Trong phòng khách, bà muốn tự mình mang xác con để lên đi-văng, nhưng xác nặng quá đối với bà. Bà đã quỳ xuống cùng với xác con ở giữa phòng khách. Tôi bèn đặt nạn nhân nằm dài trên đi-văng. Tôi đã vuốt mắt cho cậu ta. Tôi đã thắp một ngọn nến trên đầu cậu ta. Tôi đã đặt tượng Thánh mẫu lên ngực cậu ta. Như một tín đồ phải làm. Rồi tôi đã để lại người chết đáng thương ở đấy. Để lại với bà mẹ đang quỳ gối, gần bên đi-văng đang khóc và hôn con. Tôi đã chạy đi báo tin với ông.

- Chúng ta hãy tới lâu đài. - Cảnh sát trưởng Fiỉaret nói.

- Một lát nữa - Ismail nói - Khi đi ra, tôi có thấy kẻ sát nhân. Chính mắt tôi thấy nó. Nó chạy ra về phía bìa rừng, về phía kia kìa.

- Và đến bây giờ mày mới nói điều đó hử?

Cảnh sát trưởng Filaret nổi giận.

- Mày có chắc chắn là đã thấy kẻ giết người không?

- Chắc chắn - Ismail đáp - Khi từ lâu đài ra để đi báo với ông, tôi có thấy một người đàn ông chạy trốn về phía rừng, về phía bìa rừng...

Ismail lấy ngón tay chỉ chỗ người đàn ông chạy trốn.

- Chỗ kia kìa. Phía rừng tùng. Vài trăm mét về hướng Tây, bên trên lâu đài.

- Anh đã làm gì? - Ông thẩm phán hỏi - Anh đã chạy đuổi theo nó sao?

- Tôi đã kêu bà Patricia. Tôi kêu to: “Thằng giết người! Kìa thằng giết người! Nó chạy về phía rừng”.

- Và sau đó?

- Tôi không biết là đã hành động có đúng không khi gọi bà Patricia. - Ismail nói.

- Anh đã gọi bà Patricia - Ông thẩm phán hỏi lại - Nhưng cả hai người lại để cho nó chạy, sau khi đã thấy nó sao?

- Không - Ismail đáp - Bà Patricia đã chạy ra. Nhanh như một cơn bão. Bà đã thấy nó. Bà run như cầy sấy. Bà vào trong lâu đài và đi ra với cây súng. Bà đứng tựa vào tôi. Bà đã bắn theo người đàn ông chạy trốn. Bà bắn từng phát một. Cho đến hết cả kẹp đạn. Người đàn ông vẫn chạy. Nó giống như một vệt đen trên nền tuyết. Tôi đã cố gỡ cây súng ra khỏi tay bà Patricia. Nhưng bà chỉ thả nó ra sau khi đã bắn hết đạn.

- Và người đàn ông chạy trốn? - Ông thẩm phán hỏi - Nó ra sao sau đó?

- Tôi không biết. Bà Patricia đi vào lấy một cây súng ca-ra-bin khác. Bà trở ra ngay lập tức. Thật dễ dàng tìm lấy một cây súng khác trong lâu đài mà tất cả các bức tường đều đầy những bảng treo vũ khí, toàn là súng săn, ca-ra-bin, súng lục. Tất cả đều nạp đạn sẵn. Đây là một vật kỷ niệm của chồng bà, Antoine Tuniade cha. Ông ấy chỉ có thể sống ở giữa súng ống. Chung quanh giường của ông, bàn của ông đều có súng. Thế là bà Patricia đã trở ra với một cây súng khác. Nhưng khi tìm người chạy trốn để bắn tiếp, bà đã không trông thấy nó nữa rồi. Nó đã biến mất, như bị chôn vùi trong tuyết. Tất cả đều trắng xóa.

- Anh nghĩ là nó đã chết? - Ông thẩm phán hỏi.

- Có thể - Ismail nói - Bà Patricia chưa bao giờ bắn trật một phát súng nào. Bà bắn còn giỏi hơn cả chồng bà. Bà bắn chim đang bay và không hề bắn trật... Có thể là người đàn ông chạy trốn đã chết trong tuyết. Có thể nó đã bị thương. Trường hợp ấy, cũng như đã chết. Chôn vùi trong tuyết. Có thể nó trốn được. Nếu nó vào trong rừng chỉ cách xa trước mặt nó không đầy trăm mét, không ai sẽ còn thấy nó trở lại nữa...

- Vì sao mày không nói với tao ngay lập tức mày thấy tên sát nhân? - Viên cảnh sát trưởng hỏi - Đó là điều đầu tiên mày phải nói. Vì sao mày đã đợi lâu đến thế?

- Tôi không biết - Ismail đáp - Tôi quá đỗi hốt hoảng.

Hai nhân viên cảnh sát mà ông cảnh sát trưởng đã tức tốc phái lên lâu đài theo con đường tắt vừa tới trước cổng rào sắt. Mũ lông thú và áo choàng của họ tuyết bám trắng xóa. Họ đến chậm kinh khủng. Đáng lẽ họ đã phải đến từ lâu rồi.

- Đồ quân ăn không ngồi rồi - Cảnh sát trưởng Filaret mắng - các anh kéo lết ở đâu cho đến bây giờ hả?

- Tuyết quá cao - Một người nói - Chúng tôi đến được đây là một phép lạ. Chúng tôi đã tưởng là không thể nào tới được.

- Ismail, hãy đi với hai cảnh sát viên! - Cảnh sát trưởng ra lệnh - Tất cả ba người đến chỗ mà tên đàn ông chạy trốn vào lúc mà bà Patricia bắn vào nó. Nếu nó chết hay bị thương, hãy mang nó về lâu đài. Hãy nhìn xem có dấu vết không, bất cứ vết gì. Và hãy trở về tức tốc.

Hai cảnh sát viên - ba gã đàn ông tóc xám - thở dốc vì đã bị đánh thức dậy vội vàng và đã lội trong tuyết trong suốt quãng đường, vội lau mồ hôi trán và đi theo Ismail. Họ không có một lý do gì để từ chối. Sự mệt nhọc không phải là lý lẽ trong lúc này.

Trong khi gã Ismail, cao lớn như một cây tùng, tiến bước vào rừng theo sau là hai cảnh sát viên, ông thẩm phán và ông cảnh sát trưởng quan sát nơi mà người lính trẻ đã ngã xuống. Không còn một chút máu. Không một dấu vết nhỏ nhặt. Hai ông không tìm thấy ngay những dấu vết của chính họ, những dấu chân của họ để lại nơi lùm cây trong lâu đài. Tuyết đồng dạng. Trắng xóa. Bằng phẳng, như chẳng có gì đã xảy ra.

- Có phải Ismail đã cố ý để cho tên sát nhân có thời giờ chạy trốn không? - Ông thẩm phán hỏi - Không thể tin được là anh ta đã quên không nói đến điều đó sớm hơn. Anh ta đã trông thấy tên sát nhân và đã im hơi lặng tiếng về điều ấy, hơn một tiếng đồng hồ. Để cho tên sát nhân có thể dông mất. Đấy là sự đồng lõa. Ông nghĩ thế nào?

- Tôi không biết - Ông cảnh sát trưởng nói.

- Đáng lẽ điều đầu tiên mà anh ta phải nói là anh đã có trông thấy tên sát nhân. Rằng tên sát nhân đã chạy trốn. Và nó chạy trốn theo hướng nào. Để chúng ta có thể tìm ra dấu vết. Đó là điều sơ đẳng.

- Tôi không biết - Viên cảnh sát trưởng đáp - Tuy nhiên ông biết một điều: Nếu là những máy móc, luôn luôn người ta biết sự phản động của chúng. Nếu người ta vặn tay lái về bên phải, bánh xe cũng xoay về bên phải. Nếu người ta nhấn ga, xe chạy nhanh hơn. Nếu người ta kéo đuôi con chó, nó cắn. Thú vật luôn luôn phản công cùng một cách, như máy móc. Với những con người, người ta không bao giờ biết. Con người tất cả đều như nhau, giống như máy móc, thú vật và cây cối. Mỗi con người được tạo thành theo một mẫu duy nhất. Tâm hồn của mỗi con người là một mẫu duy nhất. Đúng như Chúa là duy nhất và không có ai giống Ngài. Thật khó mà hiểu được vì sao Ismail đã không kể điều đầu tiên mà anh ta đáng lẽ phải kể, nghĩa là sự thông tin về thủ phạm.

- Sự thiếu sót đó về phần gã xà ích không chứng tỏ rằng gã là đồng phạm sao? - Ông thẩm phán hỏi.

- Phải nghĩ đến điều ấy - Viên cảnh sát trưởng đáp - Có thể đúng, có thể không đúng. Chúng ta hãy vào lâu đài.

Hai người đi vào lâu đài Tuniades. Lâu đài lạ lùng do đánh bạc được. Với hy vọng tìm được ở đấy một chỉ dẫn cho phép họ khám phá ra thủ phạm. Vì trên hiện trường xảy ra tội ác, chỉ có màu trắng tinh khiết của tuyết. Tuyết không có trí nhớ, nó xóa tan tất cả, nó nhuộm trắng tất cả. Nó dung thứ cho tất cả mọi người và về tất cả mọi sự. Sự dung thứ không phải sự tòng phạm. Tuyết trắng đến mức không che giấu những kẻ chạy trốn, nhưng dung thứ cho chúng. Tuyết thánh thiện, như Ismail gọi.

Nhưng gã xà ích có quyền dung thứ cho tên sát nhân, như tuyết dung thứ cho nó không? Tuyết có quyền ân xá vì màu trắng đồng nhất và thánh thiện của nó. Nhưng Ismail có đủ thánh thiện để có cái quyền ân xá như thế không? Vì nếu gã không có sự trong trắng ấy, thì gã chỉ là một kẻ tòng phạm đã để cho thủ phạm chạy trốn.