- VII - Patricia Tuniade, mẹ của quân nhân bị ám sát- -
Thẩm phán Cosma Damian và cảnh sát trưởng Filaret vào phòng khách lâu đài. Ở giữa gian phòng có một cái đi-văng. Trên đi-văng ấy, xác nạn nhân. Patricia Tuniade, trùm mình trong một chiếc áo măng-tô, đang quỳ gối và khóc, trán úp trên thân xác con. Bà không hay biết hai ông đi vào. Phòng khách lâu đài Tuniades như một viện bảo tàng về săn bắn. Vách cây, đầu heo rừng, đầu nai, đầu chó sói, đầu gấu treo khắp nơi.
- Bà Patricia, đây là ông thẩm phán của chúng ta. Bà biết ông thẩm phán rồi - Viên cảnh sát trưởng lên tiếng - Chúng tôi được Ismail báo cho hay tai họa khủng khiếp này. Sự đau khổ của bà cũng là sự đau khổ của chúng tôi.
Patricia ngẩng đầu lên. Bà nhìn hai ngươi đàn ông, như trong một lúc nửa ngủ, nửa thức. Đây là một người đàn bà tóc vàng nâu, khuôn mặt rất trắng và rất tái, đôi mắt xanh. Bà đẹp vô cùng, đẹp như một bức hình chạm lãng mạn. Không ai tin rằng người đàn đẹp đang khóc ấy là mẹ của người quân nhân trẻ nằm chết kia, trên chiếc đi-văng, đầu ở giữa hai ngọn nến đang cháy, một cây thánh giá trên ngực, áo dài quân phục đã tháo nút và vấy máu.
- Lát nữa bác sĩ Pilat sẽ đến - Viên cảnh sát trưởng nói - Khổ thay, ông ta sẽ chỉ có thể chứng nhận cái điều khủng khiếp. Còn chúng tôi, chúng tôi có bổn phận phải hỏi bà đôi điều. Chỉ về những gì rất thiết yếu.
- Tôi nghe các ông đây - Bà Patricia Tuniade nói.
Bà vẫn quỳ gối bên cạnh xác con.
- Có đúng là bà thấy tên sát nhân và bà đã bắn vào nó?
- Tôi có thấy nó - Patricia Tuniade đáp.
Giọng bà trở nên dữ tợn. Bà nghiến răng. Như người ta nghiến răng điên tiết lên được sau khi bắn trật một phát.
- Chúng tôi đã phái hai cảnh sát viên cùng đi với Ismail để lục lọi nơi ấy. Bà có nghĩ rằng đã bắn trúng nó không? Bà có tin rằng nó chết hay bị thương không?
- Không - Bà Patricia Tuniade đáp - Tôi đã bắn chết cả kẹp đạn. Nhưng tôi đã bắn trật. Tay tôi run. Toàn thân tôi run. Tôi dao động vì đau khổ. Tôi đã không bắp trúng nó. Mặc dầu nó rất gần. Không đầy ngàn mét. Vì tôi run lên nên tôi đã không bắn trúng nó. Cả đời tôi, đây là lần đầu tiên tôi bắn trật mục tiêu. Than ôi! Đây là lần đầu tiên mà đáng lẽ tôi phải bắn trúng!
- Lời khai của bà trùng hợp với lời khai của Ismail. Nhưng tôi muốn hỏi bà điều này một cách tường tận: bà có chắc, tuyệt đối chắc chắn rằng có một người đàn ông chạy trốn về phía bìa rừng không? Tuyết rơi, trời tối. Bà đang bị xúc động và đau khổ một cách kinh khủng, và có thể bà tưởng là dáng hình một người đàn ông nhưng thật sự là một cái bóng, cái cây, hoặc một con thú đang chạy...
- Đó là một người đàn ông - Patricia Tuniade đáp - Và không phải là ai khác, đó là kẻ đã giết con trai tôi. Không một ai khác có thể ở đây. Không bao giờ có ai chung quanh lâu đài.
- Vì rằng bà chắc chắn như thế...
- Tuyệt đối chắc chắn - Patricia Tuniade lặp lại - Tôi là người đã sống và hiện đang sống trong rừng. Tôi là một người săn bắn. Tôi không lầm. Đó là một tên đàn ông còn trẻ, một người ở thành phố. Theo cách nó chạy trốn, người ta thấy nó không phải là người miền núi. Nó chạy mau, nhưng vụng về. Nó có cái vụng về của những người không quen đi trong tuyết. Đúng là tôi run vì đau khổ. Khi tôi thấy tên sát nhân, hai mắt tôi mờ lệ. Nhưng khi tôi có súng trong tay và khi tôi nhắm, mặc dù run và mặc dù xuyên qua nước mắt, tôi vẫn thấy đích xác cái gì tôi nhắm. Hơn nữa, tuyệt đối tôi muốn bắn chết nó. Tôi đã nhắm nó như chưa bao giờ tôi đã nhắm như thế. Đó là tên đã giết con tôi. Ông biết là ngoài con trai tôi, tôi không có ai trên đời. Tôi không cha, không mẹ, không anh em, không chị em, không chồng. Tôi có con trai tôi là Antoine. Và bây giờ tôi không còn có nó nữa.
Patricia Tuniade khóc. Người ta không biết sự tức giận làm khổ bà hơn, hay là sự đau đớn. Người ta không biết bà khổ sở hơn, vì mất người con trai hay vì bắn trật tên sát nhân.
- Ismail nói với chúng tôi rằng tên sát nhân đã phạm tội với súng lục của nạn nhân.
- Đúng như vậy - Bà Tuniade nói - Con trai tôi đã bị giết bởi chính súng lục của nó. Cái súng kia.
Trên bàn có cái súng lục nhà binh mà Antoine Tuniade đeo. Gần cái súng, có ba vỏ đạn. Cũng có chiếc va-li, chiếc va-li nhỏ mà Antoine Tuniade xách nơi tay mà các nhân chứng đã nói... và một chiếc mùi soa, đôi găng kaki. Tất cả đều vấy máu.
- Ismail đã lượm tất cả những gì gã tìm thấy nơi xảy ra tội ác - Bà Tuniade nói - Gã đã đem tất cả để ở đây.
- Giả thuyết một vụ tự sát hình như bị bà loại trừ phải không? - Ông thẩm phán hỏi.
- Thế tên đàn ông chạy trốn? - Bà Tuniade bẻ lại - Đây là cố sát và là cố sát một cách tồi tệ nhất. Cố sát một cách hèn hạ. Tên sát nhân đã nhảy chồm vào con trai tôi khi con tôi đang mở cổng rào. Thừa lúc bất ngờ, nó giựt súng lục của con tôi. Và nó đã hạ sát con tôi một cách hèn hạ. Với chính súng lục của con tôi. Bắn phía sau. Một phát vào gáy...
Patricia Tuniade chỉ cổ áo quân phục của nạn nhân, cổ áo bị lủng lỗ. Có một vết thương không xa tai phải lắm phía sau đầu.
- Hãy nhìn vết cháy - Bà Tuniade nói. Bà giơ cái áo măng-tô bộ đội của con trai bà lên.
- Hãy nhìn vết cháy. Người ta đã đặt đầu súng gần vào đích để bắn. Bắn phía sau. Đây là một phát súng khốn nạn và hèn hạ.
- Bà không có một ý kiến nào về tánh danh căn cước của kẻ sát nhân sao?
- Không. - Bà Tuniade đáp.
- Bà có muốn nói cho chúng tôi biết các sự việc đã xảy ra như thế nào không?
- Chiều hôm qua, tôi xuống phố tìm mua những sách tiểu thuyết tiếng Pháp để gởi cho con trai tôi.
- Thế là bà không chờ đợi con trai bà về tối nay phải không? - Cảnh sát trưởng Filaret hỏi.
- Không, tôi không đợi nó. Thưa ông thẩm phán, tôi đã nói điều đó với ông. Tôi đã nói với ông, chiều hôm qua, ở tiệm sách. Tôi biết là con tôi bị cấm trại vì có bệnh truyền nhiễm tại thành phố nó đóng quân. Nó viết thư cho tôi hay rằng, nó buồn chán kinh khủng, và yêu cầu tôi gởi sách cho nó. Lệnh cấm trại còn có thể kéo dài thêm hàng tuần và hàng tuần... Thế là tôi đã mua vài quyển sách. Sau đó tôi trở về lâu đài. Tôi đi bộ suốt quãng đường. Các ông biết, gió Fohn thật khủng khiếp. Ngọn gió tệ hại ấy, ngọn gió thẳng đứng ấy, hành hạ các dây thần kinh của tôi, về đến lâu đài tôi không còn chịu đựng được nữa. Tôi uống một viên thuốc. Tôi viết thư cho Antoine. Tôi báo cho nó biết là tôi sẽ gởi sách và cố trấn an nó đôi chút. Trong lúc ấy cơn gió đã trở thành hết sức khó chịu. Còn tệ hơn là say sóng khi đi biển gặp bão. Ngọn gió ấy, thưa ông thẩm phán, ông sắp phải quen biết nó. Nó làm người ta lộn ruột lộn gan và nhức nhối như bị bong gân. Tôi ở trong lâu đài đã hai mươi năm nay và tôi đã cố gắng nhưng không quen được cái ngọn gió thẳng đứng khủng khiếp này, nó thổi từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới. Tôi đã gọi Flora, người giúp việc của tôi - Ông cảnh sát trưởng biết chị ta - Và tôi đã nói với chị ta rằng chiều nay tôi sẽ không ăn gì hết. Rằng chị ta có thể ra về sau khi làm xong công việc. Tôi đã đưa cho chị ta bức thư tôi viết cho con tôi, để chị ta bỏ vào thùng thư ở ga. Tôi đã dặn chị ta như thường lệ là phải khóa cổng lại cho kỹ khi đi ra. Tôi có nói rằng tôi sẽ còn uống thêm hai viên thuốc nữa và sau đó tôi sẽ đi ngủ. Tôi đã làm như tôi nói. Tôi ngủ say lúc có tiếng súng nổ. Rất gần lâu đài. Tôi thắp một cây nến. Tôi lấy cây súng ca-ra-bin. Lúc đó là một giờ bảy hay tám phút. Không qua một giờ mười phút. Một tràng khác ba phát nổ rền bên ngoài. Lúc ấy, tôi chắc là người ta bắn trong lùm cây. Tôi tắt cây nến và đi đến gần cửa sổ. Tôi rình, trong tư thế sẵn sàng bắn, cây ca-ra-bin nơi vai. Đột nhiên, tôi thấy một người khổng lồ đang đi tới phía lâu đài. Đó là Ismail.
- Bà đã nhận ra anh ta ngay?
- Tôi đã nhận ra anh ta và tôi không còn sợ nữa. Khi người ta trông thấy Ismail, người ta hết sợ. Đó là con người hết sức ngoan đạo và tốt nhất trên đời. Nhân vì có Ismail trong sân lâu đài, tôi yên tâm. Nó đi nhanh tới. Đúng là Ismail. Ai đã thấy Ismail một lần thì không thể lầm nó với một người nào khác. Nó cao hơn tất cả mọi người, nó không có cổ, như một con gấu; nó có bộ ngực rộng như ức ngựa... Đúng là nó. Lúc nó đến gần hàng hiên, tôi đã hé mở cửa và kêu to: “Mày làm gì ở đây, Ismail?”
“Tôi đưa con trai bà về, thưa bà Patricia” - Nó đáp.
“Con tôi?... Con tôi ở đâu?”
“Cậu ấy chết rồi, thưa bà. Người ta đã giết cậu ấy. Ở đây, sau cổng rào”.
Tôi đã nhảy vọt ra ngoài. Tôi không còn biết đích xác những gì đã xảy ra. Ismail sẽ kể với các ông rõ ràng hơn tôi.
- Ismail đã kể với chúng tôi hoàn toàn đúng như thế. Chúng tôi cảm ơn bà, bà Patricia. Sau khi mang xác nạn nhân đặt nằm ở đây, Ismail đã đi ra để định đi báo với chúng tôi và nó đã trông thấy tên sát nhân và bà đã bắn tên ấy đang chạy trốn.
- Đúng vậy, thưa ông. Và tôi đã bắn trật nó. - Patricia Tuniade nói.
- Chúng tôi cảm ơn bà - Viên cảnh sát trưởng nói - Chúng tôi lấy các vật này để nghiên cứu tại phòng thí nghiệm.
Filaret tập trung súng lục, mùi-soa, ví tiền, gói tất cả vào một cái khăn. Ông hỏi.
- Ismail đã lượm tất cả những vật này ở ngoài kia?
- Đúng vậy, trước khi đi. Nó nói rằng, nếu để các vật này ở ngoài kia, người ta sẽ không còn tìm thấy chúng nữa, vì tuyết. Mà các vật này thì có thể cung cấp những chỉ dẫn cho sở cảnh sát. Tên sát nhân phải để lại dấu vết.
Trong khung cửa xuất hiện hai cảnh sát viên, Ismail đứng phía sau hai người.
- Sao?... Các anh có tìm thấy gì không? - Ông thẩm phán hỏi.
- Không tìm thấy gì cả - Một trong hai người đáp. Nhân viên thứ hai nói tiếp:
- Không một dấu vết. Không có người chết. Không có người bị thương. Không có máu. Không có dấu chân người. Toàn là tuyết... tuyết khắp nơi.