← Quay lại trang sách

- XIII - Cuộc đời và cái chết của một quan chức Phanariot- -

Ông thẩm phán sắp sửa gọi điện thoại để xin ông chưởng lý phái cho một thanh tra cảnh sát khác và một số hiến binh, cảnh sát trưởng Fillaret ngăn lại:

- Khỏi cần gọi điện thoại, thưa ông thẩm phán! Xin ông hãy yên tâm. Ông không phải ở trong một thành phố mà mọi ngươi đều điên. Không một người nào trong thành phố Agapia điên. Chúng tôi chẳng có gì là lạ lùng cả. Chúng tôi sống một cuộc sống đau khổ, chỉ có thế thôi. Đau khổ cực độ. Và khi đã cực độ, sự đau khổ biến dạng. Sự nghèo nàn cùng cực có một trạng thái khác với sự nghèo nàn thường. Xin ông đừng sợ. Tôi sẽ thuật lại, càng vắn tắt, càng tốt, bằng cách nào ông già Antoine Tuniade, một quan chức Phanariot, đã bị giết cách đây mười bốn tháng. Nghe câu chuyện này, ông sẽ hiểu vì sao tôi đã không kể với ông sớm hơn. Vì như thế vô ích. Ông sẽ tự mình nhận thức điều ấy. Mặc dầu Savonarola Mold đã bửa đầu Tuniade Cha bằng những nhát rìu, đó là một vụ tự sát. Đó không phải cố sát.

Chắc chắn, nếu ông là một trong những quan tòa ngồi xử án trong phiên tòa đại hình lúc trước, thì ông cũng đã kết án Savonarola Mold về tội cố sát. Bất cứ quan tòa nào cũng kết án nó. Nếu tôi là quan tòa, tôi cũng kết án nó. Vì một quan tòa không có quyền phán xét. Quan tòa chứng nhận sự kiện và tuyên hình phạt tương ứng, ghi sẵn trong bộ luật hình.

- Chính ông đã mở cuộc điều tra về vụ án mạng ấy? - Ông thẩm phán hỏi.

- Không cần điều tra. Tất cả đều rõ ràng. Tôi chỉ có một việc là lập biên bản và đưa Savonarola Mold ra trước tòa án binh. Để được xét xử.

- Bằng cách nào Tuniade Cha đã bị giết chết?... Tôi yêu cầu ông đi ngay vào các sự kiện... Một vụ ám sát xảy ra đêm nay, chúng ta phải tìm tên sát nhân. Chúng ta không được phí thời giờ.

- Tôi đi ngay vào các sự kiện, nhưng bắt đầu từ đầu. Ở đây, trên sườn phía Đông núi Carpathes, xưa kia sinh sống một sắc dân, sắc dân ấy tự gọi mình là “dân tộc những người bất tử”.

- Tôi xin ông hãy đi ngay vào vụ án Tuniade Cha.

- Thưa ông thẩm phán, ông khẳng định rằng ông không thể điều tra vụ án Tuniade Con, nếu tôi không thuật lại cho ông nghe, vụ án Tuniade Cha. Tôi không thể nói với ông về Sava Mold và về tất cả chúng tôi nếu tôi không nói về các “người Bất tử”. Họ là tổ tiên chúng tôi. Ngtrời nào không biết gì về tổ tiên thì không bao giờ biết được tất cả sự thật về con cháu. Các người bất tử xưa kia sinh sống ở đây và là tổ tiên chúng tôi thì các sắc dân khác gọi là người Gètes hay người Daces. Người Gètes hay người Daces thì tự gọi mình là người Bất tử, vì họ tin rằng họ chẳng bao giờ chết. Chết chỉ là một sự thay đổi chỗ ở. Người chết bỏ thể xác để lên trời, ở đó họ sẽ sống vĩnh cửu. Tổ tiên Bất tử của chúng tôi sinh sống trước khi Chúa Giê-su ra đời. Vào thế kỷ thứ nhất kỷ nguyên Thiên Chúa, người La Mã xâm chiếm xứ sở của người bất tử. Ở Pietra Neamtz, bây giờ là quận lỵ, quận chúng tôi, có một đô thị lớn người Bất tử, gọi là đô thị Petrodava. Ở đây, cũng như khắp những nơi khác trong toàn quốc, khi các người Bất tử nhận thấy rằng họ đã bại trận, họ đã bị người La Mã đánh bại và bị chinh phục, họ tập trung lại chung quanh các chỉ huy của họ và tự sát hàng loạt. Tất cả. Cho đến người cuối cùng. Tất cả những người mạnh khỏe đều chết hết. Thà chết hơn là làm nô lệ. Điều ấy, mọi người đều biết. Nhất là những thời kỳ tai ương. Cũng như mọi người đều biết ở tất cả mọi nơi và bất cứ thời đại nào rằng linh hồn không chết. Thế là những người chinh phục La Mã khi vào được trong xứ chỉ tìm thấy đàn bà, trẻ con, ông già và những người yếu đuối. Người La Mã đã đô hộ xứ sở người Bất tử. Tất cả mọi người phải nói tiếng La tinh. Người Bất tử bị người La Mã chinh phục, đó là cuộc chinh phục cuối cùng của người La Mã trên địa cầu. Gần một thế kỷ sau cuộc chinh phục ấy, nổi lên từ châu Á, từ hoang nguyên bắt đầu ở đây, ở Petrodava ở ngay Agapia, tất cả các dân tộc dã man phương Đông, chúng tràn vào như một biển người bất tận, trên xứ sở người Bất tử, trong khi tiến đến Tây phương. Ngươi Huns, người Tartares, Attila, Tamerlan, Genghis Kan... Tất cả đều đi ngang qua đây. Qua Agapia. Và cỏ không mọc nữa nơi nào họ đã đi ngang qua. Chỉ còn lại đất đai bị đốt cháy trụi. Chỉ còn là sa mạc. Bọn người đi chinh phục cuối cùng là người Thổ Nhĩ Kỳ. Người bản xứ đã rút lui, như thường lệ vào núi. Họ đã sống sót, trên cao ấy, trên những mỏm đá. Họ đã tiếp tục nói tiếng La tinh và tiếp tục tin rằng họ vẫn là những người bất tử, tin một cách tuyệt đối. Họ còn một lý do nữa để vững tin họ là bất tử, đó là tôn giáo của họ. Cuộc sống khổ đau đến mức họ nôn nóng chờ đợi cái lúc bước sang đời sống đích thực của họ trên trời, ở đó có tất cả mọi người có những quyền hạn ngang nhau, ở đó không ai là nô lệ, là công dân chỉ một nửa hay một phần tư, như trên trái đất.

Trong gần hai ngàn năm, tất cả các bộ lạc dã man đã đi ngang qua ở đây, như sóng biển dạt vào bờ. Chúng tôi đã không bao giờ chống lại bằng một cuộc kháng chiến vũ trang có tổ chức. Người ta chống lại một kẻ địch mạnh hơn và ngay cả trong trường hợp chúng mạnh hơn hai, ba hay một trăm lần mạnh hơn. Người ta từ chối chống cự. Cũng như người ta từ chối chống cự lại biển. David đã chống cự lại Goliath, đó là một chiến công lẫy lừng. Chúng tôi đã có mặt trước chúng tôi, không phải là một mà hàng triệu Goliath. Không thể làm gì được cả.

Người dân Bất tử ở Petrodava và ở Agapia đã chịu đựng trong suốt các thiên niên kỷ ấy, những thử thách phi thường. Thấy rằng bị cấm sống trên mặt đất, họ bèn cắm lều trên trời. Hoàn toàn giống như những cây phong lan đã làm cho rừng hoang vùng nhiệt đới. Không thể cắm rễ trong đất, phong lan phóng rễ lên bên trên chúng và trên các ngọn cây, trong các đám mây. Những người Bất tử ở đất nước chúng tôi cũng làm như thế. Họ đã cắm rễ trên trời, càng ngày càng sâu hơn. Và họ đã sống sót. Họ rút từ trời chất nuôi dưỡng họ, công lý của họ, hy vọng của họ và tất cả những gì họ cần để sống. Hoàn toàn giống như những phong lan xứ Ba Tây hút nhựa sống từ các đám mây bay ngang qua trên các vùng rừng hoang. Tại xứ sở chúng tôi trời thay thế đất. Trời là đồng ruộng của chúng tôi, là vườn tược của chúng tôi, nơi cắm lều của chúng tôi, vườn rau của chúng tôi, đàn súc vật của chúng tôi. Vì vậy, khi người Thổ Nhĩ Kỳ, sau những năm dài chiếm đóng đã hỏi dân chúng tôi có muốn trở thành người Hồi giáo, và có quyền lợi trong đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, hay là muốn là những người Thiên Chúa giáo và trả một công thuế nặng nề, tất cả mọi người đã trả lời họ sẽ nộp cống thuế. Họ muốn là những người Thiên Chúa giáo. Họ phải trả gấp đôi, gấp ba cống thuế, bằng mật ong, hạt, nhựa, trái cây, súc vật nhưng nhất là họ phải nộp một thuế công. Thuế kinh khủng: máu. Cống thuế mà người Thổ Nhĩ Kỳ đòi, đó là trẻ con còn nhỏ tuổi; con trai, để lớn lên làm hoạn quan và cấm vệ binh con gái để hầu hạ và hiến thân cho đàn ông trong các tầng thất Hồi giáo. Mỗi bà mẹ trong xứ chúng tôi một ngày nào đó phải nộp cống thuế bằng cách nộp chính con mình. Điều này được thi hành đều đặn suốt gần năm thế kỷ. Không khoan nhượng. Những người thu cống thuê ấy, những người giựt con nít ra khỏi vú mẹ chúng ấy, để rồi gởi đến Constantinople, là các quan chức Phanariot. Vì vậy họ là những gì xấu xa nhất, tồi tệ nhất trên thế gian. Để làm cái việc bắt trẻ con, cái việc ghê tởm, khủng khiếp, tồi tệ ấy, người ta đã chọn họ trong hạng người cặn bã ở Byzance. Chức vụ thu cống thuê bằng trẻ con và bằng của cải ấy được đem đấu giá; và những người mua được chức vụ ấy, được mang tước vương, trong suốt thời gian giữ chức vụ.

Phần đông các ông hoàng thu thuê cống ấy không bao giờ trở về vùng ngoại ô cặn bã thành phố Byzance là nơi họ xuất thân. Họ ở lại tại xứ sở chúng tôi, sau khi đã cướp bóc, đã làm đổ máu, đã trần tục hóa xứ sở chúng tôi. Họ đã tước đoạt tất cả, chiếm hữu tất cả: đất đai, rừng rú, người và thú. Khi nền đô hộ của người Thổ Nhĩ Kỳ chấm dứt, các ông hoàng Phanariot trở thành chủ nhân. Với tư cách là địa chủ Phanariot ở Valachie và Moldavie, những tên tay sai đắc lực để cai trị và thu thuế. Các địa chủ Phanariot không còn mang tước vương, tước chư hầu hay đại thần như thời kỳ đô hộ của Thổ Nhĩ Kỳ nữa; họ trở thành Thượng nghị sĩ, Bộ trưởng, Dân biểu, nhà ngoại giao, tổng giám đốc. Họ làm công việc hoàn toàn giống như trước. Đối tượng họ thu thuế, không phải là trẻ con mà là người lớn. Chức vụ và công việc duy nhất của các cơ quan Phanariot là hút máu dân chúng. Dưới thời đô hộ của Thổ Nhĩ Kỳ cũng như Tây phương, họ được tổ chức thành đảng phái chính trị. Tất cả các địa chủ Phanariot ấy rời khỏi nơi đây vào mùa thu, như những con gấu, để ngủ đông trong các hang lớn, các nhà thổ và các nhà du hí ở phương Tây. Mùa xuân, họ trở về. Họ điều khiển các công việc. Họ rất nghiêm khắc. Để hái nho, nông dân mang đai bịt miệng như chó. Nhưng chúng tôi chịu đựng tất cả, vì chúng tôi ngoan đạo thật sự, không có đồng áng nào khác, ngoài trời ra, rút chất nuôi dưỡng chúng tôi. Chúng tôi không có phương tiện thể cắm rễ của sự sống của chúng tôi trong lịch sử; trong đất đai; trong các thế kỷ. Chúng tôi bắt buộc phải cắm rễ trên trời, nếu không thì chết, cắm rễ trong vĩnh cửu. Trời là vật sở hữu duy nhất của chúng tôi, là tài sản duy nhất thuộc về chúng tôi... Tất cả những gì chúng tôi có được là từ trời chứ không từ đất mà có. Cũng như những người Do Thái, trong cuộc di cư, nhận được đồ ăn do trời ban xuống, vì dưới chân họ chỉ có sa mac. Các nhà ẩn tu, các đạo sĩ thực hiện những biểu dương lớn về sức lực và ý chí để đạt đến trình độ thoát tục ấy và để tiếp tận với trời, trong tuyệt đối và trong vĩnh cửu... Chúng tôi sống với thể xác chúng tôi, trên trời. Tất cả. Giống như chỉ có vài mươi vị thánh đã làm một cách hoàn toàn và trọn vẹn. Dòng họ Tuniade là địa chủ Phanariot. Tuniade Cha là tổng giám đốc thủy lâm. Lão làm như thể tất cả núi non, rừng rú là của riêng lão! Lão không còn giàu có bằng tổ tiên lão, những người đã đánh bạc ăn được cái lâu đài. Nhưng lão sống cuộc đời hoàn toàn giống cha ông lão.

- Vì lão là một tên bạo chúa nên người ta đã giết lão? - Ông thẩm phán hỏi.

- Hoàn toàn không phải thế, thưa ông thẩm phán! - Cảnh sát trưởng Fillaret đáp - Tại xứ sở chúng tôi, người ta không bao giờ giết những tên bạo chúa.

- Ông có thể thú nhận với tôi, - Ông thẩm phán nói - giết các tên bạo chúa đôi khi là điều được các Tiến sĩ Thần học Cơ Đốc giáo, tán thành. Đôi khi còn được khích lệ nữa.

- Không phải như thế tại xứ sở chúng tôi. Tôi nhắc lại, chúng tôi không giết những tên bạo chúa. Họ và chúng tôi, sống riêng biệt. Họ sống trên đất và trong lịch sử, còn chúng tôi sống trên trời và trong vĩnh cửu. Giữa hai bên không có gì để phân chia với nhau. Không có những duyên cớ gì để tranh chấp nhau. Hai bên hoàn toàn cách ly với nhau.

- Vậy thì, vì sao người ta giết lão.

- Ông thẩm phán sắp hiểu điều đó. Như tôi đã nói, chúng tôi không bao giờ giết những tên bạo chúa áp bức, bóc lột chúng tôi, chúng tôi gìn giữ sự sống của họ. Toàn thể ngành cảnh sát, luật pháp và quân đội ở xứ sở chúng tôi chỉ có một nhiệm vụ duy nhất: bảo vệ sự sống, tài sản và đặc quyền của các địa chủ Phanariot. Chính với điều kiện ấy mà các người Tây phương đã giải phóng chúng tôi khỏi ách thống trị của người Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng ta, ông với tư cách là thẩm phán và tôi với tư cách là người cảnh sát trưởng, chúng ta chỉ làm điều đó: bảo vệ các tên bạo chúa hút máu dân chúng đến tận xương tủy.

Tôi đã nói với ông rằng dân Agapia sống mùa đông trong rừng. Đàn ông rời khỏi nhà khi tuyết bắt đầu rơi. Họ đi sâu vào rừng. Ở đấy, họ đốn cây, cho đến mùa xuân, cho các ông chủ Phanariot. Để ở, họ đào hố, đào hầm, ở đó họ đốt lửa và ở đó họ ngủ và sống suốt mùa đông. Gần như là ở ngoài trời. Lạnh bốn mươi độ âm, một cái lạnh làm đông nhựa các cây tùng, cây bách, một cái lạnh làm nổ tung những tảng đá. Cây cối đốn xuống được kéo trên tuyết đến bờ sông. Mùa xuân, gỗ Petrodava trôi trên sông nhỏ, sông lớn và cuối cùng được chở trên những chiếc tàu thủy chạy trên Biển Đen cho đến tận những nước xa xôi nhất trên thế giới. Bysance, Constantinople, Athènes đều được xây dựng lại sau mỗi trận cháy, với gỗ của Petrodava.

Dân chúng tôi làm ra gỗ. Dân chúng tôi cũng cần đến gỗ. Nhưng chúng tôi không có tiền để mua gỗ. Chúng tôi cũng không có tiền để mua bất cứ cái gì. Theo thống kê, cả một làng chỉ mua được một hộp diêm mỗi năm. Điều đó chứng tỏ rằng ngân sách của chúng tôi vô cùng hạn hẹp. Gần như không có. Buôn bán, đúng hơn là đổi chác bằng hiện vật. Tiền bạc chỉ các ông chủ Phanariot và các viên chức nhà nước mới có. Vì rằng, trong một xứ lạnh như chúng tôi, gỗ, củi, là một vấn đề sinh tử - Và vì không có tiền để mua, dân chúng kiếm gỗ, kiếm củi trong rừng chung quanh nhà của họ. Gỗ thuộc quyền sở hữu của các ông chủ Phanariot và của nhà nước. Mặc dù vậy, chúng tôi cứ lạy. Chúng tôi biết rằng các rừng ấy là của chúng tôi. Rằng các rừng ấy đã bị tước đoạt bằng vũ lực. Chúng tôi không nói gì. Nhưng trong các rừng mà chúng tôi đã bị tước đoạt, bị cướp đi, chúng tôi lấy gỗ, lấy củi vì chúng tôi cần. Để nấu món mamaliga, tức là món cháo bắp, món ăn độc nhất của chúng tôi cần củi. Chúng tôi cần gỗ để làm tường, làm mái nhà, muốn làm cái cầy, cũng cần gỗ. Cũng cần gỗ để làm chuồng cho súc vật, để làm cái cào, cái xuổng, cái xe. Tất cả những gì dân chúng có được đều bằng gỗ. Tình cảnh nô lệ suốt đời, cuộc đời khổ cực, tăm tối của người dân Agapia là nguyên nhân đưa đến việc họ trộm củi, gỗ trong rừng. Họ trộm vì họ cần mà không thể mua được. Họ trộm của những người đã cướp của họ. Nếu các quan chức Phanariot bỏ tù những người trộm gỗ trong rừng thì trong hai tuần lễ hai triệu người sẽ ở trong nhà lao. Sẽ không còn một người dân nào nữa tự do ở ngoài. Vì các quan chức Phanariot không thể nào cầm tù tất cả một dân tộc, họ quyết định về tội ăn cắp gỗ chỉ cần lập một biên bản. Người ta xét xử và người ta kết án, nhưng người ta để cho một người được tại ngoại, được tự do tạm thời. Đối với các vi phạm ấy - mà người dân ở Petrodava gọi là “tội rừng” không áp dụng án phạt tù, nhưng luôn luôn người ta tịch thu cái rìu của kẻ vi phạm. Đó là hình phạt khủng khiếp. Tất cả mọi người đều muốn ở tù vài tháng còn hơn là mất cái rìu của mình. Giá một cái rìu là một vốn liếng lớn vô cùng, đối với dân chúng không thể mua ngay cả diêm và muối. Phải dành dụm nhiều năm trời mới sắm được một cái rìu.

Người nào lâm vào tai họa mất cái rìu của mình là coi như một người bị thiên tai. Chẳng khác nào thần lửa đã thiêu hủy nhà của mình. Một người đã nhiều lần mất cái rìu của mình thì không còn có thể đứng dậy được nữa. Ngươi đó bị phá sản, trong suốt khoảng đời còn lại. Người đó sẽ không bao giờ mua được cái rìu khác, và như vậy là lâm vào cái cảnh một người đã mất hết hai cánh tay. Không có rìu thì không có việc làm. Không việc làm thì không có mamaliga, không có cháo bắp. Không rìu không thể sống được. Đối với tất cả mọi người.

Rìu là dụng cụ thiết yếu. Với cái rìu, người ta dựng được nhà, không cần cái gì khác. Với cái rìu người ta đẽo gỗ. Và người ta dựng lên những cái nhà đẹp đẽ. Với cái rìu người ta làm ra các đồ vật trang trí trong nhà. Nhưng không chỉ có cái nhà. Tất cả dụng cụ để làm việc người ta có ở đây đều được làm ra với cái rìu, cái xe, cái cày, cái bừa, cái xẻng, cái thùng, cái khung củi... Với cái rìu người ta làm ra cái giường, cái bàn, cái ghế, cái tủ, cái nôi trẻ con... Tất cả đều tự mình làm ra, với cái rìu.

Với cái rìu người ta làm ra cái cầu để đi qua các con suối, hay hàng rào để bảo vệ người và gia súc chống lại chó sói và thú dữ trong rừng. Với cái rìu người ta làm nhà thờ, thánh giá, quan tài, bàn thờ... Cái rìu là vũ khí duy nhất để chống với thú dữ trong rừng, người nào không có cái rìu không thể mạo hiểm đi trong rừng mà không nguy đến tính mạng.

Cái rìu là bạn đường và là cái gậy. Người nào không có cái rìu thì mùa đông chết khát, cả người lẫn gia súc, vì với cái rìu người ta bửa nước đá trong sông ngòi và nước đá trong các cái xô. Cái rìu là sự sống. Người nào không có cái rìu thì không thể có chỗ sống ở giữa người sống. Không có một cái gì có thể thay thế cái rìu. Cũng như người ta không thể thay thế hai cánh tay.

Vì các lẽ ấy, tịch thu một cái rìu của một người, một người Bất tử ở đây, là làm cho nó què quặt. Là chặt tay phải của nó. Hay là chặt chân của nó. Tuniade Cha lấy việc tịch thu rìu của dân làm sở thích. Đó là lão Phanariot kiêu căng, tàn ác, bất công, vô nhân đạo, không thương xót. Lão đánh người ta với roi ngựa như thể đánh một khúc gỗ. Tóc lão láng mướt, thoa dầu, nước thơm, như tóc của tất cả các quan chức Phanariote. Đầu lão như một trái dừa đã rút hết nước, láng, thơm, trét phấn và không có gì ở bên trong. Trong mỗi câu nói của lão đều có xen một từ miệt thị, tiếng Pháp. Các quan chức Phanariote chia thành đảng phái chính trị, như những con chó sói, thay phiên nhau để chiếm lấy xứ sở này. Tất cả đều giống nhau. Từ xa họ đã nức mùi nhuận da, mướt tóc, mùi thơm của đĩ trai. Một hôm, vào buổi trưa, lão Tuniade Cha gặp Savonarola Mold trong rừng, Sava, một thợ rừng ở đây. Một tên khổng lổ. Người nghèo khổ nhất. Gã có hình dáng một con gấu, cao hai thước, ngực rộng như thân một cây bách, đầu bờm xờm, thân hình nặng nề như một con gấu. Nhưng trong cái thân hình to tướng như một con vật ấy, có một trái tim con nít, dịu dàng và dễ cảm. Savonarola Mold mới mất chưa được bao lâu cái rìu của gã. Chính Tuniade Cha đã tịch thu của gã. Khi thấy lão Tuniade, Sava đã cố thu giấu cái rìu mới mà gã mới trả được nửa tiền. Chậm quá rồi! Sava không chặt gì trong rừng, không bị bắt quả tang. Nhưng từ xa lão Tuniade đã lên tiếng hỏi:

“Đồ súc sinh, mày làm gì trong rừng”.

“Tôi đi dạo chơi”, Savonarola Mold trả lời. Gã không biết nói dối. Gã nói tiếp “Tôi đi dạo chơi và nhìn xem có một cây tùng nhỏ nào để làm con quay cho vợ tôi. Nó phải kéo sợi, con quay cũ bị gãy”.

Làm một con quay là một công việc hết sức khó. Trước tiên phải lùng kiếm trong rừng. Trong hàng ngàn những cây tùng nhỏ, cao độ một thước, phải có một cây mềm dẻo như cây sậy, như xương gà, và rắn chắc như sắt. Phải có con mắt tinh đời mới tìm được một cây tùng có thể làm được con quay. Phải tìm kiếm trên các mỏm đá. Sau đó phải phơi hai hay ba năm. Gỗ phải được hong khói hay hơ lửa. Sava Mold đang tìm kiếm một cây tùng như thế trong rừng. Vừa trả lời Sava ngủi thấy mùi dầu nhuận da, mướt tóc và mùi thơm từ áo quần của lão Phanariote tỏa ra trong rừng, mùi hương ấy là mùi hương tội lỗi.

“Hãy đưa tao cái rìu của mày”, lão ra lệnh.

Lão cưỡi ngựa. Lão đặt chân xuống đất. Lão đòi lấy cái rìu. Lão thả con ngựa ra.

“Tôi không chặt gì cả”. Sava phản đối.

“Mày điếc hả?” - Lão Tuniade thét. Roi ngựa của lão quất vào mặt Sava Mold. Một khuôn mặt đen thui vì ánh nắng mặt trời và vì gió, chúng bôi đen còn hơn than và khói. Một khuôn mặt đen thui vì nghèo nàn, đói khát và đau khổ. Sava chịu đựng ngọn roi quất vào mặt và cắn răng lại: Gã đau đớn vô cùng. Nhưng gã giấu cái rìu trên ngực với hai cánh tay. Giống hệt một bà mẹ giấu con thơ trước sự hiểm nguy. Giống như một con gà mái giấu gà con dưới đôi cánh. Bằng cách ấy, với đôi cánh tay vòng trên ngực, Sava bảo vệ và giấu cái rìu của gã.

Antoine Tuniade Cha quất roi thứ hai, roi thứ ba... roi thứ mười. Mặt Sava đầy máu. Da nơi má toét ra. Nhưng Sava đứng yên như một cây bách. Gã ôm chặt cái rìu trên ngực. Gã không chống đỡ các ngọn roi làm toét da thịt gã; một cây bách cổ thụ không chống đỡ bão táp tàn phá nó, bức ra và làm gãy nhánh của nó. Sava như một cây bách kiên trì trước bão táp. Sava chờ đợi trận đòn chấm dứt với sự giận dữ của lão Phanariote thấy roi ngựa không khuất phục được Sava, đã liệng roi xuống đất. Lão lấy cây đoản côn. Lão cầm hai tay phang vào đầu Sava Mold. Nhưng Sava cao hai thước vẫn đứng thẳng. Sự đau đớn hình như chỉ làm cho gã cao lớn thêm hơn. Nhưng cái ấn tượng ấy không kéo dài được lâu. Sau khi bị đánh nhiều đòn côn, nện vào đầu với sức mạnh của đôi cánh tay của lão Phanariote, Sava chao đảo và té nhào xuống. Giống như một cây bách to mà người ta vừa cưa và đổ xuổng. Sava cũng đổ xuống như một cây bị đốn. Gã không kêu. Gã không chửi. Gã không nói gì. Gã ngã xuống một cách im lặng. Gã chỉ gây tiếng động mà một cây bị cưa gây ra khi đổ xuống với tất cả sức nặng ghê gớm của nó trên lá khô của rừng. Khi ngã xuống Savonarola Mold không thả cái rìu ra. Tuniade cố giật cho kỳ được. Nhưng các ngón tay của gã thợ rừng bám chặt vào cái rìu như dính liền vào nó. Cánh tay và rìu chỉ còn là một vật. Phải chặt tay mới có thể lấy được cái rìu.

“Đưa tao cái rìu của mày” Tuniade ra lệnh, mặt giận dữ.

Sava tỉnh lại một cách từ từ, một cách yếu ớt. Gã chỉ có một phản ứng tự vệ, lật úp mình, mặt sát đất, giấu cái rìu dưới ngực, và bảo vệ nó với sức nặng của thân hình gã.

Lão Phanariote đứng lên, với đôi bốt của lão, trên thân hình nằm dài của Sava Mold, như người ta đứng lên trên một thân cây. Lão chà đạp gã, đánh đập gã. Xương thịt của Sava cầm cự, chịu đựng. Bất động, bây giờ gã đã kiệt sức và gã cảm thấy cái rìu còn được bảo vệ dưới ngực của gã, ý nghĩ duy nhất của Savonarola Mold là chịu đựng càng lâu càng tốt. Gã muốn chịu đựng các đòn côn, cho tới lúc lão Phanariote nguôi cơn giận dữ. Cho tới lúc lão Phanariote mệt nhừ vì ra sức đánh đập. Savonarola Mold vì có lòng tin tuyệt đối vào khả năng chịu đòn của lão. Xương thịt lão đã quen rồi. Từ hàng thế kỷ và hàng thế kỷ, dòng họ Mold bị người ta đánh đập, và họ đã quen chịu đựng. Gã giấu cái đầu và cái rìu. Chỉ cái đầu và cái rìu mà thôi. Cái đầu, để khỏi nhận một đòn chí mạng vì như thế gã sẽ để lại vợ góa con côi. Cái rìu, vì đó chính là mạng sống của gã. Không có rìu là chết.

Một đòn côn của lão Phanariote vào cột sống, phía dưới ót, Sava đau quá phải lật ngửa người lại. Bây giờ gã nằm ngửa. Lão Phanariote nhảy lên bụng gã. Và với gót giày sắt của đôi bốt. Tuniade chà đạp bộ phận sinh dục của Sava Mold, như người ta chà đạp nho trong cái bàn ép. Đây là một sự đau đớn tột cùng. Sava ngất xỉu. Gã bất tỉnh. Các bắp thịt giãn ra, giãn,ra. Hai bàn tay to của gã không xiết cái rìu đủ chặt như trước. Trông như nửa ngủ nửa thức - kiệt sức, như trong một giấc mơ - Savonarola cảm thấy lão Phanariote vừa chà đạp bộ phận sinh dục của gã với gót giày sắt vừa giựt cái rìu ra khỏi bàn tay của gã. Cái rìu đã mất. Tuyệt vọng, Sava tập trung tất cả sức lực của mình và quỳ gối. Gã không còn có cái rìu nữa. Gã ôm hôn đôi bốt của lão Phanariote đã chà đạp gã một cách dã man và phi lý.

Gã nói với lão:

“Ngài hãy đánh tôi bao nhiêu cũng được, tôi van xin ngài, nhưng ngài đừng lấy cái rìu của tôi! Ngài muốn làm gì tôi cũng được. Nhưng xin ngài đừng giết tôi và đừng lấy cái rìu của tôi”.

Một cú mạnh hơn các cú khác, một cú nện xuống với chính cái rìu của Sava, buộc gã phải nằm dài xuống trở lại. Gã té ngửa xuống trên mặt đất. Sự ẩm ướt của rừng, như thấm vào thân cây cối. Nó đánh thức con người dậy, trong một cái giật nẩy người mà tất cả những người hấp hối trên thế gian đều có trước khi chết. Sava vùng dậy, quỳ trên hai đầu gối. Gã lăn mình như một con báo, với tất cả sức nặng của thân hình gã, vào lão Phanariote đang đứng trước mặt gã. Savonarola Mold giựt cái rìu khỏi tay lão. Gã không còn sự sống nữa, nhưng gã đã sống lại, duy nhất là để lấy lại cái rìu. Bây giờ Sava cần cái rìu, nhưng gã biết rằng sẽ không giữ nó được lâu. Gã sắp sửa ngất đi trở lại. Gã bị thương nặng và bầm dập cả người. Gã không thể bảo vệ cái rìu của gã được nữa. Để lão Phanariote khỏi giựt cái rìu nữa, gã tiêu diệt kẻ đe dọa gã. Gã loại trừ kẻ lợi dụng sự kiệt sức của gã để tước đoạt mạng sống của gã và cái rìu của gã. Tập trung các sức lực cuối cùng của mình, Savonarola Mold bửa cái đầu lão Phanariote, với nhiều nhát rìu liên tiếp. Gã bửa cái đầu ấy như bửa một trái dưa. Cái đầu xức nước thơm, đầu nhuận da, mướt tóc, nhưng rỗng bên trong ấy vỡ ra từng mảnh. Sava Mold không thấy gã đã làm gì. Gã đã đập vỡ cái đầu đã vỡ ra như một trái cây. Một tội ác có tính súc vật... Các quan tòa và báo chí đã nói như thế. Bửa xong cái đầu thơm của lão Phanariote, Sava Mold kiệt sức. Gã ngã gục xuống trên xác lão. Gã bất tỉnh trong sáu giờ liền. Mười phần chết không có lấy một phần sống. Trên mặt đất. Khi tỉnh lại, Sava đã lấy cái rìu sau khi đã lau sạch nó. Gã đã đến sở cảnh sát và kể lại với tôi tất cả những gì đã xảy ra. Cũng như tôi, bây giờ kể hết cả cho ông thẩm phán nghe. Tôi đã đi với Sava tới hiện trường. Tôi kiểm tra các sự kiện. Đúng như Sava đã thuật lại. Bác sĩ Pillat đã khám cái bộ phận sinh dục nát bét của Sava. Ông đã nói nguyên văn như sau “Nát như những trái nho trong bàn ép. Trống rỗng”. Tôi điện thoại cho ông biện lý. Ông ra lệnh cho tôi giải Savonarola đến tòa án tỉnh. Cho cảnh sát viên vũ trang áp giải một cách chu đáo. Tôi đã cho giải Sava Mold đi, nhưng tôi đã không còng tay gã. Tôi đã thấy là không công bằng, không thích đáng và không cần thiết. Và Sava Mold đã bị kết án khổ sai chung thân đày đi các hầm muối. Gã còn đang ở đó.

- Và đó không phải là một vụ giết ngươi? - Thẩm phán Cosma Damian hỏi.

- Không - Cảnh sát trưởng Fillaret đáp - Đó là một tai họa. Và cái chết của Tuniade Cha là một vụ tự sát. Sự khiêu khích khủng khiếp, kinh khủng và không thể tránh được, đã đến cái mức mà nếu chỉ là cái rìu riêng thôi, mặc dù nó là một vật bằng sắt, cũng bửa cái đầu lão Phanariote ra. Chính lão đã yêu cầu cái rìu bửa đầu lão. Lão đã làm tất cả những gì để mà chết. Đối với tôi khi một người gây ra cái chết của mình, người ấy phạm tội tự sát. Antoine Tuniade Cha đã tự mình gây ra cái chết của mình, một cách tỉ mỉ với một ý chí độc ác. Lão đã khởi phát cho cái rìu của Sava chuyển động giống như đã bóp cò một cây súng. Vì lẽ ấy, người ta không thể buộc tội Sava đã phạm tội giết người. Ngoại trừ Đức Chứa Giê-su ra. Vì ngài là Chúa và duy nhất chỉ vì Ngài là Chúa, còn bất cứ vị thánh nào, từ trên lịch bước xuống, cũng sẽ hành động như Sava Mold. Vì không phải con ngươi Sava Mold đã sử dụng cái rìu. Đó là bắp thịt, là thịt, là xương của gã, đã bị nhiễm độc của sự đau đớn, của sự bất công và sự tấn công.

- Vì sao ông đã dối tôi cho đến bây giờ? - Ông thẩm phán hỏi - Đêm nay, con trai của Tuniade đã bị giết. Có một sự liên hệ giữa cái chết của người cha với cái chết của người con, đó là điều hợp lý luận.

- Không có sự liên hệ nào giữa hai sự kiện ấy. Tôi biết rằng ông cũng như bất cứ người nào chỉ tuyệt đối đi theo con đường được gọi là hợp với lý luận, rằng ông sẽ thấy có sự liên hệ ấy. Nhưng đó là một đường thám thính sai. Không có sự liên hệ nào cả. Cái chết của người cha là một tai họa, do chính lão gây ra. Các tai họa, cũng như các trận phun núi lửa của hỏa diệm sơn, không lập lại như cũ.

- Kẻ giết Tuniade Cha bây giờ ở đâu? - Ông thẩm phán hỏi.

- Ở nhà tù khổ sai. Tôi đã nói với ông rồi. Tòa án binh đã kết tội nó.

- Nó có gia đình ở đây không? Nó có trong thành phố, con cái, anh em, bà con hay bạn bè muốn trả thù cho nó không? Và ai, để trả thù cho nó, có thể ra tay giết Tuniade Con?... Đó là con đường chính để tìm ra thủ phạm. Nhất thiết phải điều tra theo hướng ấy. Đó chính là nơi cuộc điều tra đáng lẽ ra phải bắt đầu.

- Đó chỉ là một sự phí phạm thời giờ - Cảnh sát trưởng Fillaret nói - Tại đây không có kẻ sát nhân. Savonarola Mold không phải là một tên sát nhân. Nhưng nếu ông đinh ninh muốn điều tra theo hướng đó, tôi sẵn sàng tuân lệnh ông. Hãy cho tôi biết tôi phải làm gì, tôi sẽ làm.

- Chúng ta phải điều tra gia đình của Sava Mold. Chúng ta phải hỏi cung vợ nó, con nó, tất cả bà con, bạn bè nó. Một người trong bọn chúng, không nghi ngờ gì nữa, đã giết Tuniade Con. Vì người con đã bị giết một năm sau người cha.

- Tôi xin đi theo ông - Cảnh sát trưởng Fillaret nói - Xin ông thứ lỗi vì tôi đã dông dài. Tôi đã thưa với ông rằng, tôi là một người dân ở Petrodava. Một người bất tử ở đây. Hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi làm việc trong ngành cảnh sát. Người ta đã bổ nhiệm tôi vào ngành này vì như tôi đã nói với ông rồi, vì tôi đã thi hành nghĩa vụ quân sự trong ngành hiến binh. Hơn nữa, tôi có đi học. Người ta muốn có ở đây một thanh tra cảnh sát là người địa phương. Và người ta đã yêu cầu tôi nhận nhiệm vụ ấy. Tôi là người duy nhất có khí giới ở giữa những người không có khí giới. Nhưng dầu có khí giới, tôi cũng giống như các người bất tử khác ở đây. Một người Bất tử. Một con người.