- XIV - Mở cuộc điều tra tại cái nhà không có rìu- -
Ông thẩm phán trẻ Cosma Damian không xúc động quá đáng vì câu chuyện kể của cảnh sát trưởng Fillaret. Ông giận dữ.
- Ông cảnh sát trưởng, bổn phận sơ đẳng nhất của ông là phải cho tôi biết vụ án Sava Mold. - Ông thẩm phán nói.
Mặc áo quần ấm áp, ông bước lên xe của xà ích Ismail để đi điều tra tại nhà tên tù khổ sai. Ông cảnh sát trưởng ngồi im lặng bên cạnh ông thẩm phán. Ông thẩm phán nói tiếp.
- Sự im lặng của ông là không thể tha thứ được. Cha và con đã bị giết trong cùng một năm. Gần như cùng một năm. Là điều hợp lý khi suy đoán rằng cả hai cha con đều bị cùng một bàn tay hạ sát. Chắc chắn đây là một vụ trả thù. Theo lối những mối thù truyền kiếp. Những tội ác dây chuyền. Như thường xảy ra trong tất cả những vùng lạc hậu. Đáng lẽ ông phải cho tôi biết sự việc, ngay từ lúc đầu. Dù tại địa phương, Savonarola Mold được xem như một nạn nhân và một người chịu cực hình, thì sự việc ấy không đáng quan tâm. Đối với pháp luật, gã là một tên sát nhân. Đáng lý ông phải cho hay ngay từ lúc đầu.
Chiếc xe trượt tuyết do hai ngựa bạch kéo leo lên con đường Tình Yêu. Vì nhà tên tù khổ sai không xa lâu đài bao nhiêu. Hai bên con đường Tình Yêu, có ánh đèn nơi cửa sổ các ngôi nhà nhỏ. Trời đã gần sáng nhưng không ai tắt các cây đèn dầu lửa. Trong những giờ lo âu, người ta cảm thấy cần để đèn thắp sáng. Bây giờ người ta thấy rõ hơn con đường Tình Yêu. Con đường uốn khúc quanh co ở giữa thành phố, dốc cao dần, như một ruy-băng trắng hai bên viền những điểm xanh, những cây tùng. Một cái ray-băng uốn khúc bên trên thành phố hướng lên cao và theo phía Tây. Agapia như một hải cảng núi xuống tới tận đường sắt để gặp đồng bằng giống như gặp biển. Vì vùng ở phía Đông đường sắt khác hẳn vùng phương Tây như thể biển khác với đất liền. Ở phương Đông đất màu đen, mầu mỡ, bằng phẳng. Phương Tây, núi cao như một bức tường, đất và đá cứng. Phương Đông về mùa hè có muỗi mồng, bụi bặm. Phương Tây, trên con đường Tình Yêu, không bao giờ có bụi, gió quét sạch tất cả và thổi bụi xuống đồng bằng. Thỉnh thoảng, những đám mây bị gió đẩy và giống như những tấm khăn lông ướt khổng lồ, chúng lau sạch đá, nhà cửa và không khí. Hai vùng Đông Tây khác nhau thế nào thì dân chúng ở hai vùng Đông Tây cũng khác nhau thế ấy. Phương Đông, trên đồng bằng mầu mỡ, dơ bẩn, bùn lầy và giàu có là những con người lùn, béo, má tròn trịa; họ thích tiền bạc và cuộc đời, và mặt họ hớn hở. Phương Tây, trong các ngôi nhà nhỏ ở hai bên con đường Tình Yêu, đàn ông, đàn bà đầu cao, gầy, gần như không có thịt và vẻ nhìn khắc khổ. Họ rất ít tha thiết với đời sống trần tục và với dục tình. Họ mơ ước một vương quốc tốt đẹp hơn.
Dân miền núi ở suốt dọc theo con đường Tình Yêu, và dân ở dưới đồng bằng gặp nhau tại thành phố Agapia, hoàn toàn giống dân miền biển gặp dân đất liền tại một hải cảng.
- Người ta đã giết Tuniade Cha và Tuniade Con vì cùng một lý do - Ông thẩm phán nói - Thật rõ ràng. Người ta giết họ vì họ là những người độc ác. Đó là tên Phanariote khát máu. Đây là một tội ác có tính xã hội. Một sự trừng trị những tên độc ác khát máu.
- Không, thưa ông thẩm phán - Cảnh sát trưởng Fillaret đáp - Tôi đã nói với ông rằng chúng tôi không giết những tên độc ác khát máu. Không phải chúng tôi là những kẻ hèn nhát, hay là chúng tôi bằng lòng sống trong sự bất công và trong vòng nô lệ; nhưng chúng tôi không sống chung đụng với những tên độc ác khát máu ấy mặc dù chúng tôi luôn luôn cảm thấy roi vọt của chúng trên da thịt chúng tôi. Rễ của chúng tôi là ở trên trời, cao hơn lịch sử và lãnh địa của những tên Phanariote độc ác; cũng giống như con đường Tình Yêu mà chúng tôi ở cao hơn đồng bằng...
- Dù sao thì tên sát nhân cũng là một người ở đây - Ông thẩm phám nói - Giả thiết của ông về một người lạ mặt đến bằng xe lửa đã bị loại trừ. Tên sát nhân là người ở đây, nó có điều gì đó phải trả thù, một điều gì đó phải nghiêm trọng, trách cứ gia đình Tuniade.
- Tất cả mọi người ở đây đều có một điều nghiêm trọng trách cứ gia đình Tuniade. Từ hằng thế kỷ, chúng chỉ làm điều xấu điều ác... Công việc của chúng là điều xấu, điều ác đối với mọi người. Và khắp cả mọi nơi.
- Thí dụ, gia đình Sava Mold cũng có những lý do để giết Tuniade Con, phải không nào?
- Không, thưa ông thẩm phán. - Cảnh sát trưởng Fillaret nói.
Ismail cho xe ngừng lại. Trước mặt, trên mỏm núi đá, là lâu đài được đánh bạc. Bên mặt trong rùng thưa, một nhà bằng gỗ, gần như bị chôn vùi dưới tuyết.
- Đây là nhà của Sava Mold - Cảnh sát trưởng Fillaret nói - Ở đó ông muốn tìm tên sát nhân. Ông vẫn luôn luôn muốn tới đó?
- Chắc chắn là tôi muốn tới đó! - Ông thẩm phán đáp.
Ông thẩm phán nhảy xuống. Ông nói:
- Chúng ta phải tìm ở đây cái chìa khóa của vụ án bí mật và dấu tích của tên sát nhân.
- Đây là một cuộc điều tra không thích hợp. Và nó sẽ không đem lại kết quả gì cả, xin ông hãy tin lời tôi.
- Ông quyết định nó là không thích hợp. Và tôi đã quyết định trái lại.
- Thưa ông thẩm phán, các đứa trẻ con của gã Savonarola Mold đáng thương đã rơi vào tình trạng dã man. Chúng hoàn toàn đần độn vì những khổ cực về thể xác và tinh thần. Đã lâu rồi chúng trần truồng. Chúng không có gì che thân. Chúng sống trần truồng như súc vật. Mẹ chúng, vợ của Sava Mold cũng trong tình trạng dưới mức của một con người. Bà ta sống với các con của bà như thú vật. Ngay cả vị linh mục rất đáng tôn kính, Cha xứ Nikodim của chúng ta, cũng bực mình khi nói với họ. Chẳng khác nào người ta nói với thú vật. Không nên tới đó, thưa ông thẩm phán!
- Hãy đi tới đó, ông cảnh sát trưởng. - Thẩm phán Damian nói.
Cảnh sát trưởng Fillaret xuống xe, có một lần nữa ngăn cản ông thẩm phán:
- Nói cho cùng, vì sao ông nhất định muốn tới nhà Sava Mold? Ông muốn hỏi gì. Các người khốn khổ ẩy? Vì sao ông muốn hành hạ họ? Đây là một điều ác không cần thiết mà ông làm đối với họ. Một điều ác sẽ chẳng có ích lợi gì cả. Vợ Sava Mold gần như điên khùng và bệnh rất nặng. Bà ta sống, nhốt mình trong nhà với sáu đứa con đều dưới mười hai tuổi, cả mẹ và con chẳng bao giờ ra khỏi nhà. Tất cả đi chân không, thân thể trần truồng. Làm sao họ có thể ra khỏi nhà trong cái lạnh này và có thể giết người lính trẻ kia? Họ không phải là những người có đủ khả năng để giết một người lính. Trong nhà này có một người đàn bà điên và sáu đứa con giống như thú hoang. Tới đó là không hợp lý!... Ông muốn tìm tên sát nhân trong bọn họ sao, thưa ông thẩm phán?
- Phải đi tới đó và xem chúng nó ghê gớm như thế nào - Thẩm phán Damian đáp - Họ là kẻ thù ghê gớm nhất của cha con Tuniade. Cuộc điều tra phải bắt đầu từ họ, tên sát nhân chắc chắn là trong những người thân thích của họ.
- Tùy ông. - Cảnh sát trưởng Fillaret nói.
Ông tiến bước, trong tuyết, bên cạnh ông thẩm phán. Trước mắt họ, một cái nhà nhỏ đơn độc. Bằng gỗ, như tất cả các nhà khác ở đây. Một cái nhà đẹp. Người ta chỉ thấy những cái nhà giống như thế ở Petrodava và tại các nước ở bán đảo Bắc Âu. Trang trí như một cái nhà của búp bê. Chính Savonarola Mold đã tự tay cất lấy nhà này, chỉ dùng độc nhất cái rìu của gã. Mái nhà lấp lánh như những hạt kim cương và ngọc bích, dưới các tia nắng đầu tiên của mặt trời.
Một làn khói dày bốc lên từ mái nhà, lan ra xung quanh.
- Họ đốt lửa trong nhà? - Ông thẩm phán hỏi.
- Không, nhà ở xứ chúng tôi không có khói, thưa ông thẩm phán. Nhà không có ông khói, nguyên nhân là vì các quan cai trị Phanariote. Không biết đánh thêm thứ thuế gì nữa, họ đặt ra thuế ống khói. Một thứ rất nặng. Nhà nào có một cái ống khói phải nộp một suất thuế bổ túc mà người ta gọi là thuế khói. Quá nghèo không thể nộp thứ thuế mới này, dân chúng ở Petrodava phá các ống khói trên các mái nhà của họ. Kể từ đó, không nhà nào có ống khói. Khói bốc lên trong vựa, và từ vựa thoát ra theo các kẽ hở, và nhất là theo chung quanh mái nhà. Như ông thấy đó.
Hai ông bước tới. Chung quanh nhà không một dấu vết người hay thú vật. Tuyết cao gần bằng nhà.
- Ông thẩm phán thấy đó, không có lấy một dấu chân. Không ai vào nhà này và không ai ra khỏi nhà này.
Cửa và cửa sổ bị che một nửa bởi tuyết. Các ô vuông của cánh cửa dơ bẩn, đục và dán giấy báo. Người ta không thấy gì xuyên qua các ô vuông ấy. Rất khó nhọc, cảnh sát trưởng Fillaret mới tới được cửa.
- Thưa ông thẩm phán, đây là nhà của Savonarola Mold.
Ông đẩy cửa, không gõ cửa. Trong lúc cô mở cái cửa bị đóng băng, bị nghẽn vì tuyết, cảnh sát trưởng Fillaret nói với ông thẩm phán:
- Đáng tiếc, chúng ta đã phí phạm thời giờ để đến đây!
Cửa chắc chắn quá. Cảnh sát trưởng Fillaret nhìn nó với vẻ khâm phục và hãnh diện. Ông nói:
- Savonarola là thợ mộc giỏi nhất trong vùng. Ông hãy xem gã đã làm cái cửa tốt đến thế. Chắc chắn và đẹp. Tội nghiệp, gã ta là một người thợ mộc rất khéo tay!
Cảnh sát trưởng Fillaret thở dài:
- Sava thích xẻ gỗ biết bao! Và bây giờ gã xẻ muối, tội nghiệp.
Cảnh sát trưởng Fillaret đẩy thật mạnh, cửa mở ra. Hai người vào trong nhà. Nhà chỉ gồm có một phòng. Lò sưởi chiếm hết nửa phòng. Trong lò sưởi có đốt lửa. Bên cạnh, một thùng ton-nô đựng nước đầy một nửa; người ta để thùng tại đó để nước khỏi đông lại ban đêm. Bên trên lửa có treo một cái nồi lớn đen thui. Trong nồi cháo bắp mamaliga đang sôi. Đó là một hỗn hợp nước, bắp và muối. Đó là món ăn hàng ngày, món ăn độc nhất thay thế bánh mì, thịt và tất cả. Bên cạnh nồi, một người đàn bàn đứng, tóc xám xịt và bờm xờm. Vẻ nhìn cũng lộn xộn như đầu tóc. Bà ta mặc một cái áo sơ-mi vải lanh vô cùng dơ bẩn và rách rưới, và một cái váy bằng bao gai. Mặt vàng khè, xương xóc và nhăn nheo. Người ta có thể nói rằng đó là một cái mặt nạ của người điên. Cũng là mặt nạ của một người tuyệt vọng, vẻ nhìn cũng xám xịt như đầu tóc, không chải và không gội. Hình dáng không có đường nét rõ rệt vì trong phòng mù mịt hơi nước và khói quyện vào nhau dầy đặc. Lại nữa, các kính cửa sổ đều mờ. Ánh sáng từ ngoài lọt vào, mờ đi vì qua các ô kính mờ, cộng với ánh lửa, trong cái không khí đầy hơi nước ấy, làm nhức mắt. Trong nhà rất nóng. Một cái nóng nghẹt thở, ẩm ướt không thể nào chịu được. Người ta tưởng là đang ở trong phòng tắm hơi. Và là hơi nước hôi thối. Kính cửa sổ, phần lớn đều bị vỡ được vá dán lại bằng giấy báo. Người ta có thể nói đây là một bối cảnh giả tạo trên sân khấu bi kịch, bối cảnh về sự khốn cùng, đói khát, đau khổ và sa đọa.
Sát vào tường, gần bên lò sưởi [1] là các đứa trẻ. Chúng núp tất cả. Tường, xưa kia quét vôi, bây giờ đen đúa, ẩm ướt và nhầy nhụa. Một đứa trẻ rụt rè bước tới, trùm một cái áo sơ-mi bằng vải bao gai, dài, dơ bẩn, tóc rất dài và rối. Nó gầy một cách kinh khủng. Như một bộ xương. Hai bắp vế của nó là hai cái xương dài, nhỏ và dơ bẩn. Nó có một vẻ nhìn dữ tợn và ngơ ngác. Một vẻ nhìn của một con thú muốn cắn nhưng sợ. Đột nhiên nó kêu:
“Salve” [2] Nó cười to. Như thể đã liệng một cái pháo nổ. Cũng trùm những cái áo sơ-mi dài, như những cái bao gai, luôn luôn với vẻ rụt rè, sáu đứa trẻ con lần lượt bước tới phía trước, đứa nào cũng gầy, dơ bẩn, đi chân không và chỉ khác nhau về chiều cao. Tất cả đứng im lặng một lúc, có vẻ sợ hãi. Sau đó, chúng ré lên, răng nghiến nghe răng rắc như nước đá bị đập nát ra.
“Salve”. Sau tiếng kêu ấy, chúng ré lên cười, cái cười điên loạn, nhìn đăm đăm vào cảnh sát trưởng Fillaret và thẩm phán Damian với những con mắt như những mũi dao, và chúng xô đẩy nhau trốn vào sau lò sưởi. Giống như những con mèo chun vào một cái lỗ ở dưới đất. Nhưng đó không phải là những con mèo con mà là những đứa trẻ. Chúng không hề biết đến lược, đến xà phòng, đến cái kéo của thợ hớt tóc. Thật hết sức lạ lùng khi nghe từ miệng chúng cái tiếng chào mà các ông chủ cũ của thế gian, người La Mã, đã dùng để chào nhau. Tiếng “Salve” của những người La Mã đi chinh phục thế giới đã biến mất với đế quốc La Mã. Không còn ai ngày nay còn dùng tiếng chào ấy, ngoại trừ con cái của tên tù khổ sai Savonarola Mold và các người ở Petrodava.
- Salve, các con. - Ông thẩm phán nói.
Không ai đáp lại. Im lặng một lúc. Như trong các nghĩa địa. Trong gian phòng này sự im lặng còn tồi tệ hơn cả khói và hơi nước hôi hám. Bầy con của Sava Mold sợ. Vì vậy chúng im lặng. Chúng không quen nghe người ta nói với chúng. Sau những phút đầu tiên sợ hãi, chúng thấy kỳ cục làm sao ấy cho nên chúng cười rú lên như bị bệnh tâm thần. Tiếng cười giống như kính bị vỡ ra vì bị người ta chà dưới giày bốt gót sắt. Những dây phát âm của mấy đứa trẻ này, cổ họng đói khát của chúng, không phát ra được tiếng nói bình thường của trẻ con, giọng nói thiên thần của trẻ con.
- Thưa các ông, đây không phải là những đứa con nít. Đó là những con rắn nhỏ. Những con rắn độc. - Người đàn bà nói.
Bà ta buộc các đứa trẻ im lặng. Bà đưa cái dùi gỗ dính bắp nóng lên dọa, cái dùi mà bà ta dùng để khuấy cháo trong nồi. Các đứa trẻ nín thinh, không dám thở. Sáu đứa trẻ lúc nhúc như dòi trong một vết thương, ở giữa gian phòng hôi hám đến nghẹt thở, ép sát vào nhau. Chúng sợ. Người ta không thấy chúng, nhưng người ta có thể đoán rằng chúng ép sát vào nhau như những hạt nho.
Ở đây, cái dùi của bà mẹ không phải là một sự đe dọa suông, vì sợ cái dùi nóng, các đứa trẻ không nhúc nhích và im lìm, như những chú gà con trong trường hợp hiểm nguy. Tai chỏng lên để nghe ngóng, mắt đen, nảy lửa và lấp lánh. Đây là cái nhìn của những con hươu cái nhỏ đứng trước người săn. Cái nhìn mà những con sóc nhìn vào họng súng đang ngắm bắn chúng, như chúng đợi súng nổ. Nhưng hôm nay không có tiếng súng. Chỉ có ông cảnh sát trưởng và ông thẩm phán đến tìm tên sát nhân đêm ấy.
- Lạy Chúa tôi, các ngài muốn gì, thưa các ngài phúc đức? - Người đàn bà hỏi.
Bà ta để cái dùi vào trong nồi cháo mamaliga đang sôi. Không bao giờ tiếng La Tinh lại vang lên một cách lạ lùng trong cái miệng của người đàn bà đau khổ đến phát điên ấy; bà ta nói như các người La Mã xưa kia. Bà ta nói: “Dommii mei, Cruce, Salve” [3]. Bà ta dùng hàng trăm chữ xưa kia của người La Mã, chủ nhân của thế giới ngày xưa, những chữ mà người ta không còn dùng ở bất cứ nơi nào nữa trên trái đất, ngoại trừ ở nơi này. Đó là tiếng La Tinh, thứ tiếng lẫy lừng một thời của đế quốc La Mã, một thứ tiếng đóng băng. Không có gì thay đổi ở đây ngoại trừ sự cực khổ và sự bất công, cứ mỗi thế kỷ lại trở thành to lớn hơn...
- Dommii mei, các ngài muốn gì? - Người đàn bà lại hỏi.
Bây giờ bà ta sợ. Còn hơn các con của bà ta nữa. Bà ta run cầm cập với tất cả thân hình như bộ xương người của bà ta. Nhưng bà ta nhất quyết chống cự với bất cứ giá nào. Bà sợ là đúng, trong cái nhà này, bao giờ cũng đến từ bên ngoài toàn là những cuộc viếng thăm xấu, những tin tức xấu, không bao giờ tốt. Cuộc viếng thăm cuối cùng xảy ra đây cách mười bốn tháng. Hiến binh đã đến đây với người cha, người chồng Sava Mold.
Và gã ta, người cha của sáu đứa con này, người chồng của người đàn bàn này, gã tay bị còng tay, xiềng chân, Sava bị xiềng xích như tất cả những tên sát nhân. Người ta áp giải lão về nhà để khám xét và điều tra. Cuộc viếng thăm cuối cùng của người cha bị xiềng xích ấy đã làm các đứa con sợ khiếp suốt đời. Cái cảnh người cha bị xiềng xích, đầy thương tích và máu khô, đã quyết định thái độ mà các đứa con của Sava Mold sẽ có, suốt cuộc đời của chúng, đối với tất cả những người bên ngoài, tất cả nhân loại. Từ ngày hôm ấy, các đứa trẻ này chỉ biết một điều: rằng chúng là con một tên giết người. Rằng cha chúng là một tên giết người. Rằng cha chúng đã bửa, với cái rìu của mình, cái đầu to của lão ác ôn Phanariote Tuniade ra ngàn mảnh, như người ta bửa một trái dưa. Rằng cha chúng đã nhắm mắt làm như thế, vì đau đớn đến phát điên, vì không còn chịu đựng được nữa các gót giầy sắt của lão Phanariote cày xới bụng của cha chúng.
- Dominii mei, các ngài muốn gì? - Người đàn bà hỏi lần thứ ba.
Dữ tợn sẵn sàng nhảy tới, móng tay đưa ra trước, như một con gà mái điên tiết, chống lại người lạ mặt xâm nhập vào hang, nơi nuôi các con gà con của nó. Dữ tợn như những con chim đói và sợ. Smaranda Mold càng lúc càng dữ tợn, càng lúc càng như chim hơn càng lúc càng ít giống đàn bà hơn. Ngay cả gương mặt bà ta cũng có những nét của một con chim và mất đi những nét của phái nữ Smaranda Mold không bao giờ có được cuộc đời tươi như hoa. Nhưng từ khi xảy ra cái chết của lão Phanariote, đời sống của bà ta hoàn toàn là ở trong hang. Chồng bà ta làm việc ở trong rừng. Gã là thợ đốn củi. Gã làm việc trong rừng, suốt cả mùa đông. Vì người ta phải đốn cây vào mùa đông mới có thể kéo cây trượt trên tuyết cho đến bờ sông.
Trong tất cả các mùa đông của đời gã Savonarola Mold đã ngủ trong những cái hầm lạnh bốn mươi độ âm, cũng như tất cả các thợ rừng. Gần như là ở ngoài trời. Cũng như các thợ rừng khác, gã mắc những chứng bệnh phong thấp, bệnh phung điên, chứng tê buốt, bệnh lao... Cuộc sống trong nhà một người thợ rừng luôn luôn u ám. Mặc dù vậy, sau khi xảy ra cái chết của lão ác ôn Phanariote và sau khi chồng bà ta bị lưu đày. Smaranda Mold đã xem cuộc sống trước đó như sống trong một thiên đường. Mỗi buổi tối thứ bảy, hay mỗi buổi sáng Chủ nhật, chồng bà ở trên rừng xuống. Sava vào nhà. Sava ở đây, trong gian phòng này, và chỉ sự hiện diện ấy là cả một lễ rất lớn. Sava có mặt ở đây, đó là thiên đường. Sava đem về vài xu và một cái gì để ăn. Rất ít xu. Và rất ít đồ ăn, không bao giờ người ta ăn no trong nhà này. Nhưng dù sao cũng là một lễ rất lớn. Sava có mặt. Sava người chủ gia đình, người cha, người chồng Sava là mặt trời. Bây giờ mặt trời bị xiềng xích dưới đất, người ta đã chôn mặt trời.
- Domnii mei, đúng rồi! - Smaranda Mold đột nhiên kêu lên.
- Gì vậy? - Ông cảnh sát trưởng hỏi.
- Đúng rồi người ta xiềng xích mặt trời! Mặt trời của tôi. Bây giờ mặt trời ở dưới hầm muối sâu dưới đất.
Smaranda Mold nắm tay lại tự đánh vào trán mình. Bà ta nấc lên, sự đau đớn của bà ta bùng lên. Đột nhiên bà ta ngừng khóc. Bà ta vùng lên dữ tợn trở lại.
- Tôi đã hỏi các ông, các ông muốn gì?
Bà ta cầm cái dùi nóng trong nồi. Bà ta chờ câu trả lời.
Thẩm phán Cosma Damian vô cùng bối rối. Ông hối tiếc đã đến đây. Ông hối tiếc đã không nghe theo những lời khuyên của ông thanh tra Filaret. Ông những muốn đi đâu cho khuất mắt, đi đâu cũng được. Vì cái cảnh khổ ải, đau đớn và suy sụp, sự thất thế của con người, của bất cứ con người nào, làm mất phẩm giá của toàn thể các con người khác của toàn thể loài người. Sự nhục nhã, mất phẩm giá của chỉ một con người hay một nhóm người là một điều nhục mạ, một vết nhơ, một sự tổn thương đối với toàn thể loài người. Ông thẩm phán nhận thức điều ấy và muốn nói. Nhưng ông bắt gặp những cái nhìn của người đàn bà, những cái nhìn nảy lửa như những giọt axit sulfuric, sắc như mũi gươm. Ông thẩm phán cảm thấy các mũi ấy trên ngực mình. Cùng một lúc mà những cái nhìn của người đàn bà làm tổn thương ông thẩm phán, như những mũi gươm, ông còn cảm thấy thêm những cái nhìn khác cũng làm tổn thương như các cái nhìn của người đàn bà. Đó là những cái nhìn của sáu đứa trẻ. Tất cả, chúng ra khỏi chỗ ẩn núp của chúng và chúng nhìn ông thẩm phán. Như thể chúng muốn đóng đinh ông vào cây thập tự, với cái nhìn của chúng, giống như cái đinh cháy trắng.
- Bà có tin tức gì của chồng bà không? - Ông cảnh sát trưởng hỏi.
Ông thấy rằng, ông thẩm phán không thể mở miệng. Ông thẩm phán tái mặt, nghĩ rằng cuộc điều tra về vụ án đêm vừa rồi không nên tiến hành ở đây, ở nơi này. Người đàn bà này không thể nào đã giết Tuniade Con trước lâu đài. Người đàn bà này không có quần áo ấm. Ngươi đàn bà này không bao giờ ra khỏi nhà. Suốt mùa đông bà ta bị tù trong nhà vì lạnh. Giống như chồng bà bị tù ở dưới đất vì luật pháp. Người này và người kia đều bị nhốt trong những nơi mà ở đó ánh mặt trời không lọt vào được. Các đứa trẻ con cũng là tù nhân, tù nhân được hưởng một chế độ ưu đãi. Những đứa lớn nhất trong sáu đứa, những đứa có thể đi được, thỉnh thoảng có đi ra khỏi nhà. Nhưng mỗi lần chỉ một đứa đi. Nó xin ăn nơi Cha xứ Nikodim. Chúng có thể đi từng đứa một, vì trong nhà chỉ có một cái áo măng-tô duy nhất cho sáu đứa. Một cái mũ duy nhất cho sáu đứa. Một cái quần duy nhất cho sáu đứa. Vì vậy chúng thay phiên nhau mặc những thứ ấy. Cha xứ Nikodim đã cho chúng bộ đồ ấy, một bộ đồ duy nhất cho cả sáu đứa. Để ít ra một đứa trong bọn chúng có thể đi ra ngoài và đi ăn xin.
- Mụ có nhận được tin tức gì của chồng mụ hay không? - Cảnh sát trưởng Fillaret nhắc lại.
- Tin tức loại nào? - Người đàn bà hỏi.
Đôi mắt bà ta lại trở thành như những mũi dao, như những giọt axit sulfuric. Smaranda Mold một lần nữa sẵn sàng nhảy bổ vào hai người đàn ông lạ mặt. Bà ta đang trong tư thế đề phòng, để tự bảo vệ và bảo vệ con của bà.
- Có nhận được thư từ gì không? - Cảnh sát trưởng Fillaret hỏi.
- Ai viết thư cho tôi?
- Sava, chồng mụ. Sava có viết thư cho mụ không?
- Sava chồng tôi, không biết viết. - Người đàn bà đáp - Ông biết rõ là chồng tôi không biết viết. Vì sao ông hỏi tôi như thế? Ông hãy nói cho tôi biết ông muốn gì?
- Tôi đã hỏi chồng mụ có gởi thư cho mụ không? Vì chồng mụ có thể nhờ một người bạn viết. Đó là việc bình thường. Khi một người không biết viết thì có một người bạn viết giùm cho.
- Vì sao ông muốn một người bạn của Sava viết thư cho tôi?
- Để cho mụ biết tin.
- Tôi không biết đọc. Vì sao người ta biết tôi không biết đọc mà lại gởi thư cho tôi?
- Để cho mụ biết Sava đang làm gì. Đến lượt mụ, mụ có thể nhờ một người nào, thí dụ Cha xứ Nikodim đọc thư cho mụ nghe.
- Sava biết rằng tôi biết Sava đang làm gì. Sava khai thác muối trong các đường hầm dưới đất. Tất cả mọi người đều biết Sava đang làm gì. Vì sao viết điều ấy trong lúc người ta biết rồi.
- Sava cũng có thể hỏi tin tức của mụ và các con của mụ.
- Sava biết rất rõ chúng tôi làm gì ở đây. Sava biết rất rõ chúng tôi chờ chết cho xong. Nhưng tử thần, bà bá tước tử thần, muốn bắt người ta chờ đợi! Bà lớn tử thần ấy chậm rì!
Smaranda Mold lấy hai bàn tay che mặt và khóc nấc. Bà vừa khóc vừa kêu to những tiếng đau đớn, khó hiểu. Các đứa con, gần bên lò sưởi, im lặng nhìn mẹ chúng. Vài giây đồng hồ. Như thể chúng chia xẻ sự đau đớn của mẹ chúng. Và cũng như thể mẹ chúng làm cho chúng sợ. Sau đó, tất cả sáu đứa cười ré lên một cách điên loạn. Tiếng cười của lũ con hòa lẫn với tiếng kêu đau đớn của người mẹ. Và đó là một sự hòa thanh hoàn toàn. Không có một sự lạc điệu nào. Tiếng cười và tiếng khóc là đỉnh cao của sự tuyệt vọng như nhau, sự tuyệt vọng của các đứa con và sự tuyệt vọng của người mẹ. Sự tuyệt vọng của người khóc và sự tuyệt vọng của người cười.
- Các con của tôi cũng không biết viết. - Người đàn bà nói.
Đột nhiên bà ta ngừng khóc.
- Đứa lớn nhất mười hai tuổi. Đáng lẽ nó có thể viết thư cho cha nó. Nhưng con tôi không phải là con của các quan Phanariote để mà biết viết.
Người đàn bà không cười. Không khóc nữa. Bà ta nổi xung.
- Vì sao ông muốn các con tôi viết thư cho cha chúng nó? Hãy nói cho tôi biết vì sao? Cha chúng nó đang ở dưới đất. Với người chết. Vì sao ông muốn các con tôi viết thư cho người chết?
Lại im lặng một lần nữa. Cái im lặng trong nhà của Sava Mold còn tệ hơn những tiếng kêu đau đớn của các tên bị kết án tử hình. Ông thẩm phán muốn nói vài lời an ủi. Nhưng ở đây tất cả đều đầy rẫy khổ đau, tuyệt vọng, ruồng bỏ, cô đơn. Không có chỗ để có thể nói một lời an ủi nhỏ nhoi nhất.
- Bà, bà không có ai để giúp đỡ bà cả sao? - Ông thẩm phán hỏi.
Tiếng “bà” làm rạng rỡ gương mặt của Smaranda Mold như một tia sáng mặt trời, như một dợn sóng vàng lóng lánh, như một ánh sáng thiên thần, cả gian nhà cũng rạng rỡ. Như thể Smaranda nhận được một nắm tiền vàng, một cái áo dài mới tinh, những đồ trang sức lóng lánh kim cương, ngọc bích. Trong phút chốc bà ta rạng rỡ, bà ta chói lọi, bà ta sung sướng như một bà hoàng. Nhưng bà ta trở về với thực tại. Ông thẩm phán, nghĩ rằng bà ta không thể hiểu câu hỏi của ông, nên ông lặp lại câu hỏi, nhưng lần này không nói cái tiếng thần diệu, tiếng “bà”:
- Không có ai, giúp đỡ cả sao? - Ông hỏi.
- Không - Người đàn bà đáp - Trên trái đất, chúng tôi là những con người cô độc. Chúng tôi bảy con người. Tôi và sáu đứa nhỏ loắt choắt mầm mống của Sava, tôi không còn kể trong các người sống. Ông ta không còn trên mặt đất. Ông ta ở dưới, với các người chết. Chôn sâu hơn hòm các người chết.
- Hãy cầm lấy số tiền này. - Ông thẩm phán nói.
Ông lùa vào trong bàn tay của người đàn bà những tờ bạc, tất cả những tờ bạc ông đã tìm được trong túi. Người đàn bà cầm lấy. Bà ta không nhìn đến các tờ bạc. Bà ta đưa cho các đứa con. Để chúng chơi. Trong sự đau khổ, có một cái mức độ mà tiền bạc không còn giá trị.
- Không có áo quần mùa đông sao? - Ông thẩm phán hỏi.
- Mùa đông cũng không, mùa hè cũng không - Người đàn bà đáp - Nhưng tôi không cần áo quần trong vài tuần nữa, áo sơ-mi cũng không còn. Các đứa con loắt choắt này cũng không còn sơ-mi. Áo sơ-mi của chúng tôi sẽ hoàn toàn rách nát. Chúng tôi sẽ trần truồng ở trong nhà. Chúng tôi sẽ không đi ra ngoài. Khi mùa hè đến, chúng tôi cũng sẽ không đi ra ngoài, vì người ta sẽ giết chúng tôi trần truồng ở ngoài đường. Suốt mùa hè chúng tôi sẽ nhốt mình trong này. Có thể chúng tôi sẽ đi ra vào ban đêm. Chung quanh nhà chúng tôi. Sung sướng thay các thú vật, chúng có thể ra ngoài không có áo quần! Vì chúng tôi không thể làm như thế. Sung sướng thay các con heo! Vì chúng không cần váy. Người ta không giết những con bò cái nếu chúng đi ra không có sơ-mi. Nhưng tôi, người ta sẽ giết tôi, người ta sẽ liệng đá vào tôi, nếu tôi đi ra không có sơ-mi. Và chẳng bao lâu nữa tôi sẽ không còn có áo sơ-mi. Sung sướng thay các con bò cái! Và các con heo cái! Đúng vậy thưa ông: sung sướng thay các con heo cái!... Khổ thay tôi, tôi là một người đàn bà chứ không phải là một con bò cái!
- Tôi sẽ gởi cho mụ một gói - Ông thẩm phán nói - Tôi sẽ bảo bà quản gia của tôi sắm cho mụ vài bộ áo quần. Chắc chắn tôi sẽ gởi đến cho.
- Vì sao lại gởi áo quần cho tôi? - Người đàn bà hỏi. Bà ta ngạc nhiên vô cùng về đề xuất của ông thẩm phán. Bà ta hết sức hoang mang.
- Để mụ có mà mặc.
- Nhưng vì sao phải mặc?
- Để có thể đi ra ngoài.
- Tôi, tôi đi ra ngoài?
Người đàn bà cười ré lên.
- Người ta thấy rõ ràng rằng ông không hiểu gì cả! Tôi không bao giờ có thể ra khỏi nhà. Dù ông có gởi cho tôi áo gấm và áo nhung. Nếu tôi đi ra ngoài thì ai giữ sắp nhỏ này? Chúng sẽ nhảy vào lửa. Hễ tôi vừa bước chân ra là chúng sẽ đốt cháy nhà này. Chúng không phải là con người. Chúng là những con rắn. Những con sâu. Những con rắn độc.
Bà ta lại khóc. Bà ta nói.
- Chúng không phải là những đứa trẻ con. Ôi! Không!... Đó là những con thú hoang dại. Những đứa u mê, đần độn. Thưa ông, ông hãy trả lời tôi. Loại con nào mà ông muốn thấy khi chúng sinh ra từ một người cha giết người và ở tù khổ sai?
Giây phút này vô cùng nghiêm trọng và khó khăn. Những con người này sống trên những bến bờ xa xăm nhất của sự khổ đau và tuyệt vọng. Thẩm phán Cosma Damian không còn có thể chịu đựng được cái cảnh ấy. Ông sầu não đã đến đây. Ông bỏ đi vội vàng. Hình ảnh gia đình này, mãi mãi cho đến chết, sẽ ám ảnh cuộc đời ông. Vì không có gì nghiêm trọng hơn sự đau khổ khi nó vượt quá cái mức độ mà loài người có thể chịu đựng một cách bình thường.
Chắc chắn ông thẩm phán trẻ Cosma Damian đã hoàn toàn quên rằng ông đã đến đây là để tìm một tên sát nhân! Ông cảm thấy kỳ cục mở một cuộc điều tra tại một nơi như thế này.
Ông thẩm phán đi ra, đau đớn tận tủy xương sống. Vì con người, trong những lúc rất nghiêm trọng của cuộc đời, mới phát hiện tình bác ái, một tình cảm mà con người quên lãng trong những lúc bình thường. Trong những lúc nghiêm trọng và khó khăn con người cũng như cái chậu thông đáy. Vì vậy sự đau khổ của vợ Sava Mold trào lên trong ngực của ông thẩm phán trẻ, như đó là sự đau khổ của chính ông. Ông nhận thức rằng mình cũng là một con người, như sáu đứa trẻ kia mà người mẹ gọi là những đứa con loắt choắt. Sự đau đớn của chúng cũng làm ông đau đớn. Hơn nữa, chúng cũng là người Moldavie [4] như ông. Người dân Moldavie không thua kém các dân tộc khác trên trái đất. Từ nhiều thế kỷ, các quan chức Phanariot tổ chức thành bè phái, bè đảng, đã xâm nhập, như những con ký sinh vào trong thân thể dân chúng Moldavie và các quan chức Phanariot ấy đã bóc lột dân chúng Moldavie từ bên trong và từ bên ngoài. Và dân tộc Moldavie đáng thương ấy sắp sửa chết trút linh hồn. Sắp sửa chết lần chết mòn.
Ismail đúng trước cửa. Gã chờ. Khi ông thẩm phán bước ra, gã cất mũ và nói:
- Ông cho phép tôi vào một lát. Tôi ra ngay và theo kịp ông trong xe trượt tuyết.
- Anh đem gì trong ấy? - Cảnh sát trưởng Fillaret hỏi.
- Tôi sẽ cho họ cái này. - Gã xà ích đáp.
Gã đưa chân chỉ vào cái bao. Gã giải thích:
- Đây là một ít bắp. Người ta nói với tôi rằng các ông đến nhà các người khốn khổ kia. Tội nghiệp! Tôi đem cho họ cái này.
Ismail đi vào trong nhà. Gã đặt cái bao xuống gần lò sưởi. Lúc Ismail xoay người lại để đi ra cửa, một đứa trẻ liệng một miếng gạch vào đầu gã, Ismail đứng lại. Gã sờ tay lên trán. Miếng gạch như một viên đạn đã trúng ngay giữa mặt gã. Từ trán gã, máu chảy lai láng. Co rút lại vì đau đớn, áo lót lông thú và hai má nhuốm đầy máu, Ismail đi ra xe. Các đứa trẻ theo ra trước nhà chửi rủa. Chúng liệng thêm những miếng gạch khác nữa.
Ismail đã cho chúng thức ăn, chúng làm gã bị thương và ném đá, để đuổi gã với những tiếng tục tĩu. Nếu có thể thì chúng đã ném đá giết chết gã Ismail đáng thương. Sự hung dữ của các đứa trẻ làm người ta mủi lòng. Như sự cực khổ của chúng. Vì có một khu vực ở đó sự độc ác và sự nhân hậu, sự hung dữ và sự dịu dàng, nụ cười và tiếng khóc; có cùng một ý nghĩa. Cái này và cái kia là sản phẩm của sự tuyệt vọng cực độ. Tới đỉnh cao ấy của sự đau khổ, điều lành và điều dữ, điều tốt và điều xấu, những nụ hôn và những cú đấm, nụ cười và tiếng khóc là một. Mọi sự đều ở trên mọi giá trị và mọi ý nghĩa. Trong lúc ông thẩm phán và ông cảnh sát trưởng cố gắng băng bó vết thương của Ismail với những chiếc khăn tay của họ thì người mẹ đi ra và bắt đầu đánh mấy đứa con. Tiếng la mắng của người mẹ vang đến tận tại ông thẩm phán.
- Con cái quân giết người! - Bà ta thét - Con cái quân tù khổ sai. Rồi chúng mày cũng sẽ giết mẹ chúng mày và chúng mày cũng đi ở tù khổ sai! Như tên sát nhân cha chúng mày. Đồ con cái quân giết người.
Ông thẩm phán bịt lỗ tai lại, chiếc xe từ từ khởi hành.
Lúc ấy đã quá tám giờ. Ông cảnh sát trưởng nói:
- Thưa ông thẩm phán, tôi đã nói trước với ông rằng tên giết người không thể là người trong nhà của Savonarola Mold.
- Đúng vậy - Ông thẩm phán đáp - Tên sát nhân không phải ở đây. Nhưng tên sát nhân là một trong những người không có khí giới. Nghĩa là trong các người của thành phố này. Nó không phải từ ngoài đến.
Chú thích:
[1] Trong các nhà dân nghèo ở xứ Moldavie lò sưởi không giống lò sưởi ở Tây phương mà là những cái lò lớn bằng gạch xây dính liền vào nhà. Đôi khi lò sưởi có những cái khám những mặt bằng ở đó người ta có thể nằm ngủ được. (N.D)
[2] Salve: chào. Tiếng La tinh còn sót lại từ hồi người La Mã còn đô hộ xứ này.
[3] Lạy Chúa tôi, thánh giá, chào.
[4] Moldavie là ngươi dân xứ Moldavie một xứ ở Rumanie, rộng 34.000 cây số vuông và có dân số gần na triệu người. (N.D).