← Quay lại trang sách

- XVI - Xà ích Ismail kẻ bị thiến và tôn giáo khủng khiếp của gã- -

Nhưng phải chăng tên xà ích Ismail, gã đàn ông bị thiến, đã giết Antoine Tuniade đêm hôm ấy? Thẩm phán Cosma Damian tự hỏi. Ý nghĩ Ismail là tên sát nhân xuất hiện trong đầu óc ông, như một tia chớp vào lúc mà ở trước pháp đình ông chợt thấy hình dáng khổng lồ của gã xà ích ngồi bất động trên chiếc xe trượt tuyết của gã. Giả thuyết tên sát nhân có thể là Ismail, hình như có thể chấp nhận được. Ông thẩm phán đi đến bên cửa sổ văn phòng. Ở ngoài, chiếc xe trượt tuyết hai ngựa trắng của Ismail đang đợi khách. Thấy ở cự ly ấy, gã xà ích, cao như một con gấu, trùm mình trong những tấm da cừu với cái mũ to tướng bằng lông cừu, trên đó tuyết rơi xuống từng nụ trắng xóa, gã xà ích ấy làm ông thẩm phán rùng mình. Ismail có thể bóp cổ một con gấu chỉ với sức mạnh của đôi bàn tay. Đêm hôm ấy, nhìn Ismail quào tuyết, nơi xảy ra án mạng, với đôi bàn tay của gã, rộng như hai cái xẻng, với hai nắm tay to như những cái búa, ông thẩm phán cũng có những cái rùng mình sợ hãi và nghi ngờ như hôm nay. Ông thẩm phán cũng nhớ lại Ismail đã co rút người lại như thế nào khi thấy những vết máu mà gã không dám đến gần.

- Ông thẩm phán nhìn anh chàng Ismail đáng thương à? - Cảnh sát trưởng Fillaret hỏi.

Ông vừa làm xong báo cáo về vụ ám sát, báo cáo mà ông phải gởi cho cấp trên của ông bằng điện thoại.

- Anh chàng Ismail đáng thương, - Ông nói tiếp - tôi thương hại hắn lắm!... Hắn khổ sở kinh khủng, vì gió Fohn. Hắn khổ sở hơn ai hết ở đây. Không nhắm được mắt, dù chỉ một phút, chừng nào mà gió ấy có thổi. Nếu gió Fohn không ngừng suốt ba ngày và ba đêm, thì ba ngày và ba đêm Ismail không nhắm được mắt. Đó là một con người khổ sở.

- Một con người khổng lồ, to cao, như một con măm-mút như thế mà có thể cảm thấy ảnh hưởng của một ngọn gió nho nhỏ sao? - Ông thẩm phán ngạc nhiên.

- Nguyên nhân là vì tôn giáo khủng khiếp của hắn.

Cảnh sát trưởng và thẩm phán nhìn gã xà ích, tuyết rơi xuống từng nụ lớn trên gã như rơi trên một bức tượng.

Ismail, gã đàn ông bị thiến cao hai thước, tóc láng vàng như sáp và óng ánh như tia nắng. Mắt xanh như men và như hoa lưu ly, luôn luôn mặc bộ đồng phục kỳ dị. Có hàng ngàng người khổng lồ mắt nâu như Ismail, với đôi mắt xanh, áo măng-tô nhung, làm nghề xà ích trong hầu hết các thành phố ở xứ Moldavie. Tất cả đều thuộc giáo phái Skoptzys. Tất cả đều là những người tị nạn đến từ phương Đông, và là thành viên của một giáo phái bí mật và khủng khiếp, giáo phái Skoptzys.

Những người ấy đã xuất hiện trên thế giới từ một thế kỷ nay. Họ đến từ các hoang nguyên ở phía Bắc Hắc Hải. Ở đó tuy là quê hương của họ, nhưng tôn giáo của họ bị cấm rất nghiêm ngặt, và người nào theo tôn giáo ấy thì bị xử tử hoặc tù khổ sai chung thân. Không bao giờ có trường hợp giảm khinh cho các người Skoptzys trước bất cứ tòa án nào. Sự ngược đãi đối với họ khốc liệt và toàn diện. Vì những sự ngược đãi đẫm máu ấy, mà họ chạy về phương Tây. Người ta thấy họ tận Canada, Hoa Kỳ và Alaska. Cũng có những nhóm nhỏ người Skoptzys ở Bá Linh, ở Paris, ở Praha, và ở hầu hết các thành phố Tây phương. Phần đông làm nghề xà ích. Người ta có thể nhận biết họ từ xa, vì các áo măng-tô nhung xanh của họ, dài như áo các tu sĩ. Họ đeo nịt da, đi bốt, đội mũ lông thú hay nhung. Ngoài bộ áo quần nửa nhà binh nửa thầy tu ấy, người ta còn nhận biết họ vì sự sạch sẽ đặc biệt của họ. Ngựa của họ, bộ đồ thắng của chúng và tất cả những đồ vật mà họ có đều được đánh láng, láng bóng, đánh véc-ni sáng ngời. Họ sống tại những vùng ngoại ô, trong những ngôi nhà thấp, chung quanh có tường cao, ở trong đó ngự trị một sự yên tĩnh như ở các nghĩa địa. Các người Skoptzys rất ít nói, và chẳng bao giờ nói đến tôn giáo của họ.

- Tôi - Cảnh sát trưởng Fillaret nói - Tôi đã ở gần khu phố người Skoptzys khi tôi còn học ở trường cảnh sát. Lúc ấy tôi đã quen biết và hiểu họ rất rõ. Sau đó, vì quan tâm đến sự bí mật mà họ che giấu trong cuộc đời của họ, tôi đã tìm những tài liệu nói về họ trong hồ sơ lưu trữ tại sở cảnh sát Jassy. Từ một thế kỷ, các người Skoptzys tới phương Đông từng đợt đều đều. Tất cả đều đi ngang qua đất nước chúng tôi. Họ không bao giờ nói đích xác từ đâu họ đến. Nhưng luôn luôn là một nơi gần Hắc Hải. Đó là một vùng đất mà các tà giáo mọc lên như cây cối ở vùng nhiệt đới. Những người được sinh ra gần Hắc Hải luôn luôn có một cuộc sống hết sức khó khăn. Luôn luôn thân phận con người làm họ ngộp thở, như ta làm ngộp thở một con người mà ta dìm đầu xuống nước. Thân phận làm người, thân phận của con người trên trái đất là cái gì mà họ không thể nào chấp nhận nổi. Vì vậy họ ngộp thở trong thân phận ấy và cố thoát ra khỏi thân phận ấy. Họ giống như một người rơi xuống sông và cố bơi vào bờ. Họ khao khát sự tuyệt đối, sự khao khát di truyền, không nguôi, một sự khao khát rùng rợn, không có tính người. Và vì thế họ dựng lên tất cả các loại tà thuyết để cố thoát khỏi thân phận làm người, để vươn lên cao hơn trần tục và cao hơn cuộc sống con người. Họ mơ ước, và điều đó giày vò họ, mơ ước lòng bác ái, vị tha của toàn thể nhân loại, vượt lên trên thân phận làm người, có những liên hệ trực tiếp giữa con người với Chúa với các thánh. Một trong vô số tà giáo nổi lên ngày và đêm trên bờ Hắc Hải là giáo phái của anh chàng đáng thương của chúng ta, Ismail: giáo phái Skoptzys. Họ là những người theo đạo Thiên Chúa giống như những người theo đạo Thiên Chúa trên thế giới, nhưng họ tự cắt đi tuyến sinh dục. Họ tự thiến mình để loại trừ mọi sự nguy hiểm rơi vào tội tình ái nhục dục, tội tham dâm. Để bào chữa hành vi ấy, họ đã viện dẫn một văn bản trong Thánh kinh của thánh Matthieu. Với cái dao mổ nhỏ, họ áp dụng chương XIX đoạn 12 của thánh kinh ấy. Vào chính thịt của chính họ. Để thành người trinh tiết và tinh khiết. Họ nghĩ rằng, bộ phận sinh dục là cội rễ của mọi tội lỗi. Giới tính đã ngăn con người vươn tới phận sự cao cả mà con người phải làm khi được tạo dựng. Bộ phận giới tính là nguyên nhân của mọi điều rắc rối và phiền muộn. Bằng cách cắt đi các tuyến sinh dục. Họ nghĩ rằng sẽ giải thoát con người khỏi mọi sự nô lệ của bản năng và xác thịt. Thoát khỏi những sự ràng buộc của giới tính và của xác thịt, con người có khả năng đạt đến trình độ của các thiên thần. Các thiên thần cao cả hơn con người, vì các vị ấy không có giới tính cũng không có đam mê xác thịt. Tất cả tôn giáo của những người Skoptzys đều đặt nền móng trên lý thuyết ấy. Họ nghĩ rằng cơ quan sinh dục không phải là một cơ quan cần thiết như con mắt, lỗ tai hay trái tim. Họ nghĩ rằng bản năng nhục dục cũng giống như gió Fohn: khi nó hoành hành, mọi trật tự, mọi lý trí và mọi lý luận đều bị quét sạch. Con người bị ám ảnh bởi bản năng nhục dục cũng giống như bởi ngọn gió quái ác ấy. Đó là một bản năng khốn nạn và không có ích lợi gì, bản năng ấy chỉ kích thích và quấy rầy các con chim một hai lần mỗi năm, nhưng lại kích thích và quấy rầy con người không ngừng, ngày và đêm, trong phần lớn thời gian của đời người. Vì thế, người Skoptzys đã quyết định cải thiện khuyết điểm ấy của bản chất con người. Họ cắt bỏ cội rễ của bản năng, nó ngăn cản con người đạt đến sự tinh khiết tuyệt đối của thiên thần. Họ nghĩ rằng hành động như vậy là họ đã làm một công việc rất tốt. Vì thật là khờ dại để mất đi sự trường tồn, mất đi vương quốc của Chúa và trình độ của các thiên thần, vì một cái hôn, một cái ôm ấp, hay một khắc đồng hồ lạc thú xác thịt thấp hèn. Người Skoptzys thực hành cuộc tiểu phẫu ấy, một cuốc giải phẫu còn nhẹ nhàng, ít công phạt hơn giải phẫu cắt ruột thừa. Sau khi lấy vợ và sau khi đã có một đứa con duy nhất. Lập tức sau khi đứa con ấy ra đời, người cha đã tự cắt bỏ dương vật của mình và sống những ngày và những đêm còn lại của đời mình bên cạnh vợ như bên cạnh một người em gái.

- Và Ismail quả thật là một người Skoptzys?

- Đúng vậy, thưa ông thẩm phán.

- Nó có vợ và có một đứa con?

- Đúng, nhưng vợ và con nó đã chết. Đã chết trước khi nó đến đây. Hình như vợ con nó đã bị cảnh sát hạ sát lúc vượt biên giới, trên con sông đóng băng Dniester. Nó sống cô độc một mình ở đây.

- Đây là một chuyện thảm thương. - Ông thẩm phán nói.

- Thảm thương, nhưng thưa ông thẩm phán, ông không thể tưởng tượng được rằng những con người tầm thường và mù chữ kia đã đạt đến trình độ nào của sự tinh khiết. Ismail, cũng như hầu hết những người Skoptzys không biết đọc cũng không biết viết. Họ xem viết lách như một công việc trần tục. Mặc dù không có học thức, họ có một nền luân lý, một lễ phép, và một nghi thức còn tinh nhã hơn nghi thức của triều đình vua chúa. Một khu người Skoptzys ở, không cần có cảnh sát, thẩm phán, cũng không cần có cơ quan y tế. Họ không ăn cắp, họ không nói dối. Họ không lừa đảo. Họ triệt để tuân theo mười điều răn. Trong gia đình, họ im lặng như những tu sĩ.

- Họ có đạt đến sự tinh khiết mà họ mơ ước không? Họ có được sung sướng không?

- Không, thưa ông. Một sự buồn bã đè nặng lên trên những khu họ ở, trên những mái nhà của họ, và trên cuộc đời họ. Sự tinh khiết mà họ đã chinh phục được nặng nề đối với một con người còn hơn cả tội đam mê xác thịt. Họ là những người cần cù vô cùng, siêng năng hơn tất cả mọi người. Họ ngủ bốn hay năm giờ, và thời gian còn lại họ làm việc không ngừng. Họ rất đúng giờ, vì đúng giờ tôi không biết ông nhận thấy không, là một thứ sạch sẽ về phương diện thời gian. Họ không bao giờ chơi bời. Họ không đi xem chiếu bóng, không đi xem hát, không đi dự lễ lạc bất cứ loại nào. Họ không bao giờ uống ruợu, không hút thuốc, không ca hát, không nhảy múa, không huýt gió. Họ không đọc sách, không đọc báo. Họ không nghe đài truyền thanh. Họ không có một nghệ thuật nào. Chúa thay thế tất cả. Cuộc sống của họ đầy tràn Thiên Chúa. Như một cái cốc tràn nước. Sự sạch sẽ thể xác của họ được đẩy mạnh tới mức cao nhất. Không một vết nhơ, không một hoen ố trên thân thể họ, cũng như trên áo quần họ, súc vật của họ. Mặc dù tôn giáo của họ không cấm đoán, nhưng họ không bao giờ ăn thịt. Họ không ăn tỏi, không ăn hành, không ăn tiêu ớt, để hơi thở của họ cũng được tinh khiết. Họ đối xử với các súc vật như là những con người. Một thú vật là một tạo vật của Chúa, và bằng cách tôn vinh tạo vật, họ tôn vinh đấng Tạo hóa. Chủ nhật, ngày lễ, người Skoptzys không bao giờ thắng ngựa vào xe. Ngựa, chúng cũng được hưởng những ngày nghỉ. Chủ nhật, các thú vật đều được miễn mang sợi dây hay sợi xích ràng buộc chúng. Chúng được tự do. Từ tối thứ bảy đến sáng thứ hai, tất cả thú vật của người Skoptzys đều được tự do. Những con bê và cừu non có quyền bú tất cả sữa của mẹ chúng. Vì không một người nào Skoptzys nào vắt sữa bò hoặc cừu ngày Chủ nhật. Họ không bao giờ nguyền rủa, họ không mang một thứ khí giới nào ngay cả một con dao nhíp nhỏ cũng không. Mỗi buổi sáng, họ lấy đồ vật trong túi ra và chải chuốt đáy túi cho thật sạch. Ngay cả trên giầy của họ cũng không bao giờ có một tí bụi, một vết bùn. Họ không thưa kiện, không bao giờ khiếu nại, dù sự thiệt hại mà người ta gây ra cho họ to lớn bao nhiêu cũng vậy. Họ không bao giờ cỡi ngựa. Họ không bao giờ đặt hàm thiếc vào miệng ngựa, vì họ cho rằng cái hàm thiếc mà người ta đặt vào miệng ngựa là một sự tàn bạo đối với ngựa và là một điều nhục mạ đối với Chúa. Trên những con ngựa không hàm thiết là một trò chơi đối với các xà ích tự hoạn ấy. Thế mà tai nạn cũng thường xảy ra. Khi xe xuống dốc, những con ngựa không hàm thiết lồng lên và dẫm nát xe và xà ích. Người Skoptzys chôn cất người chết, bị đè bẹp dưới các mảnh vụn của xe, nhưng không chịu đặt hàm thiết vào miệng ngựa. Tất cả họ đều cầm roi ngựa trong tay mặt. Gần như bao giờ cũng vậy. Nhưng không bao giờ người Skoptzys đánh ngựa với roi ấy. Cây roi đối với họ chỉ là một biểu tượng của nghề xà ích. Cây roi không thể là một vật dùng để đánh trẻ con ở Agapia; ác như tất cả trẻ con, biết rằng Ismail tự hoạn không bao giờ sử dụng chiếc roi, chúng đã tự rủ nhau làm một thí nghiệm. Một hôm chúng xịt tất cả chó dữ ở thành phố cắn Ismail. Đó là một sự khiêu khích dùng để thử thách niềm tin của gã xà ích bị thiến. Đúng như Chúa đã thử thách niềm tin của Job [1].

Các con chó do bọn trẻ con hư hỏng xịt ra bao vây Ismail để cắn xé. Chó đã kéo cái áo măng-tô nhung xuống, xé tan từng mảnh, và nhiều con đã cắn gã xà ích, Ismail sợ xanh mặt. Chung quanh gã, gã chỉ thấy toàn mõm chó sẵn sàng cắn xé gã. Gã có cây roi trong tay mặt như thường lệ. Để chống cự, đáng lẽ gã phải đánh các con chó. Nhưng điều đó, gã không muốn làm. Vì trái với nguyên tắc tôn giáo của gã. Người Skoptzys đã tự thiến mình, đã tự cắt thịt mình, vì niềm tin, vì tín ngưỡng. Ismail chấp nhận, nếu cần để chứng tỏ niềm tin của gã, cho các con chó cắn vào thịt của gã và xé thịt của gã. Lúc mà Ismail không còn có thể chịu đựng được nữa sự đau đớn, và nhất là sự khủng khiếp, gã đã làm dấu thánh giá và nhắm mắt lại. Chấp nhận cái chết của người chết vì đạo. Đó là cực điểm của sự thử thách, lúc ấy bọn trẻ đã can thiệp và cứu Ismail. Từ ngày hôm ấy, dân chứng ở Agapia kể cả trẻ con, biết rằng niềm tin của Ismail và của người Skoptzys là một cái gì rất nghiêm trọng và rất sâu sắc. Sự kính trọng mà người ta dành cho người Skoptzys là nhất trí. Ngay cả Cha xứ Nikodim của chúng tôi cũng tỏ lòng thán phục họ, mặc dù ngài không chấp nhận cho họ rước Mình Thánh Chúa.

Đàn bà Skoptzys tóc nâu, mắt xanh, da rất trắng, da dẻ tốt tươi như nước vẽ bằng sữa và máu. Đàn bà Skoptzys rất đẹp. Tóc có màu như sáp và thuốc nâu. Khi họ còn trẻ, họ mặc áo dài và đeo khăn choàng màu xanh da trời, như màu mắt của họ, sau ba mươi tuổi, họ chỉ mặc toàn đồ đen. Họ luôn luôn rất sạch sẽ và tươm tất, Hầu như chẳng bao giờ họ nói, và vẻ nhìn của họ giống như vẻ nhìn của các nữ tu.

Nhà cửa của họ sơn trắng, sạch sẽ và ánh sáng mặt trời chiếu vào. Sân nhà họ và đường sá trong khu họ ở đều lát gỗ và được rửa sạch sẽ bằng xà phòng nhiều lần trong ngày. Chuồng ngựa cũng có ánh sáng mặt trời chiếu vào, thoáng khí và sạch sẽ như nhà ở. Yên cương ngựa sáng chói như đai đạn của binh sĩ lúc duyệt binh, vì người Skoptzys đánh bóng yên cương mỗi ngày và làm cho các trang trí bằng đồng sáng chói. Tôi đã nói với ông rằng, từ một thế kỷ nay, từ lúc họ chạy trốn khỏi các hoang nguyên và đi ngang qua xứ sở chúng tôi trên đường tới Tây phương, họ không bao giờ làm một điều gì phạm pháp.

- Nhưng vì sao nhà chức trách lại trừng phạt họ bằng những cực hình như thế, nếu họ không làm điều gì xấu và nếu họ là những công dân hoàn toàn đến thế?

- Đó là một điều bí mật - Cảnh sát trưởng Fillaret đáp - Xã hội dung thứ những dị thuyết và những giáo phái thô bỉ, nhưng đã luôn luôn dìm trong máu và tận diệt những dị thuyết của những người tinh khiết khổ hạnh, thí dụ như của giáo phái Bogomiles hay Cathares thời trung cổ. Hơn nữa, sự ngược đãi của nhà chức trách đối với người Skoptzys là do cách sống bí ẩn của họ. Họ nhiệt tâm dụ người khác theo giáo phái của họ. Họ cám dỗ nhất là những người trai tráng mà họ thúc dục trở thành tự hoạn. Đó là điều mà các nhà chức trách nơi quê quán của họ khẳng định. Tại xứ sở chúng ta chưa bao giờ có sự rắc rối. Điều làm người ta băn khoăn lo ngại là cách sống bí ẩn của họ. Mỗi ngôi nhà người Skoptzys đều có hàng rào hoặc tường cao bao bọc chung quanh, ngôi nhà nghèo nhất cũng được một bức tường cao che khuất, đến nỗi từ ngoài đường người ta không thấy gì cả. Cửa sơn xanh, luôn luôn khóa. Người ta không bao giờ thấy người Skoptzys hay vợ con họ đi dạo ngoài đường. Cái lối thích sống ẩn dật, cô độc, bí mật của họ làm người khác tò mò. Nhưng không bao giờ một người lạ vào trong nhà người Skoptzys. Sau bức tường cao và khóa chặt của họ, không bao giờ người ta nghe tiếng nói, tiếng kêu, tiếng động. Một sự yên tĩnh đầy bí ẩn. Như thể tất cả dân ở trong đó đã đột ngột chết hết. Nhưng bên cạnh mặt yên tĩnh trong đời sống của họ, cũng có mặt bi đát. Sự cắt bỏ bộ phận sinh dục đã làm họ trở thành rất nhạy cảm và dễ bị xúc động. Họ tự kiềm chế. Nhưng cuộc đời họ là một sự khổ đau kinh khủng. Những sự thay đổi thời tiết nhỏ nhất - nhất là gió Fohn cũng làm họ phát điên. Những ngày có gió Fohn họ không thể ăn, cũng không thể ngủ. Họ bèn thức trắng đêm để cầu nguyện và sám hối. Và ngay khi không có gió Fohn, cũng không có thay đổi thời tiết, không có một lý do bên ngoài nào, đôi khi họ cũng rơi trong một trạng thái buồn bã, tuyệt vọng, không có giới hạn. Họ rơi vào đó như vào trong một vực thẳm, một hố không đáy. Và họ không thể thoát ra khỏi. Đó là hình phạt của Chúa, thưa ông thẩm phán. Vì họ đã cố điều chỉnh và cải thiện tạo vật của Chúa, tức là chính thân thể của họ. Con người không thể làm tốt hơn Chúa. Và vì người Skoptzys đã thử làm tốt hơn Chúa nên Chúa trừng phạt họ bằng cách làm cho họ phải chịu đựng những sự ngược đãi khốc liệt của bên ngoài và bên trong thì rơi vào những hố sâu buồn bã, ưu phiền và tuyệt vọng, vào những vực thẳm tối tăm, mù mịt. Còn có những hình phạt nặng nề hơn mà Chúa trừng phạt họ.

- Những tội ác giết người? - Ông thẩm phán hỏi.

- Không bao giờ có tội giết người tại khu người Skoptzys ở! Nhưng tại đó đã xảy ra những bi kịch cũng khủng khiếp như vụ giết người. Cứ hai ba năm một lần, người ta nghe, trong nhà họ và trong khu phố yên tĩnh của họ, những sự ồn ào, huyên náo lớn đến nỗi đánh thức cả thành phố dậy. Tất cả đồn cảnh sát đều báo động. Tất cả đội chữa cháy đều đến các khu người Skoptzys ở. Dân chúng các khu lân cận thức dậy và chạy tới. Sự huyên náo kéo dài suốt đêm. Như một đám cháy lớn. Và nguyên nhân luôn luôn như nhau. Một Skoptzys trẻ tuổi, một trong những trai tráng, bị thiến chưa được bao lâu, nổi cơn làm loạn vì tuyệt vọng. Còn tệ hơn điên khùng, anh chàng Skoptzys nổi loạn ra giữa đường và làm tất cả những gì bị cấm làm. Nó xé quần áo và trần truồng, nó vào các quán nổi tiếng xấu xa và các nhà đáng kính, vì thích thú muốn có mặt tại những nơi tội lỗi. Nó say sưa, nó la hét như một thú hoang bị thương và vấy máu. Nó tự đánh vào thân thể nó. Có tự làm mình bị thương. Nó lăn xuống bùn. Nó tự làm dơ bẩn thân hình nó. Nó đập phá tất cả những gì nó gặp: tủ kính, bàn ghế, xe cộ, bảng hiệu. Nó chống cự để thoát khỏi những người theo bắt nó, và luôn luôn nó thoát được, vì nó không lùi trước bất cứ sự nguy hiểm nào, như một kẻ muốn tự sát. Nó trèo lên mái nha, lên trụ đèn. Nó đeo vào dây điện thoại. Thật cao như một người làm trò xiếc. Nó cởi quần áo, trần truồng ở giữa thành phố. Tôi nói với ông, đó là một cuộc nổi loạn hoàn toàn tuyệt đối. Phụ thêm một sự khao khát dã man tự hủy một cách công khai.

Sau nhiều giờ đuổi bắt, anh chàng Skoptzys nổi loạn bị cảnh sát, lính chữa cháy, và y tá bắt được. Nó bị trấn áp. Thường thường, người ta dùng vũ lực, mặc áo bó cho nó để nó không cựa quậy được. Lập tức cộng đồng người Skoptzys đứng ra bảo lãnh kẻ nổi loạn. Họ chịu trách nhiệm về hành vi của nó. Họ đền tất cả những thiệt hại do nó gây ra. Họ đóng tiền bảo lãnh để nó được tự do, và thanh toán tất cả các món tiền phạt vạ. Toàn thể cộng đồng hùn tiền lại để làm việc đó. Họ đem kẻ nổi loạn về khu họ ở. Sau các bức tường cao. Nó được phép ăn uống, la hét, đập phá. Rồi người ta để cho nó ngủ. Tất cả đèn sáp, đèn dầu, thắp sáng trong các nhà, ở đấy tất cả người Skoptzys thức và cầu nguyện. Sáng hôm sau không ai nhắc lại cho kẻ nổi loạn biết sự gì đã xảy ra. Trái lại, người ta giúp đỡ nó quên tất cả. Hầu hết mọi người Skoptzys, một lúc nào đó đều có trải qua những vụ nổi loạn như thế. Cuộc sống của cộng đồng bắt đầu trở lại như cuộc sống các ngày khác. Nhưng một sự đe dọa được đặt ra, sự đe dọa của một vụ nổi loạn mới.

Tai họa xảy đến một cách đột ngột, một cách không thể nào cưỡng lại được, như những trận hỏa diệm sơn phun lửa. Các cuộc nổi loạn không theo một quy luật nào. Người ta không thể tiên đoán được. Người ta không có kịp thời giờ để ngăn cản. Cũng như người ta tiên đoán các trận động đất. Các cuộc nổi loạn ấy là điều đau đớn lớn nhất và là nhục nhã lớn nhất của cộng đồng tinh khiết người Skoptzys. Những cuộc nổi loạn đã qua và những cuộc nổi loạn sắp tới, tất cả những người trong cộng đồng đều đau khổ, như bị một thiên tai. Đó cũng là một sự trừng phạt của Chúa. Vì rằng, trong những lúc ấy, những kẻ tinh khiết ấy, chúng muốn với bằng các thiên thần, thì lúc này, chúng rơi xuống còn thấp hơn các con heo. Thật ra, đôi khi các con chim phượng hoàng bay thấp hơn các con gà mái, trong lúc các con gà mái không bao giờ bay cao hơn các con chim phượng hoàng. Nhưng đó chỉ là một điều an ủi đối với các con gà mái. Và không phải đối với các con phượng hoàng. Luôn luôn những tội lỗi lớn nhất lại do những người lớn nhất phạm. Đó là một quy luật.

- Đêm hôm ấy, vào lúc xảy ra vụ giết người. Có gió Fohn thổi?

- Một ngọn gió kinh khủng - Cảnh sát trưởng Fillaret đáp - Tôi tin rằng, đó là một đêm mà anh chàng đáng thương Ismail không hề chợp mắt một phút. Ngay đến các thú vật trong thành phố cũng không. Chó sủa, mèo chạy chỗ này đến chỗ khác, như bị ong vò vẽ đốt, và gà trống đã gáy vào những giờ không phải là thường lệ. Tôi đã nói với ông: Fohn, đó là như hơi thở của sự điên loạn, như hơi thở của quỷ sứ.

- Ông cảnh sát trưởng, phải chăng ông nghĩ rằng Ismail đêm ấy đã có thể nổi cơn điên loạn. Vì gió Fohn?

- Ismail luôn luôn bị lên cơn mỗi khi có gió Fohn. Tôi đã nói với ông rồi. Tất cả các người Skoptzys đều chịu một cách đặc biệt hậu quả của gió Fohn. Nhất là ban đêm. Vì hậu quả của gió Fohn ban đêm kinh khủng hơn ban ngày. Bóng tối tăng cường các hậu quả ấy.

- Và phải chăng Ismail đã phạm tội sát nhân?

- Tội sát nhân nào?

- Tội sát nhân trước lâu đài? Phải chăng Ismail đã giết Tuniade Con?

- Gần nạn nhân chỉ có Ismail. Chính nó đã mang xác nạn nhân vào lâu đài. Chính nó là người đầu tiên trông thấy người chết. Chính Ismail đã báo động. Người bị tình nghi chính, đó là Ismail.

- Ông quên rằng tên sát nhân đã chạy về phía rừng, bà Patricia đã bắn tên sát nhân.

- Chính Ismail nói rằng có một người chạy về phía rừng. Chúng ta không có một bằng chứng nào chứng tỏ rằng, quả thật có một người đã chạy trốn từ lâu đài. Chỉ có Ismail nói tới điều đó. Không có dấu vết. Những gì bà Patricia có thể thấy hay không thấy trong lúc tâm hồn bấn loạn thì không đáng kể. Ismail đã nói với bà ta, trong đêm tối “Bà, tên sát nhân kìa!” Và người đàn bà đáng thương ấy, hoảng hốt đã thấy một cái bóng và đã bắn theo. Nếu là một con người bằng xương bằng thịt, bà Patricia đã giết được nó rồi. Bà không bao giờ bắn trật một mục tiêu. Nếu bà Patricia Tuniade đã không bắn chết tên sát nhân, đơn giản là chỉ vì không có tên ấy.

- Không bao giờ một Skoptzys phạm tội giết người - Cảnh sát trưởng Fillaret nói - Ngay cả trong cơn điên loạn, không bao giờ một Skoptzys làm hại một con người hay một con vật. Ismail không thể phạm tội sát nhân. Dù bị ảnh hưởng của gió Fohn.

- Cảnh sát trưởng, chính ông đã nói rằng đôi khi phượng hoàng bay thấp hơn gà mái... rằng những tội ác lớn nhất là do những người tinh khiết nhất phạm. Ismail là kẻ bị tình nghi chính. Hơn nữa nó thuộc một tà phái rất nguy hiểm, những người nguy hiểm nhất là những kẻ thử vượt lên trên đấng tạo hóa như Lucifer. Icare, Faust Prométhée, tất cả những kẻ hèn mọn muốn làm siêu nhân và địch thủ của Chúa ấy. Là những tên phạm tội nguy hiểm nhất. Người siêu nhân và người Chúa hay người thần, tự bản thân, đã là một tội lỗi. Một trọng tội. Theo tôi Ismail là tên bị tình nghi số một. Nó đã bị Tuniade làm cho nổi xung, và nó đã giết cậu ta, một cách không cần lấy tiền công. Tên sát nhân, là Ismail.

Trước cửa pháp đình. Những vụ tuyết lớn rơi xuống trên người gã xà ích. Ismail kẻ tự hoạn, ngồi đợi trong chiếc xe tuyết, như trên một đế tượng. Nó đợi, từ sáng nay, người ta nghi nó đã giết người. Và nó ngạc nhiên sao ông thẩm phán không yêu cầu nó biện bạch.

Chú thích:

[1] Theo thánh kinh Job là một nhân vật giàu sang quyền quý nổi tiếng vì lòng kính Chúa và tính nhẫn nhục. Chúa cho Satan thử thách đức độ ấy. Tức thời Job trở nên khổ cực chịu đựng mọi thứ khổ đau trong cảnh bần hàn khổ đau, bị vợ hành hạ, chúng bạn chê cười. Job vẫn một lòng kính chúa. (N.D).