- XVII - Tìm ra tên sát nhân- -
Mười hai giờ đã trôi qua từ lúc xảy ra vụ ám sát Antoine Tuniade. Bây giờ đã một giờ chiều. Ngày thứ sáu đầu tiên của tháng ba, không một giả thiết nào đứng vững. Cuộc điều tra giậm chân tại chỗ. Không một ai đã cho ông thẩm phán trẻ một điều chỉ dẫn bổ ích nào. Hai mươi bốn giờ đã trôi qua kể từ lúc ông nhậm chức thẩm phán hòa giải tại thành phố này. Cosma Damian buồn ngủ. Bà Eudoxia đã dọn cho ông ăn đôi chút. Sau đó bà đã khuyên ông đi ngủ một chút. Sáng nay mới một giờ, người ta đã đánh thức ông dậy, và ông đã đi xe lên lâu đài, đến hiện trường xảy ra vụ ám sát. Từ lúc đó, ông không có lấy một phút nghỉ ngơi.
Ông thẩm phán nằm trong cái giương lớn của ông. Ông mệt mỏi như chưa bao giờ thấy mệt mỏi như thế. Ông nhận thức ra rằng, đó là hậu quả của gió Fohn. Của ngọn gió thẳng đứng nổi tiếng. Khi ngọn gió ấy thổi như bây giờ đây không một cành cây nào lay động. Tất cả đều hình như bất động. Nhưng không vì thế mà ngọn gió ấy là điều không có, nó đè nặng lên đầu người ta, nó từ trên đi xuống, với một thân hình bằng xơ len và hơi nước, như một đám mây. Người ta không nhận thấy nó đi xuống. Chỉ có một điều là người ta thấy khó thở. Trần bầu trời hạ thấp xuống đến nỗi mỗi người cảm thấy sức nặng của nó trên đầu mình, như sức nặng của một cái vung bằng chì. Trời đè nặng lên trên mỗi người. Và ông thẩm phán ngủ thiếp đi một cách nặng nề. Vừa mới chợp mắt, ông đã tỉnh dậy. Có ai đó kêu lớn.
- Thưa ông thẩm phán, người ta đã tìm ra tên sát nhân! Tên sát nhân đã bị bắt!
Đó là bà Eudoxia vào báo tin cho ông thẩm phán.
Bà nói tiếp:
- Tên sát nhân vừa ở trên xe lửa nhảy xuống. Xe lửa mới tới ga cách đây chưa đầy năm phút đồng hồ. Bọn trẻ đã báo cho tôi biết. Tên sát nhân đang bị canh giữ cẩn thận trong phòng giấy của xếp Inimiora. Người ta đang đợi ông thẩm phán ở đấy. Người ta tìm cảnh sát trưởng Fillaret để báo cho ông ta biết tin, nhưng người ta không tìm thấy ông ấy. Ông ấy không có ở văn phòng.
- Nhưng ai đã bắt tên sát nhân, nếu ông cảnh sát trưởng không hay biết gì cả? - Ông thẩm phán hỏi.
- Đó là những người tìm thấy nó - Bà Eudoxia đáp - Ông thẩm phán sẽ thấy.
Tới nhà ga. Ông thẩm phán thấy tụ tập đông người, nhất là trẻ con và đàn bà. Tất cả đều chạy tới để xem mặt tên sát nhân. Nó đang ở trong phòng giấy của trưởng ga. Nó nằm trên giường của ông Inimiora và đắp một cái mền có con dấu của sở hỏa xa, người ta chỉ thấy cái đầu của tên sát nhân. Một cái đầu tròn, da màu gạch, râu dài vài phân, bạc hơn là đen. Trán nhô, như một mỏm đá nằm nghiêng trên một cái hố. Tên sát nhân nhắm mắt, trông chết hơn là ngủ. Trong phòng giấy của ông Inimiora cũng có một người thợ máy hỏa xa, mình mẩy dính đầy than, đen thui, và một ngươi phụ máy, còn trẻ và đang học việc. Cả thợ máy và phụ máy đều là người lạ.
- Đấy là tên sát nhân. - Người thợ máy nói.
Đó là một người thợ, cao gầy, râu quai nón. Đôi mắt đen như những vết than lem luốc trên mặt, trên tay và trên áo quần của ông ta. Anh phụ máy chỉ cho ông thẩm phán tên sát nhân nằm dài trên giường.
Inimiora điện thoại trả lời với cấp trên của ông đã gọi ông đúng vào lúc mà trong phòng giấy nhỏ hẹp của ông đang xảy ra những sự kiện quan trọng dường kia. Trên sân ga, mũi dán vào các ô cửa kính, đám con nít ở thành phố chen nhau. Càng lúc càng đông thêm.
- Làm sao ông biết nó là tên sát nhân? - Ông thẩm phán hỏi - Có phải nó nói với ông không?
- Không - Người thợ máy đáp - nó không hề mở miệng. Nó trông có vẻ chết hơn là sống. Chính ông trưởng ga và người dân ở đây, gã xà ích và bọn trẻ con nhận ra nó. Họ đều quả quyết đó là tên sát nhân. Chúng tôi, chúng tôi là người lạ. Nhưng họ là người ở đây, họ đã nhận ra lập tức.
Ông thẩm phán không hiểu được một cách rõ ràng, làm sao các người ở Agapia biết ai là người đã giết Tuniade con. Đêm qua không một ai đã nói ra một cái tên nào. Ông nổi giận, nhưng ông tự kềm chế. Ông ra lệnh cho người thợ máy kể lại các sự việc đã xảy ra như thế nào.
- Tôi tên là Spiridon. Tôi là tài chiếc tàu hàng mà ông thấy trong ga. Trên đầu xe lửa tôi làm việc với người phụ của tôi mà ông thấy đây. Anh ta có thể khẳng định rằng, tất cả những gì tôi kể với ông là đúng sự thật. Tôi cho tàu chạy rất chậm, giữa mười và hai mươi cây số một giờ mà thôi. Mặc dù đầu xe lửa có một cái gạt tuyết, cũng phải chạy chậm. Và nhất là phải luôn luôn coi chừng tình trạng của đường rầy. Đôi khi người ta gặp những chướng ngại vật mà cái gạt tuyết không thể hất đi được, gặp trường hợp ấy, cả hai chúng tôi phải xuống dùng xẻng để hất tuyết đi. Mười phút trước khi tới ga Agapia, lúc đó đúng một giờ năm phút, tôi thấy trên đường một vệt đen, ở giữa hai đường rầy, trước mặt tôi. Tôi nghĩ rằng đó là một con chó sói hay một con gấu bị thương và nằm chết trong tuyết. Khi tàu dừng lại, tôi nhìn một lần nữa. Người phụ của tôi, Cristofor, cũng có nhìn. Đúng là một vật đen đang nhúc nhích. Chúng tôi cho tàu tới gần, càng gần càng tốt, trong mức có thể được. Con thú bị vùi trong tuyết bây giờ chỉ còn cách xa chúng tôi năm thước, chúng tôi chuẩn bị xuống để đánh chết nó với cái xẻng xúc than. Lúc ấy chúng tôi chắc chắn đó là một con thú. Nhưng chúng tôi không biết là một con gấu, một con heo rừng hay một con thú to lớn nào khác. Vì nó rất to, không thể là một con chó sói hay một con chồn được.
“Một con người” Crisgifor kêu to. Không phải thú vật! Không có lông. Cổ một cái áo măng-tô! Và vì vậy mà chúng tôi đã không nện xẻng xuống trên người bị vùi trong tuyết. Cho đến lúc ấy, chúng tôi đã sẵn sàng nện. Vì chỉ có thể đó là một con thú bị thương, và phải hạ nó trước khi nó vồ chúng tôi. Một con gấu hay một con heo rừng bị thương thì đặc biệt nguy hiểm. Dù bị thương gần chết chúng cũng xé chúng ta ra thành từng mảnh. Vài người bạn của tôi thường thấy trên đường sắt những con thú bị thương. Vì vậy chúng tôi đã sẵn sàng đập, trước khi biết đó là con thú gì. Nhưng chúng tôi đã không đập là nhờ có Cristofor đã đúng lúc thấy đó là một con người. Vậy là chúng tôi đã từ từ đi tới. Nhưng luôn luôn với cái xẻng sẵn sàng nện xuống. Vì không biết đó là loại người nào. Loại người nào mà có thể nằm trên đường sắt, bị vùi trong tuyết? Trên đường đi, người ta có thể tin đây là một người đi bộ gặp tai nạn. Nhưng trên đường sắt, người ta phải cảnh giác. Người kia có thể giả vờ chết để lôi cuốn chúng tôi đến gần mà giết, việc đó thường xảy ra.
“Đây là một hành khách rơi từ trên tàu xuống!” - Critofor đã nói.
- “Chắc như thế”, tôi đã đáp “Bằng không, nó không thể nằm ở đây”. Xa hằng cây số với con đường đi gần nhất. Nó từ “trên tàu rơi xuống”. Và chúng tôi đã ít sợ hơn. Chúng tôi đi tới gần. Nhìn áo quần thì biết đó là một người nghèo khổ và già. Không có áo sơ-mi. Ngay một cái áo thun cũng không. Chúng tôi lập tức nghĩ rằng, đây là một hành khách đi lậu, không có vé, núp trên bậc cấp của toa tàu, để khỏi bị thấy và bị bắt, và đã rơi xuống. Người ta thấy ngay đây là một kẻ không có thể mua vé tàu. Và chúng tôi thấy thương hại. Người nghèo, là như thế, họ cảm thấy lập tức liên đới với nhau. Người giàu, khi họ gặp nhau, họ khêu gợi, họ cảm thấy sự hận thù, sự ganh tị, nhưng người nghèo thì vui lòng thân ái với nhau. Họ là những đứa con của một bà mẹ chung. Những đứa con của Đức Bà nghèo khổ.
Nếu là ban đêm, tôi đã có thể đập chết người ấy rồi, vì tưởng đó là một con thú. Tôi đã đặt cái xẻng xuống bên cạnh người ấy và tôi đã nói với nó:
“Khốn khổ! Mày từ trên tàu rơi xuống phải không? Tàu hành khách chạy qua đây mới một giờ”.
Chỉ có thể đây là một hành khách rơi xuống từ chuyến tàu Nam. Tôi đã hỏi người ấy những gì đã xảy đến cho nó. Nhưng nó không trả lời. Tôi hiểu là nó bị thương nặng và kiệt sức. Không có cách gì làm cho nó nói được. Tôi cúi sát xuống. Nó còn nóng và còn thở. Hơi thở rất yếu. Người lạnh và ấm hơn là nóng. Nhưng còn sống. Tôi hiểu là nếu tôi đến chậm hơn một giờ hay hai giờ nữa, thì tôi thấy nó cúng đờ rồi. Sẵn sàng để bỏ vao một cái áo quan gỗ tùng. Tôi cố lôi nó ra khỏi tuyết. Nhưng khó nhọc lắm. Con người đáng thương, nó nặng hơn tôi năm lần. Ông hãy nhìn kìa, một con voi!... Một tảng đá!... Tôi đã cố trong mười lăm phút đồng hồ mới lôi nó ra được và mang nó lên trên tàu. Nó không nhúc nhích, động đậy. Làm tôi phát sợ. Một cảm giác kỳ cục... Nhưng bây giờ tôi cảm thấy vui lòng vì đã lôi nó ra được khỏi nơi đó. Không phải ngày nào người ta cũng có dịp cứu một mạng người. Tôi còn hãnh diện vô cùng là đằng khác. Vợ tôi và sắp nhỏ con tôi cũng sẽ bằng lòng. Và hãnh diện vì cha chúng nó đã cứu sống một con người.
Thế là người ấy được đặt nằm dài trên đầu máy. Gần bên lửa. Nhưng nó không thể biết là trong này nóng lắm. Chúng tôi cho tàu chạy chậm. Tới Agapia, chúng tôi đã giao nó cho trưởng ga. Chúng tôi không thể đưa nó đi xa hơn, nó gần chết. Nhìn nó, trưởng ga đã kêu lên.
“Đó là tên sát nhân trên lâu đài”.
Ông trưởng ga đã nói với chúng tôi rằng người đàn ông mà chúng tôi đem đến đây là một tên tù khổ sai vượt ngục. Rằng nó đã giết một người với cái rìu cách đây một năm rồi. Và rằng, đêm qua, nó đã giết một người thứ hai. Nhưng tôi tự nhủ rằng dù sao đi nữa thì tôi cũng đã cứu mạng sống một con người. Tù khổ sai hay không thì cũng là một con người. Và tôi lấy làm bằng lòng đã cứu sống nó.
Nhưng tôi băn khoăn. Tôi không ngờ rằng con người khốn khổ này là một tên sát nhân! Sau đó ông trưởng ga đã gọi gã xà ích. Ông ta đã hỏi gã: “Ai đó?... Anh có biết nó không?” Gã xà ích làm dấu thánh giá và gã đã nói: “Đúng là nó. Không sợ lầm lẫn. Đó là Savonarola Mold. Vậy là chính nó đêm qua đã giết Tuniade Con”.
Người ta đã giải thích cho chúng tôi biết, từ lúc một giờ sáng người ta tìm kiếm trong khắp vùng này kẻ đã giết một thanh niên. Và rằng chính chúng tôi đã tìm thấy tên sát nhân ấy!
Thẩm phán, trưởng ga, thợ máy và phụ thợ máy, và tên giết người Sava Mold nằm dài trên giường, đều im lặng.
- Chúng tôi đã làm bổn phận của chúng tôi, bằng cách cứu một người bị vùi trong tuyết, trên đường sắt - Người thợ máy nói tiếp - Đối với chúng tôi, không có vấn đề hỏi người ấy nó là một tên phạm tội đại hình, một tên ăn cắp hay một người lương thiện. Đúng là, chúng tôi cũng có như thế nào ấy khi được biết con người mà chúng tôi đã mang trong đôi cánh tay của chúng tôi như một đứa trẻ đau ốm, là một tên tù khổ sai đã giết người, cách đây mười hai giờ, một người mà máu còn tươi trên bàn tay của nó.
Người thợ máy và người phụ máy nhìn chiếc tàu hàng.
- Chúng tôi có thể đi? - Người thợ máy hỏi - Ông không còn cần đến chúng tôi?
- Ông có thể đi.
Hai người bắt tay tên sát nhân Damian và trưởng ga Inimiora. Họ muốn bắt tay Savonarola nhưng hắn nằm im lìm bất động như chết. Người thợ máy và người phụ máy ra đến sân ga. Ở đó hai người bắt đầu cãi nhau. Nhất là người thợ phụ trẻ giơ tay múa máy. Rồi người thợ máy già gõ cửa và trở vào trong phòng giấy. Một cách rụt rè, ông ta nói:
- Thưa ông thẩm phán, chúng tôi không biết đó là một tên sát nhân ghê gớm. Chúng tôi mới biết được điều ấy ở đây, như tôi đã có nói với ông. Nhưng bây giờ, chúng tôi đã xong bổn phận, chúng tôi có thể rất kính cẩn hỏi ông một điều được không?
- Ông cứ hỏi.
- Có một món tiền thưởng cho những ai bắt được một tên tù khổ sai vượt ngục và một tên sát nhân khét tiếng. Một món tiền thưởng lớn. Với món tiền thưởng ấy, người ta có thể xây ngay một ngôi nhà. Vậy mà chính chúng tôi đã bắt được tên sát nhân.
Ông thẩm phán tái mặt. Người thợ máy nhấn mạnh:
- Người nào bắt được một tên sát nhân, đôi khi nhận được một món tiền thưởng lớn đến nỗi vượt quá tổng số tiền lương đến cuối đời. Tôi đã có thấy trường hợp những cái đầu của các tên sát nhân được treo với cái giá tiền thưởng rất cao. Giá giải thưởng rất cao. Các bảng niêm yết vào báo chí có nói điều ấy. Vậy thì chúng tôi có thể lãnh món tiền thưởng ấy không?... Vì, nói cho cùng, chính chúng tôi là người đã bắt được hắn.
- Đúng, chính các ông - Ông thẩm phán nói - Nhưng về vụ bắt được tên sát nhân này, chính phủ sẽ không trả gì cả. Ít ra là theo sự hiểu biết của tôi.
- Thế cái đầu của hắn không có giá trị gì cả sao? - Thợ phụ trẻ Cristofor hỏi - Có những tên sát nhân có giá trị bằng cả một gia tài. Tất cả mọi người nói ở đây rằng tên sát nhân của chúng tôi là một tên sát nhân khét tiếng. Một tên tù khổ sai chung thân vượt ngục. Vì sao cái đầu của hắn lại không có giá trị gì ca?
- Tôi không biết - Ông thẩm phán nói - Nhưng theo tôi biết, chính phủ không trả gì hết cho cái đầu này. Cũng như các ông đã đem đến một khúc gỗ tìm thấy trên đường sắt. Một giá như thế thôi: không có gì cả. Nhưng các ông hãy để lại địa chỉ. Ngươi ta sẽ gởi đến cho các ông món tiền thưởng nếu như có thưởng. Nhưng điều ấy sẽ làm tôi ngạc nhiên.
Hai nhân viên sở hỏa xa đi ra vẻ bất bình. Họ đã bắt được một tên sát nhân không có giá trị gì hết. Họ không hiểu vì sao nó không có giá trị. Trong lúc những tên sát nhân khác giá trị hằng triệu đồng. Chiếc tàu hàng ì ạch khởi hành, chầm chậm, và cảnh sát trưởng Fillaret thì vừa đi vừa chạy. Bọn trẻ con đã tìm được ông. Chúng đã báo cho ông biết kẻ giết Tuniade Con hiện ở tại nhà ga. Do một tàu chở hàng đem đến.
Tại văn phòng trưởng ga, cảnh sát trưởng Fillaret nhìn con người gần chết, nằm dài trên giường.
- Thưa ông thẩm phán, đúng là nó. - Filaret nói. - Đúng là Savonarola Mold. Đó là tên đã giết Tuniade Cha.
- Và đã giết Tuniade Con. - Ông thẩm phán nói thêm cho đủ câu.
- Chắc vậy. - Cảnh sát trưởng Fillaret nói.
Ông tự đánh vào đầu mình bằng cả hai tay. Ông giận dữ, ông không có thể tự kềm chế được nữa. Ông thét Sava:
- Đồ khốn nạn, chính mày cũng đã giết Tuniade Con đêm qua phải không?
- Ôi Sava đáng thương, Sava khốn khổ! Một lần giết người, một lần sát nhân, không đủ hay sao? - Cảnh sát trưởng Fillaret rên rỉ.
Ông quay lại phía ông thẩm phán:
- Chúng ta đã kết thúc cuộc lùng bắt. Bây giờ vụ ám sát đêm qua là một việc đã thanh toán xong. Chúng ta sẽ gọi bác sĩ Pillat. Bác sĩ sẽ săn sóc tên khốn kiếp này để cho hắn tỉnh lại. Và sau đó chúng ta sẽ nghe lời khai của hắn. Hắn sẽ kể lại bằng cách nào và vì sao hắn vượt ngục, và vì sao hắn đã giết người con, sau khi đã giết người cha. Tên khốn nạn đáng thương! Hai lần giết người! Người cha và người con trong cùng một năm!
Cảnh sát trưởng Fillaret ra khỏi phòng giấy. Đi được vài bước trong tuyết. Trở vào lại. Lớn tiếng nói với trưởng ga.
- Anh, Inimiora, canh giữ hắn. Hãy canh giữ cẩn thận. Để nếu hắn tỉnh lại, hắn không thể giết người một lần thứ ba. Nghe rõ chưa?
- Còng tay hắn lại có tốt hơn không? - Inimiora hỏi.
Những lời ông cảnh sát trưởng vừa nói làm ông trưởng ga hoảng sợ. Ông đã thấy, bằng tưởng tượng, Sava từ nơi giường đứng dậy và bóp cổ, với đôi bàn tay to tướng, liền sau khi ông thẩm phán và ông cảnh sát trưởng ra khỏi phòng giấy.
- Anh cứ còng tay hắn lại, nếu anh muốn - Cảnh sát trưởng Fillaret giận dữ nói - Nếu anh không còng tay, anh hãy cột hắn bằng dây. Hoặc bằng xích. Anh có dây và xích. Tôi, tôi không còng tay người chết, người gần chết. Như Ismail không đặt hàm thiếc vào miệng ngựa. Nhưng anh được tự do làm việc ấy. Anh cứ xoay sở theo khả năng của anh.
Cảnh sát trưởng Fillaret giận dữ đi ra sân ga. Ông nói với ông thẩm phán:
- Thưa ông, người ta sẽ nhốt hắn trong một phòng của pháp đình. Người ta sẽ đặt hắn nằm trên giường. Tôi sẽ phái cảnh sát viên đến đây. Và sẽ cho mời bác sĩ đến. Như vậy, là hợp lệ. Và sau đó sẽ đợi hắn tỉnh lại. Để hắn nói cho chúng ta biết rằng bằng cách nào hắn đã có thể vượt ngục, và làm một điều như thế kia.
Lập tức, cảnh sát trưởng Fillaret nói thêm:
- Nhưng tốt hơn hết là hắn đừng tỉnh lại nữa! Đối với hắn, về tất cả phương diện, tốt hơn hết là qua thế giới bên kia càng sớm càng tốt. Ở đây, hắn không còn làm được gì tốt nữa! Tên khốn kiếp hắn chỉ còn việc cút khỏi trái đất này! Giết người cha và người con, người này sau người kia!
Cảnh sát trưởng Fillaret giận dữ vô cùng. Ông không ngừng nguyền rủa, bất chấp tất cả mọi sự và tất cả mọi người.
- Giết người cha và người con! Hai lần giết trong cùng một năm! Đó chính là tay sai của quỷ sứ. Sava không còn là một con người. Một con người không thể làm điều ấy.
Sau nhà ga, có Ismail ngồi trong chiếc xe trượt tuyết hai ngựa trắng của gã. Ngồi bất động, gã cầu nguyện. Ông cảnh sát trưởng thét.
- Mày hãy vào trong phòng giấy. Hãy mang tên sát nhân lên xe và đưa nó đến pháp đình. Nó gần chết. Hãy cẩn thận khi mang nó.
Sau đó, ông Filaret nói với ông thẩm phán:
- Không cần phái cảnh sát viên đến để mang nó đi. Người chết và sắp chết không cần cảnh sát viên, vì cảnh sát viên không thể ngăn cản chúng trốn sang thế giới bên kia. Nơi duy nhất mà chúng còn có thể tìm được chỗ trú ẩn... Bà Patricia Tuniade khoe rằng trong đời bà, bà không bao giờ bắn trật một phát đạn nào. Đáng lẽ tốt hơn hết là bà bắn trật tất cả các phát đạn khác, và đừng bắn trật phát đạn đêm qua. Bà khoe bắn chết một con chim sẻ đang bay... Đáng lẽ bà phải ngắm thật kỹ đêm qua, khi bà bắn theo Sava với cây ca-ra-bin của bà. Và giết chết tươi nó. Như thế bà đã làm được một việc tốt. Việc tốt đầu tiên mà các người ở lâu đài có thể làm được trên thế gian. Nhưng bà đã không bắn chết nó, như thế là đã loại trừ cho thế gian một tên khốn nạn. Và đã tránh cho chúng ta khỏi phải lục lọi trong những hành vi bẩn thỉu. Chúng ta sắp phải hỏi bằng cách nào và vì sao, đó là một điều vô ích, vì Sava không có khả năng biện giải. Tất cả những gì nó nói sẽ không có giá trị gì. Nó không biết gì cả. Hoàn toàn không biết gì cả. Nó chỉ là một dụng cụ trong lòng bàn tay của quỷ Satan, của ma vương. Chính quỷ sứ đã giết người đêm qua, trước lâu đài. Một con người không thể làm điều đó. Tôi biết rõ Savonarola Mold. Nó không thể phạm tội như thế. Và nó đã làm như thế?... Chính quỷ sứ đã mở cửa ngục, đã xúi giục Sava vượt ngục, đã dẫn nó đến đây, chính quỷ sứ đã giết người bằng bàn tay của Sava. Rõ ràng vụ giết người đêm qua không phải là một việc làm của con người. Đó là việc làm của quỷ sứ. Đó là một tội ác quá quỷ quái để có thể là việc làm của một con người. Nhất là của tên Sava đáng thương.
- Ông yêu mến người đồng châu của ông, địa phương của ông, thành phố của ông đến nỗi ông phủ nhận những sự kiện đích thực nhất và không thể nào phản bác được nhất.
- Nhưng, thưa ông thẩm phán, vùng đất này, bầu trời này, các cây cối này, tôi biết rõ vì chúng là bản thân tôi. Chúng là thể xác tôi và là linh hồn tôi. Không một con người nào chỉ đơn thuần là một thân thể bằng thịt, bằng xương và bằng máu. Không một con người nào có thể sống một cách cô độc một mình, với thịt của mình, xương của mình, máu của mình và linh hồn của mình. Da không phải là một cái rào cản giữa con người và anh em đồng bào của nó trên toàn thế giới, người chết cũng như người sống. Con người là một phần tử trong một tập thể là một phần tử không thể chia cắt của một vùng đất, một vùng dưới bầu trời, của một cộng đồng. Nếu người ta chặt một nhánh cây, toàn thể cây bị tổn thương, tôi biết rằng Sava đã không làm việc ấy. Chính quỷ sứ đã giết người bằng bàn tay của Sava.
- Cảnh sát trưởng, con người không chỉ nhận được một khuôn mặt theo khuôn mẫu của Chúa. Con người cũng còn nhận được của Chúa sự tự do lựa chọn. Luôn luôn con người có thể lựa chọn. Con người có thể làm điều xấu, điều ác, cũng như con người có thể làm điều tốt, điều thiện. Con người làm chỉ tuyệt đối các hành vi của mình.
- Nhưng chính đó là những gì tôi đang nói với ông! Tôi biết sự lựa chọn mà Sava, và tất cả chúng tôi ở đây đã lựa chọn. Vì vậy tôi biết nó không thể giết người. Thế mà nó đã giết người đêm qua. Vì vậy chính là quỷ sứ đã mượn bàn tay nó để giết người. Nhưng người ta không thể bắt quỷ sứ! Cho nên người ta sắp kết án Sava Mold. Nhưng không phải nó phạm tội ấy.