← Quay lại trang sách

- XVIII - Những viên kẹo của tên sát nhân- -

Sava Mold được chở đến pháp đình. Không có nhà lao ở Agapia. Cũng không có bệnh viện. Cũng không có bệnh xá. Người ta đặt Sava nằm trong phòng gần phòng xử án. Người ta cho một cảnh sát viên gác trước cửa. Nhưng đó là việc thừa. Bác sĩ Pillat đến lúc ba giờ chiều, đã săn sóc cho Sava Mold. Bác sĩ đã chích thuốc cho nó và nó đã tỉnh. Bây giờ Sava Mold đang nằm nghỉ trong phòng, giường nệm trắng tinh, nệm của ông thẩm phán.

- Phải gọi Strul, người thợ cạo, để cạo râu cho nó. - Cảnh sát trưởng nói khi vừa mới bước vào trong phòng.

Vì trên chiếc gối trắng là một cái đầu tóc bù xù với một bộ râu rậm như bụi gai, bẩn một cách dễ sợ.

- Phải cạo cái bộ râu bù xù ấy đi. Đây là một con người. Nó đã đi được một quãng đường dài không thể tưởng tượng được trong tuyết, đi ngày đi đêm, để tới được Agapia, xứ sở của nó. Nó hoàn toàn đi bộ, trong tuyết cao đến tận thắt lưng. Trời lạnh ba mươi độ dưới số không. Nó không ăn gì từ khi nó rồi khỏi ngục. Chân tay đều lạnh buốt. Đến mùa xuân, nếu nó còn sống ngón tay, ngón chân, móng tay, móng chân và những mảnh thịt da của nó sẽ rơi xuống từ thân thể nó, như lá khô rơi xuống từ các cây cối. Nhưng không chắc là nó sống sót. Savonarola Mold chết đi có lẽ là điều tốt hơn. Có những tình thế mà cái chết là giải pháp duy nhất. Bác sĩ đã khám thân thể lạnh buốt của Savonarola Mold. Nó đói, kiệt sức với các liều thuốc có chất kích thích do bác sĩ cho, và cố gắng hết sức, nó cũng chỉ có thể làm cho lưỡi cử động được để nói vài tiếng. Sau đó nó mệt như thể nó nhấc những hòn đá nặng, cảnh sát trưởng Filaret, xà ích Ismail và những người dân địa phương tự hỏi, cứu vớt một thân hình mà thế nào cũng sẽ bị chôn vùi dưới một hầm muối thì có ích lợi gì. Đây là một thân hình mà người ta không cần đến. Nhưng ở đây, người ta giữ gìn xác thịt, vì thân xác con người cũng vĩnh cửu như linh hồn. Đã có viết trong Thánh kinh rằng, Chúa sẽ giáng thế lần thứ hai. Và rằng ngày ấy Chúa sẽ trả lại cho mỗi người xác thịt của nó. Vì vậy xác thịt cũng vĩnh cửu, chỉ biến thái mà thôi. Xác thịt sẽ sống lại khi Giê-su giáng thế lần thứ hai. Xác thân con người sẽ phục sinh. Và vì lẽ ấy người ta không khinh khi nó. Và người chết tiếp tục là phần tử của cộng đồng người sống, và sẽ sum họp với người sống ngày Chúa Giê-su giáng thế lần thứ hai. Người ta không phá hủy một thể xác, vì nó còn hữu ích. Vì nó sẽ được phục sinh, dưới một hình thức khác. Và người chết vẫn hiện diện tuy vô hình không thấy, bên cạnh người sống ở nhà thờ trong lúc làm lễ, mồ mả của người chết là nhà ở tạm thời và cũng là phần tử của cộng đồng. Dịp lễ phục sinh và các ngày lễ khác, người ta đi thăm mộ phần, người ta đến với người chết, cũng như người ta đi thăm bà con, bạn bè còn sống.

- Anh là Savonarola Mold phải không? - Ông thẩm phán hỏi.

Một mình ông ngồi trên đầu giương tên sát nhân.

- Đúng. - Sava đáp.

Nó hái nụ cười của ông thẩm phán như hái một trái dâu. Nó cảm thấy nụ cười ấy đúng như nó nếm một trái dâu, vì nó đói khát. Đã một năm rồi, ở dưới các hầm muối, không có ai làm quà cho Sava một nụ cười.

Ông thẩm phán không nhận thức được rằng ông đã cho Sava Mold một món quà, khi nhìn nó và mỉm cười với nó một cách thương hại và thân thiện như với một người bệnh. Ông đưa tay ra bắt tay Mold. Nhưng Mold không thể xiết tay ông thẩm phán được. Bàn tay của Mold lạnh buốt và tê cóng. Như chết.

Sava không thể tin được rằng ông thẩm phán rất trẻ mỉm cười với nó. Nó chờ đợi người ta cho nó một trận đòn. Chửi bới nó, chà đạp nó, như trong lần điều tra nó trước kia. Và kìa, ông thẩm phán đang mỉm cười với nó như với một người bệnh! Điều ấy đối với Sava còn quý hơn một chén trà, một ly sữa nóng và một cái áo nhung. Nó muốn nhắm mắt lại và chết vì nó sung sướng. Vì cái mỉm cười ấy.

- Anh đúng là Sava. - Ông thẩm phán lặp lại.

- Thưa ông, đúng.

- Anh có nghe tôi nói không?

- Thưa ông có.

- Tôi là thẩm phán Damian.

- Salve Domnii. - Sava nói.

Tiếng “Salve” tức là chào của người La Mã, là tiếng mà ông thẩm phán đã nghe các đứa con của Sava Mold nói sáng hôm nay. Và bây giờ chính nó, tên sát nhân, cha của bọn trẻ con dữ dằn như thú hoang kia lại thốt ra tiếng ấy! Khi biết được người trẻ tuổi là thẩm phán. Sava gắng sức để ngồi dậy.

- Anh cứ nằm như thế. - Ông thẩm phán nói.

Đột nhiên Sava xanh mặt. Nó biết rằng người đang ngồi trước mặt nó - người mà nó chỉ còn giữ lại nụ cười là một thẩm phán. Và những tiếng “thẩm phán, cảnh sát, cai tù” làm nó sợ. Vì tiếng “thẩm phán” mà nó xanh mặt mà không biết.

- Sava Mold, anh hãy nghe cho rõ.

- Thưa ông thẩm phán, tôi nghe đây.

- Đừng sợ tôi. Tôi sẽ không làm điều gì hại anh đâu. Anh hiểu không?... Tôi không phải là một tên đao phủ, cũng không phải là một tên cai ngục. Tôi là một điều tra viên, anh hiểu không? Tôi tìm sự thật trong sự việc này cũng như người ta tìm múi chỉ trong một cuộn chỉ rối.

Sava càng lúc càng tái xanh hơn. Sự thể người ta đang ngồi trên ghế gần bên giường nó, là một thẩm phán. Một nhà chức trách, làm cho nó run, làm cho nó băn khoăn lo sợ.

- Ông bạn của ta ơi, anh hãy yên tâm. - Ông thẩm phán nói một cách thân mật.

Không phải vì lòng tốt. Nhưng vì ông còn chưa hoàn toàn là thẩm phán. Ông cư xử như một sinh viên. Như một con người bình thường. Một nghề nghiệp cũng như màu da, lúc mới đầu còn trơn láng và về sau mới có nếp nhăn, đường nhăn. Ông thẩm phán này là một ông thẩm phán mới toanh chưa có những sự nghiêm khắc của nghề nghiệp. Ông lặp lại một cách thân mật: “Ông bạn của ta ơi, anh hãy yên tâm”. Ông để bàn tay lên vai Sava. Vai Sava run, như một vực thẳm mà một thác nước ào ạt sục sôi đã làm nổ tung. Trong lòng ngực của Sava cũng có một thác nước đang sôi sùng sục. Các ngón tay của thẩm phán Damian khi sờ vào vai của tên tù khổ sai hai lần giết người, khám phá ra rằng nó không có áo sơ-mi. Chỉ có một cái áo vét vải tức là áo tù. Và bên ngoài là một cái áo tơi lính đã cũ. Với cái áo vải và cái áo tơi lủng lỗ ấy, tên tù vượt ngục đã đi trong tuyết bốn ngày và bốn đêm mùa đông.

Ông thẩm phán động lòng thương xót.

Sava cảm thấy bàn tay của ông thẩm phán trên vai nó. Không còn là một bàn tay thẩm phán. Một bàn tay trừng trị. Chỉ đơn giản là một bàn tay của một con người thương xót một con người. Từ rất, rất lâu rồi, từ lúc còn nhỏ tuổi, Sava Mold không còn cảm thấy một bàn tay thân thiện đặt trên vai mình. Ngay khi còn nhỏ tuổi cũng vậy! Không bao giờ! Không bao giờ có ai đã để bàn tay lên vai nó một cách nhân ái, một cách thân thiện.

Đôi mắt của tên tù khổ sai giống như đôi mắt của một con gấu bị thương gần chết nhìn người thợ săn. Những tay săn bắn biết rằng trước khi chết, vẻ nhìn của những con hươu, heo rừng và ngay cả chó sói bị thương là những vẻ nhìn đau đớn, tuyệt vọng, nhưng không phải thù hận. Vẻ nhìn của Sava Mold cũng giống như thế. Ông thẩm phán là người thợ săn, săn nó, nhưng Sava không nhìn ông thẩm phán với vẻ hận thù. Đó là cái nhìn của các con thú dữ chết dưới con mắt của người thợ săn.

- Sava, anh kể lại cho tôi nghe đi.

- Kể lại cái gì?

- Hãy kể lại tất cả - Ông thẩm phán nói - Hãy kể lại với tôi các sự việc đã xảy ra như thế nào.

Sava ngậm chặt môi. Ông thẩm phán bèn lặp lại.

- Hãy kể cho tôi nghe đi.

- Nếu tôi kể lại với ông, ông sẽ không tin tôi đâu. - Sava Mold đáp.

- Anh có biết những lời mà anh vừa nói ra là của ai không?

- Đó là những lời nói của tôi - Sava Mold đáp - Tôi đã nói với ông: “Nếu tôi kể lại với ông, ông sẽ không tin tôi đâu”.

Đó là, đúng từng chữ một, những lời của Chúa Giê-su khi bị những kẻ thù của Ngài vây hãm. Những lúc mà thánh Luc ghi chép lại ở những chương thứ hai của Thánh kinh.

- Anh đã trả lời đúng như lời của Chúa Giê-su. Và anh không biết điều đó sao?

- Không, tôi không biết điều đó. Tôi biết rằng ông sẽ không tin tôi, nếu tôi nói sự thật.

- Hãy thử đi, Savonarola. Anh sẽ thấy. Nếu anh nói sự thật, tôi sẽ tin anh.

Thẩm phán Cosma Damian hối tiếc đã nói những lời vừa nói. Ông lừa dối Sava. Chắc chắn ông sẽ tin nó. Nhưng sự kiện tin Sava Mold sẽ không thay đổi chút nào tình thế của nó. Những gì một thẩm phán nghĩ, những gì một thẩm phán tin và những gì thẩm phán cảm thấy, là không có một sự quan trọng nào cả. Một thẩm phán là một người áp dụng một biểu lập thành sẵn tội nào thì có hình phạt xứng đối nấy. Thẩm phán không có ý kiến riêng, quan điểm riêng. Thẩm phán không có công việc gì khác hơn là đòi đúng cái giá phải trả cho tội đã phạm.

Thẩm phán cân với một cái cân, cái cân công lý. Như một người bào chế thuốc. Thẩm phán không cân với lương tâm mình. Cũng không với tình cảm của mình. Cũng không với niềm tin của mình, như các thi sĩ hay như các tu sĩ, không. Thẩm phán làm một công việc máy móc. Thẩm phán Damian tin hay không tin những lời của Sava là điều không có một sự ích lợi thực tế nào cả. Những sự tin cậy ấy, ban phước cho Sava Mold một cách thành thật, là một điều tốt lành cho nó. Sự tin cậy ấy như một vị thuốc có mùi thơm đối với trái tim của người bị săn lùng, của tên sát nhân.

Thẩm phán Damian lặp lại:

- Sava, tôi sẽ tin những gì anh sẽ nói. Anh sẽ thấy. Tôi tin cậy anh trước.

- Thật là khủng khiếp - Sava nói - Ông không biết khủng khiếp đến chừng nào.

Khi Sava Mold nói: “Thật là khủng khiếp”, gương mặt Sava Mold rạng rỡ. Nó sáng lên như thể trước đó có một vật gì che khuất. Sava là một tên khổng lồ. Nhưng thể xác nó hoàn toàn kiệt sức. Đó là một con voi ma-mút. Đúng hơn, phải nói đó là bộ xương của một con voi ma-mút. Thân hình đồ sộ của nó hoàn toàn bị tàn phá. Kiệt sức. Từ Targul Ocna - ở đó có nhà tù khổ sai - cho tới đây, tới địa điểm nơi mà nó ngã xuống, kiệt sức, nó đã đi không ngừng được một hành trình dài đến thế kia, trong tuyết cao đến thế kia, và gần như trần trụi, nhịn đói, chịu lạnh, trời lạnh khủng khiếp, đến mức mà một con ngựa cũng không thể đi được như thế. Sava đã đi bộ ba ngày ba đêm, không ngưng nghỉ. Nó đã đánh bại các kỷ lục. Thành tích của nó là trên sức của con người. Đâu là bí quyết của thành tích kỳ lạ ấy?... Thành tích ấy không thể thực hiện được chỉ với cơ bắp và thịt. Vì lẽ đó mà thành tích ấy không thể là tác phẩm của một con người. Ngựa chạy là nhờ có bắp thịt, gân cốt và trái tim. Nhưng thân hình, cơ bắp và thịt, chỉ là cái vỏ ngoài. Phải có một ý chí để khởi động sự chuyển động. Chính ý chí và tinh thần của Sava đã thực hiện thành tích lạ lùng ấy. Xác thịt được tinh thần nâng đỡ như con ngựa nâng đỡ một vật nặng. Vì vậy mà tinh thần người ta không bao giờ chết. Vì tinh thần có khả năng làm những điều mà thể xác không có khả năng làm được. Thể xác chết. Thể xác mệt mỏi. Thể xác vấp váp. Thể xác tan rã. Tinh thần con người có thể hiện chiến đấu bền bỉ vô cùng. Với sức mạnh của thế gian - Sava đã thoát ra khỏi đáy của hầm muối. Của địa ngục mà không bao giờ một ai có thể thoát ra được mà sống sót. Và Sava đã thành công vượt được một đường dài mà chỉ có những con chim bay mới có thể vượt được. Mùa đông, không một ai từ bên ngoài có thể tới được Agapia qua tuyết; cũng như người ta không thể đi bộ vượt qua biển băng.

Việc ấy, Sava Mold, một tên mù chữ, một tên ngu dốt, một tên sát nhân, đã làm và làm được. Vì tinh thần của con người là vô địch, ngay cả tinh thần của con người mù chữ và ngu dốt cũng thế. Tinh thần có thể vượt qua đại dương, vượt qua những đập nước đá và băng tuyết. Như Moise đã đi bộ qua Biển Đỏ. Như Chúa Giê-su đã đi trên nước.

- Anh hãy kể lại cho tôi nghe - Ông thẩm phán nói.

Chỉ có hai người trong phòng. Không có ai chung quanh họ. Đến viên cảnh sát gác cửa cũng không có.

- Ông muốn tôi kể những gì?

- Tất cả những gì anh có thể kể.

- Thưa ông thẩm phán, tôi không có gì để kể cả.

Thân thể của Sava vui mừng được núp ở trong này. Ở ngoài kia lạnh thấu xương, lạnh như dao cắt vào thịt. Ở trong này, thân thể không còn bị nóng bỏng vì những ngọn lửa trắng của tuyết, tệ hại hơn những ngọn lửa đỏ.

- Hãy kể lại các sự việc đã xảy ra như thế nào. - Ông thẩm phán lặp lại.

- Thật là khủng khiếp. - Sava nói.

Da đầu của Sava bị bỏng vì những ngọn lửa trắng của tuyết và lạnh. Đầu của Sava có màu của những viên gạch nơi các lò sưởi cũ. Đầu của nó không đen thui vì khói mà vì đau khổ. Vì sự đau khổ nhuộm đen con người còn hơn khói và than. Sava lặp lại:

- Thật là khủng khiếp. Tôi không thể nói dối, chính tôi đã giết.

Sava Mold đưa hai cánh tay lên. Nó nói:

- Thưa ông, tôi đã giết với hai cánh tay này. Tôi thường muốn chặt phứt hai cánh tay này và vứt bỏ cho khuất mắt. Nếu hai cánh tay tôi là thủ phạm duy nhất thì tôi đã chặt bỏ lâu rồi. Nhưng, dù tôi có chặt, có bỏ hai cánh tay của tôi đi - điều mà tôi sẵn sàng làm nếu tôi nghĩ rằng điều ấy sẽ rửa tội lỗi và máu - tôi sẽ cũng không được tha tội. Sự xá miễn là không thể có. Tội lỗi không chỉ ở trong đôi tay tôi mà thôi. Tội lỗi ở trong toàn thân tôi. Trong đầu óc tôi. Trong máu huyết tôi. Trong nước miếng tôi. Tội lỗi ở trong mắt tôi. Ở khắp nơi. Tội lỗi đã xâm nhập vào toàn thân tôi và toàn thân tôi là kẻ giết người.

Savonarola Mold rúc đầu vào gối để giấu cái đầu màu gạch ám khói của nó và khóc.

- Lý trí của tôi bị mờ ám, tôi biết thế. Vì đau đớn quá. Sự đau đớn làm lu mờ lý trí còn hơn rượu. Sự đau đớn làm người ta say. Và tôi, tôi đã hoàn toàn say mềm vì đau đớn. Khi ông Tuniade bắt đầu nện cái đoản côn xuống đầu tôi, tôi đã tự nhủ: “Sava, mày hãy cầm cự cho vững! Hãy chịu đựng! Hãy chịu đựng tất cả, không nao núng. Điều cốt yêu là cứu lấy cái rìu. Hãy giữ chặt cái rìu của mày, và chịu đựng trận đòn mà không động đậy. Vì cái rìu, đó là sự sống. Cái rìu đó là bánh mì hàng ngày. Cái rìu đó, là thức ăn của các con mày. Thà chết còn hơn là mất cái rìu... Ngài quan lớn sắp nện đó. Nhưng ngài sẽ mệt mỏi. Điều cốt yếu là mày giữ cho chặt. Chớ buông cái rìu, dù xảy ra sự gì đi nữa. Mày sẽ có một vợ và những đứa con. Và ngài quan lớn sẽ cho mày một trận đồn. Da của mày sẽ tan nát. Nhưng bạn già Sava ơi, da của mày là da của một thằng quê Moldavie. Da của mày sinh ra để chịu nứt ra, toác ra. Vì chịu hậu quả của nắng, của lạnh, của bệnh phung. Của đau đớn... Da của mày sinh ra để chịu tan nát. Vậy mày hãy chịu đựng!” Nhưng tôi đã bắt đầu thấy thấm đòn. Không phải trên da mà ngay trên xương thịt. Đau đớn hơn. Sau đó tôi cảm thấy đau tận xương tủy. Tôi tự nhủ, để tự an ủi: “Sava ơi, thịt không có giá trị lớn lao gì. Thịt có thể hư hỏng, có thể tan rã. Thịt của con người là đồ ăn tương lai của côn trùng. Thịt của con ngươi sẽ thối nát dưới nấm mồ. Mày đừng quan tâm đến thịt. Hãy cầm cự cho vững. Và hãy giữ cái rìu của mày. Đừng giao động”. Và tôi đã cầm cự. Tôi đã không giao động. Khi mà trận đòn thấm đến xương, tôi tự nhủ: “Xương của con người được tạo ra là để chống đỡ thịt. Xương cũng như một cái giá treo áo cho thịt. Nó không quan trọng gì, nếu người ta đập gãy xương mày ra. Giá treo áo không còn giá trị”. Tôi cắn chặt răng vì đau đớn, và tôi tự nhủ: “Xương con người không có giá trị hơn là cái giá treo áo. Mày hãy đừng lo ngại, nếu người ta đập xương mày ra. Bạn già của ta ơi, bạn can đảm của ta ơi, bạn Sava đáng thương của ta ơi, hãy cầm cự cho vững”.

Tôi đã cầm cự. Nhưng rồi tôi cảm thấy những cú đòn vào phía dưới. Ngài quan lớn muốn chà nát tan bộ phận chúng ta dùng để tạo ra những đứa con. Đó là sự đau đớn lớn hơn hết. Đau đớn trong da, đau đớn trong thịt, đau đớn trong xương, đó là những sự đau đớn nhỏ. Khi mà người ta chà nát cái bộ phận sinh dục của tôi, sự đau đớn đã xâm chiếm trí não tôi và làm mờ ám lý trí của tôi. Những đòn giáng vào nơi mà chưa bao giờ bị mặt trời thiêu đốt, tôi không thể chịu đựng các đòn ấy. Và tôi đã ngã xuống ngất xỉu vì đau đớn. Rồi khi lão ta muốn giựt cái rìu của tôi, tôi đã nổi điên. Và tôi đã giết. Tôi đã trở thành một tên giết người.

Đến đây Sava ngừng lại.

- Và sau đó? - Thẩm phán Damian hỏi.

- Sau đó? Tôi đã giết lão ta. Tôi đã bửa đầu lão ta ra. Với cái rìu. Bửa ra từng mảnh. Như người ta bửa một trái dưa.

Sava lấy gối để che mắt. Để khỏi trông thấy cảnh tượng ấy.

- Và bằng cách nào anh đã vượt ngục được? - Thẩm phán Damian hỏi.

Đột nhiên đôi mắt của Sava sáng rực lên. Sáng rực từ bên trong như hai ngọn đèn chiếu.

Nó kể tóm tắt nó đã bị kết án khổ sai như thế nào. Bị đi đày như thế nào. Nó đã nhẫn nhục với số phận như thế nào. Không một hình phạt nào bị nó coi là bất công và quá nặng. Vì nó biết nó là một tên sát nhân.

- Tôi biết rõ rằng hình phạt đích thật của tôi trong các hầm muối không phải là hình phạt đích thật của tôi - Sava nói - Hình phạt đích thật sẽ đến khi Chúa phán quyết. Và tiêu diệt một tạo vật của Chúa, tức là tiêu diệt chính Chúa. Giết một con người chính là giết Chúa. Vì vậy tôi nhẫn nhục. Mỗi ngày tôi bị đánh đập, đói khát, bị chửi rủa. Không một hình phạt nào và không một sự đau đớn nào tôi coi là quá lớn, vì tôi biết rằng tôi là một tên giết người...

Sava Mold ngừng lại và bắt đầu khóc rấm rứt như một đứa trẻ. Với những giọt nước mắt to chảy xuống trên khuôn mặt màu gạch ám khói và xuống trên gối trắng.

- Anh làm sao thế? - Thẩm phán Damian hỏi.

- Ôi! Thưa ông thẩm phán, tôi biết rằng tôi là một thằng nhà quê Moldavie. Rằng người ta không được đòi hỏi gì ở đời khi người ta sinh ra là một thằng nhà quê và là thằng nhà quê ở xứ Moldavie này. Tất cả những gì trên thế gian đều là điều cấm đối với chúng tôi. Ngoại trừ sự đau khổ. Chúng tôi đã quen chịu đựng tất cả mà không nổi dậy. Tôi khẳng định với ông rằng, tôi đã không chống lại hình phạt của tôi. Tôi đã nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Thành thật mà nói, tôi không hối tiếc đã bị kết án phải làm việc nặng nhọc và cực khổ sâu dưới lòng đất cho đến chết. Không bao giờ được thấy mặt trời. Không bao giờ thấy được bầu trời. Không. Tôi đã nhẫn nhục. Và tôi không hối tiếc cuộc sống trên mặt đất. Trong đời tôi, không có gì để tiếc cả. Chỉ có điều là, sau vài tuần lễ ở dưới các hầm muối, tôi bắt đầu nghĩ đến vợ tôi và các con tôi. Chúng bị bỏ lại bơ vơ. Nhưng Chúa đã muốn như thế. Tôi không thể làm gì được. Tôi tự trách mình đã không nuôi vợ con ăn được no, mặc được ấm. Nhưng nghĩ kỹ, tôi thấy là tôi đã không thể cho vợ con tôi ăn nhiều hơn được, mặc ấm hơn được. Tại các nhà dân nghèo chúng tôi, không một đứa trẻ con nào được ăn no, mặc ấm. Vì vậy tôi tự an ủi bằng cách tự nhủ rằng không một tên nhà quê nào ở cái xứ Moldavie này có thể làm hơn đối với vợ con. Nhưng, thưa ông, một đêm, tôi thức giấc, mình mẩy ướt đẫm mồ hôi. Tôi kinh hoàng tự nhủ: “Sava, vì sao mày khắc nghiệt với con cái mày đến thế? Vì sao mày khắc nghiệt với vợ mày đến thế?”. Lần đầu tiên tôi ý thức được rằng tôi chưa bao giờ hôn lên trán các đứa con của tôi. Tôi chưa bao giờ vuốt ve má của chúng. Người nhà quê chúng tôi không có thói quen vuốt ve và hôn hít con cái. Bàn tay chúng tôi thô nhám quá, không thể vuốt ve được. Đời sống chúng tôi khó khăn cực nhọc quá để mà hôn lên trán một đứa con. Ngay cả đến đàn bà chúng tôi, vợ chúng tôi, chúng tôi cũng không bao giờ hôn hít. Những cái hôn của chúng tôi, chúng tôi chỉ dâng cho các tượng thánh mẫu ở nhà thờ, ngày Chúa nhật. Tôi biết tất cả các điều ấy. Cuộc đời chúng tôi là như thế đấy! Tất cả mọi người chúng tôi luôn luôn làm như thế. Nhưng ở dưới kia, dưới đáy các hầm muối, một ý nghĩ giày vò tôi ngày đêm. Tôi cảm thấy có tội vì đã không bao giờ vuốt ve một đứa con nào. Tôi tự nhủ: “Sava đáng thương hại của ta ơi, mày đừng có ngốc, không có lý do gì mày phải tự giày vò về vấn đề này. Mày không có tội. Không một người nào trong đám nhà quê chúng mày vuốt ve con cái bao giờ đâu, hôn hít con cái bao giờ đâu. Bố của mày, cũng không bao giờ đã vuốt ve, hôn hít mày. Ý nghĩ vuốt ve hôn hít con cái không bao giờ lướt qua trong đầu óc một người nhà quê nào. Mày đừng phiền muộn. Cuộc đời ở Petrodava là như thế đó! Một cuộc đời cực nhọc, không có sự âu yếm. Một cuộc đời không có những cái vuốt ve và hôn hít”.

Vừa tự nhủ những điều ấy xong, tôi lại tự giày vò một lần nữa và tự nhủ: “Sava không cần ôm hôn con cái mày, vì không có ai làm như thế. Nhưng thỉnh thoảng - một cái vuốt ve nhẹ nhàng của bàn tay mày - trên má các đứa con mày - như mày vuốt ve các con ngựa hay các con bê, thử hỏi mày không thể cho con cái mày cái đó hay sao?”. Đúng là cái đó, tôi đã có thể cho chúng. Và tôi đã không cho. Không bao giờ cho. Và bây giờ tôi đau khổ. Tôi nhớ lại rằng tôi đã luôn luôn vuốt ve lưng con ngựa của tôi khi tôi vừa mới mua được nó. Tôi đã vuốt ve mồm con bê khi nó mới sinh ra. Tôi đã vuốt ve những con cừu mới đẻ, nhưng tôi không bao giờ vuốt ve các con tôi. Và tôi không thể tha thứ cho tôi điều đó. Cũng như tôi không thể tha thứ cho tôi về tội giết người mà tôi đã phạm. Và những sự giày vò, tự hành hạ mà tôi cảm thấy, vì đã không vuốt ve con cái tôi, còn lớn hơn những sự giày vò, tự hành hạ mình vì đã làm đổ máu một người. Tôi đã nhớ lại rằng tôi thường đánh đập các đứa con của tôi. Mà nào chúng có tội tình gì đâu. Đơn thuần chỉ vì tôi thấy khó chịu trong người. Điều ấy, tôi có thể tự tha thứ cho tôi. Vì đó là điều nằm trong phong tục tập quán. Vì chúng tôi là những con người khắc khổ, cứng cỏi, như núi và như mùa đông. Nhưng tôi tự nhủ: “Mày có sáu đứa con. Mày có bao giờ đem về cho chúng những viên kẹo không? Những viên kẹo chẳng đáng giá là bao... Những viên kẹo vừa túi tiền người nghèo...” Không, không bao giờ tôi mua kẹo cho các con của tôi! Ngay cả những viên kẹo rẻ mạt cũng không. Với tôi, cha tôi có cho tôi kẹo hai hay ba lần. Với các đứa con khác, đôi khi cha chúng cũng có cho chúng kẹo. Còn tôi, tôi không bao giờ đem kẹo về cho các con của tôi. Tôi rất nghèo, nhưng không đến mức không thể mua kẹo cho các con tôi một hay hai lần trong đời. Đó là quyền của con cái. Cái quyền đôi khi được nhận kẹo. Tôi đã không làm bổn phận của tôi. Tôi không thể chịu đựng điều ấy. Có một sự thương yêu trìu mến mà tôi có bổn phận phải có đối với các con của tôi, và tôi đã không cho chúng sự thương yêu trìu mến ấy. Ngay chỉ một lần cũng không. Nếu tôi đã cho chúng chỉ một viên kẹo thì tôi đã có thể tự tha thứ cho mình. Nhưng, không, chỉ một lần cũng không. Không bao giờ. Đó là một trọng tội. Về tội giết lão già Phanariot, tôi biết tôi bị pháp luật trừng phạt. Tôi bị lưu đày vĩnh viễn. Nhưng về trọng tội tôi đã phạm với các con tôi, không một luật pháp nào kết án tôi. Và không một luật pháp nào sẽ kết án tôi. Và có thể ngay cả Chúa cũng sẽ không trừng phạt tôi về tội ấy. Thế mà, đối với tôi, hình như tội ấy còn nặng hơn tội giết người, chính vì nó không bao giờ bị ai trừng phạt. Tôi bị bỏ rơi, tôi không bị luật pháp của Chúa trừng trị về tội tôi đã phạm với các con tôi. Tôi phải tự xét xử và trừng phạt mình. Và điều ấy, thật đau đớn hơn tất cả. Tôi vừa là thủ phạm vừa là quan tòa. Cả hai vai. Tôi không thể hy vọng một sự tha thứ nào từ bên ngoài là xã hội và từ bên trên là Chúa. Và tội lỗi của tôi, tôi không thể chuộc lại được. Tôi bị nhốt dưới các hầm muối. Ngày Chủ nhật, ở căn-tin nhà lao, người ta có bán kẹo và bánh mì. Thấy một người với những viên kẹo cầm nơi tay, tôi không thể nào chịu đựng nổi. Điều ấy làm tôi đau khổ. Về hành vi của tôi, Chúa và loài người không thể tha thứ cho tôi. Tôi không biết bằng cách nào cái ý nghĩ ấy đã đến với tôi, nhưng mỗi Chủ nhật, tôi chạy như một thằng điên đến căn-tin và với vài xu mà chúng tôi nhận được, tôi mua kẹo. Tôi biết rằng tôi sẽ ở lại trong các hầm muối cho đến lúc tôi chết. Tuy vậy, tôi vẫn mua kẹo cho các con tôi. Tôi giấu kẹo trong các lai quần của tôi. Như người ta giấu tiền. Tất cả áo quần tù của tôi đều có kẹo giấu trong đó. Tôi biết rằng tôi không bao giờ có thể gởi các kẹo ấy cho các con tôi. Tôi tự nhủ rằng, tôi điên khi tôi mua kẹo như thế và khâu kẹo vào lai quần như thế. Một hôm tôi tự nhủ: “Sava, mày phải ra khỏi nơi này và đem kẹo về cho các con mày. Đó là sự trừng phạt mà mày phải chịu vì mày đã không bao giờ vuốt ve, hôn hít các con của mày. Mày phải vượt ngục. Mày phải đem các viên kẹo mà mày đã giấu trong áo về cho các con của mày. Chỉ duy nhất để làm việc đó, mày phải vượt ngục. Để chuộc tội của mày đối với các con của mày. Sau đó mày sẽ bị bắt và có thể bị bắn. Nhưng mày sẽ rửa được cái tội đã độc ác với vợ con của mày. Bằng mọi giá. Mày phải về nhà trước khi bị bắt. Mày sẽ vuốt ve chúng. Mày sẽ hôn chúng. Nụ hôn của một người cha. Và như thế hình phạt của mày và nhiệm vụ của mày đã chấm dứt. Tất cả công việc ấy chỉ kéo dài năm phút đồng hồ. Nhưng mày phải vượt ngục và thực hiện công việc ấy”.

- Và sau đó? - Thẩm phán Damian hỏi.

- Gì, sau đó?... Tôi đã bán bánh mì của tôi, xúp của tôi, và tôi đã mua nhiều kẹo hơn, chừng nào mà tôi còn có thể mua được. Tôi đã sửa soạn cuộc vượt ngục của tôi. Chương trình của tôi là ra khỏi nơi ấy. Là chạy tới Agapia. Là đưa kẹo cho các con của tôi, là vuốt ve chúng. Và sau đó là bị bắt đưa về nhà tù khổ sai. Sau một năm, tôi đã thoát ra. Tôi chạy bốn ngày và bốn đêm trong tuyết. Đến gần Agapia, chỉ còn cách nhà của tôi, con cái của tôi vài cây số, tôi đã ngã xuống. Tôi đã đi bộ suốt thời gian ấy trên đường sắt. Cuối cùng tôi không còn có thể đi được nữa. Tôi đã không còn có thể đi được nữa. Tôi đã ngã xuống. Rất gần nhà tôi.

Thẩm phán Damian biết người ta đã tìm thấy kẹo trong quần áo của Sava. Người ta nghĩ rằng Sava đã ăn cắp. Rằng nó đã lấy kẹo để ăn, vì không có gì khác. Đúng là các viên kẹo đã mua được ở căn-tin nhà lao, Sava đã không đụng tới. Mặc dù nó không có gì để ăn, mặc dù nó đã ngã xuống vì đói lả như bác sĩ đã chứng nhận. Kiệt sức vì đói, nó đã không đụng tới một viên kẹo nào. Đó là những viên kẹo để dành cho các con nó.

- Thưa thẩm phán, ông có tin tôi không? - Sava hỏi.

- Sava đáng thương, ta tin anh. - Ông thẩm phán đáp.

- Ông có thể tìm thấy kẹo trong quần áo của tôi.

- Người ta tìm thấy rồi.

- Thưa ông, tôi đã chạy như một con ngựa. Tôi biết rằng sau một thời gian chạy như vậy thì tôi sẽ ngã gục. Nhưng tôi muốn đem kẹo về cho các con của tôi. Đó là điều duy nhất và quan trọng nhất mà tôi ham muốn trong đời.

Đột nhiên sắc mặt của Sava thay đổi. Nó rầu rĩ nói:

- Người ta đã tịch thu các viên kẹo của tôi?

- Không, anh hãy yên tâm. Người ta không thu kẹo của anh đâu.

- Không tịch thu, sao lại lấy kẹo của tôi?

- Người ta không biết đó là kẹo. Người ta muốn xem anh giấu gì trong áo quần của anh.

Thẩm phán Damian đứng dậy. Ông đi vào trong văn phòng và đem những gói giấy báo nho nhỏ, hình cái loa, trong đó có kẹo, đã được tìm thấy khâu vào trong áo quần của tên tù khổ sai.

Gương mặt của Sava sáng rực lên khi nhìn thấy các gói kẹo nho nhỏ mà nó đã để dành suốt một năm trời, dưới các hầm muối. Vì những gói ấy mà nó đã vượt ngục.

- Bây giờ ông đã tin tôi rồi, phải không?

- Tội nghiệp anh, ta tin lời anh... Bây giờ ta đã tin anh, anh có thể tiếp tục.

- Tiếp tục gì?

- Chuyện của anh.

- Không còn chuyện gì nữa - Sava đáp - Tôi đã ngã gục trong tuyết. Và tôi không còn biết gì nữa cả. Tôi biết tôi đã ngã gục khi đã tới rất gần Agapia. Thế là hết.

- Những sự việc ở lâu đài đã xảy ra như thế nào? - Thẩm phán Damian hỏi.

- Tôi đã kể với ông rồi - Sava nói - Lúc tôi điên cuồng vì đau đớn. Đau quá nên mất hết lý trí. Và vì vậy tôi đã hạ thủ.

- Điều ấy, là lúc anh giết Tuniade Cha. Nhưng Tuniade Con đã bị giết đêm qua, trước lâu đài. Anh có biết chuyện ấy...

- Không - Sava đáp - Tôi không biết.

- Không ai có thể giết Tuniade Con ngoài anh.

- Không - Savonarola đáp - Tôi không bao giờ thấy Tuniade Con. Không bao giờ.

- Lúc ban đêm. Người ta có thể giết Tuniade Con mà không thấy rõ cậu ấy.

- Vậy là ông không tin tôi sao? - Savonarola Mold kêu lên tuyệt vọng - Các viên kẹo của tôi không phải là một bằng chứng rằng tôi đã nói sự thật sao?... Các viên kẹo của tôi không làm cho ông tin lời tôi sao?

- Ta tin anh - Ông thẩm phán đáp - Về vấn đề các viên kẹo, ta tin anh. Vấn đề ấy không có tính cách rất thông thường, rất dễ tin là thật, nhưng vẫn có thể có. Chúng ta không nói vấn đề ấy. Điều mà ta muốn hỏi anh, là anh nói cho ta biết vì sao và bằng cách nào, đêm qua, anh đã không giết Tuniade Con.

- Tôi không giết Tuniade Con. Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói cậu ấy bị giết.

- Sava hãy nói với ta sự thật.

- Thưa ông thẩm phán, đó là sự thật. Tôi xin thề. Lấy tất cả những gì quý nhất mà tôi có trên đời để mà thề.

Sava ngừng lại. Đôi mắt nó nhìn đăm đăm vào các gói kẹo nhỏ. Món quà mà nó đem về cho con ấy, là những gì quý nhất mà nó có ở trên đời này. Nhưng nó không lấy kẹo mà thề. Vì vô ích. Người ta không muốn tin điều đó. Thế là hết. Giống như người ta đã không muốn tin Chúa Giê-su. Chúa đã từ chối không nói: “Nếu tôi nói ra điều đó, ông sẽ không tin tôi”. Vì vậy, thì tôi nói điều ấy để làm gì?

- Ta nói với anh một cách tử tế - Thẩm phán Damian nói - Ta rất muốn tin anh. Nhưng có những điều người ta không thể tin được. Đêm vừa rồi, Tuniade Con đã bị giết. Ngoài anh ra không ai có thể giết chết cậu ấy. Anh đã vượt ngục và người ta đã tìm thấy anh tại nơi xảy ra vụ ám sát, ở đây, ở Agapia này. Anh đã giết người cha. Không thể nào không tin rằng anh cũng đã giết người con.

- Tôi không, giết cậu Tuniade. Tôi không bao giờ thấy cậy ấy.

- Anh muốn ta giúp anh không? - Ông thẩm phán đề nghị - Vậy thì, ta tin anh, khi anh nói rằng anh không bao giờ thấy cậu ấy. Anh đã giết một người đêm vừa rồi mà không biết đó là Tuniade Con.

- Không. - Savonarola đáp.

- Anh hãy nghe ta nói, ta muốn giúp anh kể lại. Anh đã vượt ngục. Anh đã đi bộ ba ngày ba đêm, không ăn, không uống, trong thành phố của anh, gần nhà anh. Anh đã đi qua gần lâu đài của gia đình Tuniade. Anh đã rình mò một chút chung quanh lâu đài. Có thể anh muốn lấy cắp một cái gì đó. Có thể anh muốn lấy cắp một cái gì đó để ăn. Vì lý do gì anh có mặt ở lâu đài. Và đột nhiên có một người đi tới trước mặt anh. Một người trông dễ sợ, có vẻ hăm dọa, với cái súng lục cầm sẵn nơi tay. Người ấy đã hỏi anh làm gì trong vườn. Có thể người ấy đã đánh anh. Người ấy đã chụp cổ áo anh. Anh sợ. Anh vùng vẫy và anh cố chạy trốn. Nhưng anh mệt mỏi, kiệt sức. Còn người kia thì trẻ và mạnh. Hắn đã giữ anh lại, hắn đã đánh anh. Có thể hắn đã bắn vài phát súng lục. Đầu tiên, anh chỉ giựt súng lục của hắn để tự vệ. Rồi sau đó, anh đã giết hắn. Anh đã liệng bỏ súng lục và anh đã chạy trốn. Như thế có phải không?

- Tôi không có mặt ở lâu đài. Tôi không có giết ai đêm vừa rồi cả. - Sava đáp.

- Đừng nói dối, vô ích! Sau cùng rồi anh sẽ bị bắt buộc phải nói sự thật.

- Tôi không nói dối. - Savonarola Mold đáp.

Câu trả lời của nó thiếu sức mạnh. Nó nhận thức rằng chối, không có lợi ích gì. Nó hối tiếc đã kể cho ông thẩm phán câu chuyện kỳ diệu về việc nó vượt ngục. Và về cuộc hành trình của nó trong tuyết giá mùa đông. Nó tiếc đã kể những sự việc ấy với ông thẩm phán. Vì ông thẩm phán không tin những sự việc ấy nữa. Sava Mold nhìn ông thẩm phán với vẻ ngờ vực. Vẻ nhìn của nó hoàn toàn giống vẻ nhìn của những con hươu cái bị bắt và nhốt vào chuồng. Con hươu cái bị bắt không thể làm gì được cả. Nó nhìn như Sava Mold. Một vẻ nhìn nhẫn nhục. Đó là vẻ nhìn của tất cả những người dân xứ Mondavie.

Những ông già Moldavie, những người thanh niên, đàn bà, đàn ông và ngay cả trẻ con cũng nhìn như Sava và như các con hươu cái bị bắt nhốt vào chuồng. Trong mắt họ, trước hết có sự nhẫn nhục của những con hươu cái bị bắt. Sau đó là sự ngờ vực. Có chăng là sự hận thù?... Có thể có cả sự hận thù. Nhưng là một sự hận thù nhẫn nhục. Không giống chút nào với sự hận thù thực sự. Họ cảm thấy thứ hận thù mà bản chất hận thù ấy tự biết rằng không thể nào thỏa mãn được trên thế gian này. Ngay cả đến việc thử thỏa mãn hận thù ấy tại đây, trong đời sống trần gian, họ cũng không làm. Đó là sự hận thù gợi ra cho các con nai cái bị bắt bởi những kẻ đã bắt chúng và không dành cho chúng một sự tin cậy nào. Nhưng trong vẻ nhìn của người Moldavie, cũng như trong vẻ nhìn của Savanarola Mold, có thêm một điều không có trong con mắt của những con hươu cái bị bắt. Người Moldavie bày tỏ một cách rõ ràng cho các tên cai tù và các tên ác ôn đã bắt giam nó rằng nó nhẫn nhục, nó chịu phục tùng, nhưng nó không đầu hàng. Nó chắc chắn rằng sự bất công mà nó chịu đựng sẽ được chuộc lại trên trời. Nó chắc chắn rằng công lý sẽ được ban phát bởi vị thẩm phán tối cao ở trên ấy. Tất cả các sự bất công chịu đựng trong lịch sử sẽ được sửa chữa đền bù trong đời sau. Trên thế gian, kẻ thù của người Moldavie quá đông và quá mạnh. Ở đây trên thế gian, người Moldavie sẽ bị đánh bại. Nhưng nó sẽ đấu trận phục thù ở trên trời. Và nó cũng có hy vọng rằng, ngay ở trên thế gian, một ngày nào đó nó sẽ có thể đòi phải được đền bù về những sự bất công mà nó đã chịu đựng. Nó không loại trừ khả năng có một cuộc phục thù ngay trên thế gian này. Cuộc phục thù ấy không cần thiết đối với nó. Nhưng cuộc phục thù ấy có thể xảy ra. Cuộc phục thù ấy không bị loại trừ. Vì máu con người không như tuyết. Tuyết không có trí nhớ, tuyết tha thứ tất cả. Nhưng máu, máu không bao giờ quên bất cứ điều gì. Máu có một trí nhớ bền vững hơn cả những bản khắc trên đá hoa cương các đền đài. Máu đã không bao giờ quên bất cứ điều gì. Sự nổi loạn của tổ tiên luôn luôn được con cháu thực hiện tiếp. Sự bất công gây ra cho cha sẽ do con trả thù. Nếu con chưa có phương tiện để trả thù, thì cháu sẽ làm việc ấy. Nếu cháu chưa rửa hận được, thì đến lượt chắt sẽ làm... Sớm hay muộn, sự bất công sẽ được chuộc lại. Vì mỗi đứa con cháu đều sinh ra với sự tổn thất mà cha ông chúng đã chịu đựng, sự tổn thất ấy được ghi chép trong máu như trong một hồ sơ. Những bất công ghi trong máu của con, của cháu, của chắt, của chiu... sẽ không bao giờ bị xóa đi. Dù cho hằng thế kỷ. Một ngày nào đó, sự bất công sẽ nổi lên trở lại, trên thế gian. Và trên trời. Khắp nơi.

- Anh hãy kể cho ta, bằng cách nào anh đã giết Tuniade Con đêm rồi. - Ông thẩm phán nói.

- Vì sao ông đặt cho tôi những câu hỏi, nếu ông không tin những câu trả lời của tôi?

- Ngoài anh ra, không ai có thể giết Tuniade Con. Người ta đã tìm thấy anh tại nơi án mạng.

Savonarola Mold cắn chặt răng. Như lúc nào mà lão Xa-tơ-ráp Phanariot tàn bạo dùng roi ngựa quất túi bụi vào mặt nó đến toác da mặt. Savamold không còn muốn nói nữa. Nói làm gì vô ích! Như thế nó tự nhủ:

“Nếu tôi nói sự thật, ông cũng sẽ không tin tôi. Tôi đành câm nín. Lời nói của tôi vô ích”.