Chương 2
Tôi nhổm dậy tắt băng cát–xét. Các ngón tay tôi đờ ra tê dại. Trống ngực đánh thình thình, còn miệng thì khô đắng.
Ngửi thấy mùi cà phê, tôi sực nhớ ra bèn chạy vào bếp. Rót đầy cà phê vào một cái tách, tôi trở lại phòng khách tua lại cuộn băng. Khi cuộn băng tua gần xong, tôi vặn nhỏ loa xuống mức bé nhất, rồi ấn nút play. Ruột gan tôi như quặn thắt vì bồn chồn.
Những tiếng kêu lại bắt đầu vang lên. Dù âm lượng rất nhỏ, nhưng âm thanh đó nghe vẫn hết sức kỳ bí. Chắc hẳn ai đó đang đau đớn lắm.
Rồi điệp khúc của đứa bé lại vang lên, thậm chí lần này nghe còn ớn lạnh hơn. Cái chuỗi âm thanh đều đều rền rền ấy khiến tôi liên tưởng đến một gương mặt xám ngoét bờn bợt, đôi mắt hoắm sâu còn cái miệng nhỏ liên tục mấp máy: “Tình yêu dối trá, tình yêu dối trá”.
Không hiểu người ta đã làm gì để đến nỗi giọng nói của con người kia trở nên vô hồn, vô cảm như một cái máy. Chắc chắn trước đây tôi đã từng nghe giọng nói này ở đâu đó: có thể là ở một khu nghĩa địa, trong xà lim hay ở một căn hầm nào đó. “Tình yêu dối trá”.
Những lời lẽ này nghe mơ hồ, nhưng quen quá. Tại sao lại như thế chứ?
Tôi ngồi đó bần thần một hồi lâu, cố tập trung vắt óc xem có nhớ được gì không, đến nỗi tách cà phê đã lạnh ngắt tự bao giờ và vẫn còn nguyên. Cuối cùng tôi đứng lên, bật nút mở, lấy cuộn băng ra rồi đem vào thư viện.
Tôi liệng nó vào ngăn kéo cạnh tập hồ sơ vụ Ruthanne – cái ngăn kéo ấy trông cứ như bảo tàng tối tăm của Tiến sĩ Delaware. Tim tôi vẫn đập thình thình. Những tiếng kêu la và cả cái giọng trẻ con đều đều ấy vẫn lởn vởn trong đầu và văng vẳng bên tai tôi. Tôi cảm thấy ngôi nhà quá trống vắng lạnh lẽo.
Robin vẫn chưa có kế hoạch trở về từ Oakaland cho đến ngày thứ sáu. Ít nhất thì nàng cũng không ở nhà để nghe cuộn băng đó.
Bản năng tự vệ cố hữu của tôi lên tiếng.
Trong suốt nhiều năm làm việc cùng nhau, tôi đã nỗ lực hết mình, luôn giành lấy những phần việc khó khăn về mình để có thể đỡ cho cô ấy. Nhưng cuối cùng tôi cũng nhận ra là mình đã dựng lên một hàng rào chắn cao quá mức cần thiết. Vì thế thời gian qua tôi đã để cô ấy cùng chia sẻ những lúc khó khăn.
Nhưng lần này thì không. Không cần thiết để cô ấy nghe chuyện này làm gì.
Tôi thả lỏng người trên ghế đi văng, cứ băn khoăn không hiểu chuyện quái quỷ vừa rồi là gì nữa.
“Tình yêu dối trá...” Tôi phải làm một cái gì đó cho ra nhẽ. Liệu đây có phải là một trò đùa quái đản của kẻ nào đó không? Giọng của đứa trẻ... Tình yêu dối trá... Tôi chắc mười mươi là đã từng nghe câu này ở đâu đó. Tôi lặp đi lặp lại câu nói ấy thật to, cố khơi gợi trí nhớ của mình. Nhưng ngôn từ vẫn lởn vởn trong đầu một cách mơ hồ, nó cứ ri ri ri như tiếng của lũ dơi.
Phải chăng đó là ngôn ngữ tâm lý học, hay một câu trong sách? Nó có vẻ gì đó thuộc lĩnh vực phân tâm học thì phải.
Nhưng tại sao cuộn băng đó lại được gửi cho tôi chứ? Đúng là một câu hỏi ngớ ngẩn, mà nếu có ai hỏi như vậy thì tôi cũng chẳng thể cắt nghĩa nổi để trả lời.
“Tình yêu dối trá...” nghe lời lẽ gần giống như thuyết Frớt chính thống. Melanie Klein đã đưa ra học thuyết về trạng thái tình cảm tốt và xấu của con người. Có phải có kẻ nào đó thích trò đùa quái gở hay một kẻ nghiền Tân học thuyết Frớt chăng?
Tôi tiến đến chỗ mấy cái giá sách, rút ra một cuốn từ điển chuyên về thuật ngữ tâm lý. Chẳng tìm thấy gì hết. Dù tôi đã tra cứu cả đống sách và soát một lô các mục lục. Không hề thấy bất kỳ một đầu mối nào. Trở lại bàn làm việc, đầu óc tôi rối bời.
Chẳng lẽ cuốn băng đó là do một bệnh nhân gửi đến để chọc ghẹo hay chế nhạo tôi vì đã sơ suất gì khi phục vụ họ chăng? Hay nó có liên quan tới vụ gần đây nhất – vụ Donald Dell Wallace. Có lẽ nào trong thời gian ở nhà tù Holson, ông ta đã đâm ra oán hận tôi, coi tôi như kẻ thù, vì thế mà ông ta cố tình tra tấn cái đầu tôi bằng những âm thanh kỳ quái đó?
Gã luật sư của ông ta – cái gã Sherman Bucklear ngớ ngẩn ấy, đã điện cho tôi mấy lần trước khi tôi đến gặp hai cô bé. Gã còn cố thuyết phục tôi rằng Donald là một người cha tận tâm tận lực, hết lòng vì con cái.
– “Bác sĩ ạ, chẳng qua là bà Ruthanne bỏ bê bọn trẻ thôi, chứ ông Donald thì dù bất cứ làm gì ông ấy đều quan tâm tới lũ trẻ.
– Thế ông ta chu cấp cho bọn trẻ những gì nào?
– Thời vận của ông ta quá khó khăn. Nhưng ông ta đã làm tốt nhất những gì có thể cho chúng. Chẳng lẽ điều đó có gì trở ngại cho ông sao. Thưa bác sĩ?
– Tôi vẫn chưa có ý kiến gì cơ mà ông Bucklear.
– Chưa, tất nhiên là chưa, người ta nói ông không nên làm gì cả. Vấn đề là có phải ông sẵn sàng đưa ra ý kiến về vụ này chỉ vì những gì Donald Dell đã gây ra đúng không?
– Tôi sẽ dành thời gian bên mấy đứa nhỏ, con ông ta, rồi sau đó tôi sẽ có ý kiến.
– Bởi vì có nhiều khả năng là thân chủ của tôi sẽ bị hại.
– Bị hại vì ông ta giết vợ mình ư?
– Đúng, chính xác là như vậy bác sĩ ạ, ý tôi như vậy đó. Ông có biết là bất cứ lúc nào tôi cũng có thể gọi chuyên viên của tôi vào cuộc không.
– Thì ông cứ làm tự do thoải mái đi.
– Tôi thấy quá thoải mái là khác. Ông không thấy đây là một quốc gia tự do à. Ông phải cố mà nhớ lấy điều đó chứ.
Các chuyên viên... phải chăng âm mưu thực sự của họ là muốn trả đũa tôi bằng cách đánh một đòn tâm lý, cố làm cho tôi điên lên mà từ bỏ vụ này và dọn đường cho những tay giết thuê của hắn?
Băng nhóm của Donald Dell – “Những Thày Tu Sắt”, từ lâu đã có tiền sử chuyên ăn hiếp, bắt nạt những đối thủ yếu hơn trong các phi vụ buôn bán chất trắng, nhưng bản thân tôi vẫn chưa từng được chứng kiến việc này bao giờ.
Làm sao họ có thể biết là tôi liên tưởng giữa cuộn băng kỳ bí đó và hai cô bé?
Trừ phi đây chỉ là một động thái cảnh báo trong chiến dịch trả đũa. Nếu quả thực như vậy, thì việc làm này quá lộ liễu, vụng về. Hơn nữa, việc Donald Dell đánh rớt chiếc thẻ hội viên tại hiện trường vụ án cũng chẳng chứng tỏ được rằng đó có phải là một mưu mô hay không. Về phần mình, tôi thường hội ý bàn bạc với một chuyên viên riêng của tôi. Khi gọi điện đến đồn cảnh sát phía Tây L.A, tôi được nối máy sang phòng hình sự, tôi hỏi gặp thám tử Sturgis Milo, nhưng Milo không có ở văn phòng, điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Cách đây không lâu, Milo đã bị giáng chức và phải thử thách sáu tháng án treo không lương. Nguyên nhân là do anh ta đã đập bể hàm một tay trung úy đồng tính luyến ái. Chính gã này đã làm tiêu tan sự nghiệp của Milo, vì sau sự vụ đó Milo phải nằm bẹp dí ở nhà, rồi làm một chân thư ký quèn tại Trung tâm Parker. Cục Cảnh sát Los Angeles vẫn không thừa nhận là có những tay sĩ quan đồng tính làm việc trong cơ quan. Chính vì vậy, vụ việc của Milo chẳng khác nào một đòn giáng thẳng vào những tuyên bố hùng hồn nhưng giả tạo ấy. Nhưng Milo vẫn chịu đựng tất cả và cuối cùng anh cũng được trở về với công việc mà anh đam mê – làm thám tử. Giờ đây trở lại với công việc yêu thích, với đường phố quen thuộc, Milo cố phát huy hết khả năng của mình.
– Anh ta có nói khi nào anh ta trở lại không? – Tôi hỏi.
– Không! – Anh ta đáp với cái giọng điệu đàng.
Tôi để lại tên tôi cùng lời nhắn. Anh ta hắng giọng “Ưhừm...” và cúp máy luôn.
Cuối cùng tôi quyết định là sẽ không lo lắng nghĩ ngợi gì nữa, vì điều này cũng chả giải quyết được vấn đề gì.
Thay chiếc áo sơ mi cộc tay, mặc quần soóc và đi đôi giày thể thao vào, tôi túc tắc chạy ra cửa trước, khởi động toàn thân, định bụng sẽ làm một cuốc độ ba mươi phút vì đầu gối tôi đã tê cứng.
Nhảy từng bước xuống bậc thềm, tôi tạt ngang qua bãi đậu xe, qua chỗ vết dầu loang mà xe của bà Everlyn để dò ra.
Ngay khi vừa vòng qua hàng rào bằng gỗ vối, ngăn cách nhà tôi với một lối nhỏ mà đã có từ rất lâu chạy ngoằn ngoèo lên khu Glen, chợt tôi phát hiện thấy có cái gì đó hiện ra lù lù trước mặt tôi rồi dừng lại. Tôi nhìn trừng trừng vào nó.
Ồ, thì ra là một con chó. Nhưng thú thực là tôi chưa từng thấy một con chó nào như vậy. Nó nhỏ nhắn, cao độ ba mươi phân, dài chừng gấp đôi. Bộ lông ngắn màu đen, lại có vện vằn màu vàng. Thân hình nó chắc nịch. Dưới ánh nắng mặt trời, bộ lông nó như bông lên, óng ánh những tia sáng. Nó có bốn cái chân to xù, chiếc cổ vại và ngắn rụt lại, ngực ưỡn ra tròn trịa, còn cái bụng thì móp lép. Cái đầu của nó có vẻ không cân đối với cơ thể, rất to và vuông, mặt dẹt, da nhăn nheo và hàm dưới rủ xuống. Một dòng nước dãi đang từ từ chảy xuống đất từ một bên mõm của nó. Nó vẫn nhìn chòng chọc vào mắt tôi, rồi thu người về như sẵn sàng nhảy bổ vào tôi. Cái đuôi của nó cụt ngủn, chỉ còn lại một mẩu ngắn cũn cỡn. Một con chó đực, đã bị thiến. Tôi trừng mắt nhìn lại con vật, nó khụt khịt mấy tiếng rồi ngoác cái miệng ngáp một cái khoe những chiếc răng to, sắc và trắng lóa. Cái lưỡi nó to bằng quả na, cuộn lên rồi liếm vào cái mõm lục lạc.
Giữa trán nó có một đốm trắng tựa như viên kim cương, ngực nó rung rung, có vẻ tim đập rất mạnh. Quanh cổ nó có một cái vòng da được cuốn vào và ghim lại nhưng không có thẻ đeo.
– Chào anh bạn nhỏ – Tôi lên tiếng.
Mắt con vật có màu nâu nhạt, bất động. Tôi nghĩ có lẽ trong cái vẻ bề ngoài dị thường gớm ghiếc kia là sự ngoan ngoãn hiền lành. Con chó lại ngáp một cái, phơi ra cái ức màu tía. Rồi nó thở hổn hển, mỗi lúc một gấp gáp hơn, nhưng vẫn chôn chân tại chỗ. Nhìn vẻ bề ngoài, con chó hao hao giống loài chó Bun. Từ những thớ thịt quanh mắt cho đến cái ngực căng phồng ưỡn ra đều rất giống. Có vẻ cái nóng đầu thu khiến con vật khó chịu. Nhưng nó không phải là giống chó ỉ, vì cơ thể nó tương đối lớn hơn so với loài chó này. Đôi tai nó dựng đứng giống như tai của loài chó săn Boston. Quả thực nó cũng hơi giống một con Boston. Nhưng thấp lùn và nặng nề hơn nhiều. Có lẽ nó thuộc dòng săn Boston biến thể.
Nhưng biết đâu nó là một giống chó ngoại lai lùn tịt được huấn luyện làm chó nghiệp vụ hoặc là một loài chó nhỏ bị đột biến gien rồi trở nên to lớn thì sao?
Con vật lại ngáp một cái nữa, khịt khịt một cách khó nhọc. Tôi và nó vẫn nhìn nhau không chớp mắt. Bỗng một chú chim bay qua kêu lích chích. Con chó hếch cái đầu ra vẻ lắng nghe trong giây lát rồi lại chằm chặp nhìn tôi. Ánh mắt tinh ranh của nó nhìn tôi đầy cảnh giác. Tôi cảm thấy con vật này khôn ngoan như người vậy.
Con chó liếm mõm, dãi của nó chảy dài rồi rớt xuống vỉa hè. Phì, phì, phì con chó vẫn thở hổn hển.
– Mày khát lắm rồi phải không?
Con chó vẫn bất động.
– Chú mày muốn là bạn hay là thù đây?
Con vật lại nhe nanh ra, nhưng lần này có vẻ muốn cười hơn là gầm gừ. Có Chúa mới biết chắc được điều đó!
Thoáng chút dè chừng, nhưng tôi chợt nghĩ thật là nực cười, tự nhiên lại để cho cái con vật kia cản đường sao. Thậm chí nó còn không nặng quá mươi lăm kilôgam. Giả dụ nếu nó có xông vào tấn công đi nữa, có lẽ chỉ cần một cú đá móc cũng khiến nó bay ra tận Glen cũng nên.
Nghĩ vậy, tôi liền bước một bước, rồi bước nữa... Con chó cũng cố tình bám theo tôi, đầu nó cúi xuống thấp, các lớp cơ chuyển động núng nính, dáng đi của nó hệt như một con báo đang dõi theo con mồi.
Nó vẫn thở khò khè. Tôi dừng bước. Nó vẫn tiếp tục di chuyển.
Tôi co hai tay lên khỏi tầm mõm của nó, bất giác tôi phát hoảng khi nhìn xuống đôi chân trần của mình.
Con vật tiến về phía tôi, đến sát tận chân... rồi dụi đầu vào ống chân tôi. Mặt nó nóng như da luộc. Thậm chí quá nóng và khô ráp, điều này chắc hẳn rất có hại cho sức khỏe của nó. Tôi cúi xuống rồi chạm nhẹ vào đầu nó. Nó khịt khịt mũi và thở ngày một gấp hơn, lưỡi nó thè ra rung rung theo từng nhịp. Tôi từ từ hạ tay xuống rồi vuốt nhẹ lên lưng nó. Nó liếm một vệt dài vào lòng bàn tay tôi. Nhưng da tay tôi vẫn khô róc. Tiếng thở hổn hển của con vật giờ đây đã chuyển sang những tiếng hích hích, như thể nó bị ốm. Nó bỗng rùng mình một cái rồi liếm lên cái mặt khô ráp của mình.
Tôi quỳ một chân xuống, vỗ vỗ lên đầu nó. Dường như tôi còn cảm nhận được cái xương sọ to sụ của nó gồ lên dưới lớp lông bóng mượt. Con chó ngước mắt nhìn tôi như van lơn một điều gì đó. Các thớ cơ quanh hai mắt nó trông như lớp hóa thạch. Còn các đường nét trên khuôn mặt tựa như những đường khảm bất động.
Nguồn nước gần đây nhất là ống thoát nước ra ngoài khu vườn cạnh cái ao. Tôi đứng lên đưa tay làm hiệu chỉ nó ra đó.
– Đi, đi nào chú mày, kẻo chết khát bây giờ.
Con chó căng mắt nhìn ra phía cái ao, nhưng vẫn đứng im tại chỗ. Đầu nó hếch lên, mồm phát ra những tiếng khò khè mỗi lúc một nhanh và bắt đầu có vẻ khó nhọc. Tôi cảm thấy hai chân trước của nó nhúc nhắc. Tôi liền bước ra khu vườn. Nghe tiếng bước chân rón rén, quay đầu lại tôi thấy cu cậu đang ngoan ngoãn theo sau, cách tôi chừng vài bước chân. Nhưng khi tôi mở cánh cổng dẫn vào cái ao, thì con vật chững lại đứng mãi ngoài hàng rào.
Mặc kệ nó, tôi bước vào, nước ao xanh ngắt dưới cái nóng hầm hập, nhưng có vẻ trong hơn. Mấy con cá cảnh đang lờ đờ bơi trong nước. Có hai con nghếch mắt nhìn tôi rồi lại bơi tiếp về phía mép bờ kiếm ăn... có lẽ chúng là những con cá con đã sống sót qua vụ nóng kinh người cách đây hai năm. Giờ thì con nào cũng dài cỡ ba mươi centimét. Một vài con có màu sắc sặc sỡ.
Con chó vẫn đứng đó, nó dõi xuống mặt nước tỏ vẻ cam chịu.
– Thôi nào chú mày.
Tôi cầm cái ống nước lên. Chẳng có gì hết. Tôi liền gỡ cuộn dây kéo căng ra chừng hơn nửa mét rồi mở van. Cái ống cao su kẹp giữa các ngón tay tôi kêu lên ro ro.
– Lại đây, nước cho mày đó.
Con chó nhìn tôi qua lối cổng vào, thở dốc, miệng ngáp ngáp, chân nó như chùn xuống vì kiệt sức. Nhưng nó nhất quyết không chịu nhúc nhích.
– Đi nào... làm sao thế? Mày sợ cái gì, hay mày không khoái đồ biển hả?
Con chó chớp chớp mắt, song vẫn đứng chôn chân. Người nó chỉ khẽ nhúc nhắc.
Cái vòi nước bắt đầu chảy. Tôi liền kéo cái vòi ra ngoài cổng, vừa đi vừa tưới vào các bụi cây.
Con chó vẫn đứng nguyên vị trí, mãi cho đến khi nước chảy cách cái mõm nung núc thịt của nó vài phân, nó mới chịu nghển cổ ra và bắt đầu táp nước bằng lưỡi. Sau đó nó uống oàm oạp. Rồi nó hứng chí lăn kềnh vào vũng nước và tắm. Cái đầu nó lắc tít mù làm nước bắn tung tóe vào người tôi. Rồi nó phình bụng ra, vục mõm xuống làm một chập nữa. Nó uống một lúc khá lâu, uống xong lại lắc tít cái đầu, cứ như nó muốn tắm cho tôi vậy. Sau cùng nó quay lại rồi ngồi xuống.
Khi tôi cất cái vòi nước, rồi trở lại, nó vẫn còn ngồi đó, bệt hai mông xuống đất.
– Giờ thì chú mày muốn gì nữa đây? – Tôi nói.
Nó thong thả tiến đến chỗ tôi, bộ dạng mừng rỡ, dáng đi lắc lư từng bước dài. Như thể muốn làm nũng tôi, nó dụi đầu vào chân tôi rồi giữ nguyên tư thế đó.
Tôi gãi gãi vào hai bên tai nó, thân mình nó bỗng giãn ra, thả lỏng. Dường như nó đang cảm thấy khoan khoái nên cứ để mặc tôi lấy chiếc khăn tay lau từng chỗ trên mặt nó. Khi tôi lau xong, cu cậu khẽ rên lên ưm ửm tỏ vẻ mãn nguyện.
– Lần sau lại đến nhé?
Tôi vuốt ve nó, nó vừa phả hơi vừa dụi đầu vào chân tôi tỏ vẻ hàm ơn.
– Vậy là hết một buổi sáng! – Tôi thở dài.
Con vật cũng khịt khịt. Không lẽ nó biết đáp lời tôi ư?
Tôi thử lại một lần nữa, nhưng lần này tiếng thở dài của tôi chỉ đủ nghe. Nhưng thật bất ngờ con chó đáp lại bằng những tiếng grừm... grừm...
– Mày là người biết tiếp chuyện đấy – Tôi khen nó – Chắc hẳn ai đó vẫn thường chăm sóc, trò chuyện với mày đúng không?
– Grừm... grừm...
– Thế mày đến đây bằng cách nào?
– Grừm... grừm...
Giọng tôi vang vọng, phá tan không gian tĩnh lặng của vùng Glen, nghe như thể những âm thanh ầm ào của dòng thác đang đổ xuống.
Vậy là một buổi sáng đi tong, giải quyết mấy lá thư vớ vẩn và chuyện trò với một chú cẩu lạ hoắc, chấm hết.
Con chó nhìn tôi không chớp mắt, ánh mắt nó tỏ vẻ thân thiện như muốn nói rằng từ nay chúng ta đã là bạn của nhau.
– Mày cứ làm gì tuỳ thích nhé. Bai!
Con vật theo dõi từng cử chỉ của tôi, tôi kéo tấm rèm che của cánh cửa gió; và khi tôi mở cửa chiếc xe, nó liền nhảy tót vào bên trong, cứ như chính nó là chủ nhân của chiếc xe này vậy. Suốt cuộc hành trình kéo dài một giờ rưỡi đồng hồ, nó ngồi ngoan ngoãn, mắt không rời cái cửa sổ; trong khi tôi lái xe chạy lòng vòng qua những hẻm núi, cố tìm xem có tờ cáo thị “Tìm chó lạc” nào đính trên các cây ven đường không, rồi hỏi dò những người hàng xóm mà tôi chưa từng gặp. Chẳng có ai nhận là chủ của nó cả, và cũng chẳng ai nhận ra nó. Chỉ có mỗi một cô bé ở chợ Beverly Glen, lúc tôi hỏi thì đưa ra nhận xét nó là một con chó cộc đuôi và thế là mấy người đi chợ cũng hùa vào tán thành.
Trong lúc ở chợ, tôi đã tranh thủ mua một số hàng tạp hóa cùng với một túi bột nghiền thức ăn gia súc nhỏ.
Về đến nhà con chó chạy tót lên cầu thang bám sau tôi, rồi nó đứng nhìn tôi dỡ mấy món hàng xuống. Tôi đổ gói bột thức ăn vào một cái bát, đặt cạnh một bát nước trên nền bếp. Nhưng con chó vẫn chẳng thèm đoái hoài đến bát thức ăn, nó cứ chạy ra đứng trước cái tủ lạnh và ngắm nghía. Tôi liền rưới một ít nước vào bát bột. Thế mà vẫn không cuốn hút được nó. Nó vẫn ngó lơ cái đuôi cộc cũn cỡn ve vẩy như cố trêu ngươi. Tôi chỉ vào bát bột.
Con chó hích nhẹ đầu vào cánh tủ lạnh rồi ngước lên nhìn tôi như chờ đợi. Tôi mở cánh tủ ra, nó liền chui ngay cái đầu vào bên trong. Tôi lấy tay nắm vào dây đai ở cổ con vật ghìm lại để trừng phạt nó vì tội khảnh ăn, rồi lục tìm ổ bánh mỳ kẹp thịt còn sót lại từ bữa trước.
Con chó nhẩy cẫng lên vuột khỏi tay tôi, nhướn cái mõm lên sát thắt lưng tôi hít hít.
– Ái chà, chú mày sành ăn quá nhỉ?
Tôi bóp vụn ổ bánh vào bát bột và lấy ngón tay trộn đều.
Trong khi tôi còn chưa kịp làm xong, tay vẫn còn ở bát bột, con vật đã sục vào ăn lấy ăn để, nhớt dãi của nó quệt một lớp vào tay tôi nhơn nhớt.
Tôi ngắm nhìn nó ăn một cách ngon lành. Khi bát thức ăn sạch trơn, nó nghếch cái đầu lên nhìn tôi một lát rồi đủng đỉnh đi vào sau bếp, nó vừa đi lòng vòng trong đó vừa hít hít nền nhà.
– Mày muốn gì nữa đây? Món kem tráng miệng nhé!
Con chó xoay xoay mấy vòng, tiến ra cái cửa có vòm mái che bắt đầu húc húc rồi cào cào vào mấy ô ván phía dưới cánh cửa.
– À mày muốn ra ngoài hả? Tôi bật dậy rút chốt cửa. Con chó chạy vụt ra. Tôi nhìn hút theo nó chạy xuống cầu thang, cuối cùng nó tìm đến một chỗ râm mát, êm ái cạnh bụi thông cối và ngồi xuống. Một lát sau cu cậu lại leo lên cầu thang trở lại chỗ tôi với bộ dạng ung dung, đầy mãn nguyện.
– Cám ơn! – Tôi nói.
Nó giương đôi mắt nâu ngây ngô nhìn tôi mãi, đến khi tôi vuốt ve người nó, nó mới thôi. Cu cậu này gớm thật, tôi nghĩ.
Sau đó nó lẽo đẽo theo tôi vào phòng ăn, thu mình nằm xuống cạnh chân tôi. Cái mặt ngộ nghĩnh của nó nghếch lên vẻ như chờ đợi. Tôi liền gãi gãi vào cằm nó, nó ngoặt đầu lại ghếch mõm lên lưng rồi chân trước cào cào cổ. Tôi gãi vào bụng nó, nó khẽ kêu lên ưm ửm ra điều khoái chí. Khi tôi dừng lại không gãi nữa, một chân nó liền ghì lấy tay tôi như thể muốn tôi làm tiếp. Cuối cùng nó lật ngửa người phơi cái bụng ra, rồi lăn ra ngủ. Vừa ngủ hai chân nó giương lên rung rung như chim đang vỗ cánh và ngáy ngon lành. Chắc hẳn ai đó đang cuống lên tìm mày.
Tôi trải rộng tờ báo sáng lên trên mặt bàn. Có rất nhiều lời nhắn về Chó lạc đã được sắp sẵn. Nhưng chẳng hề có con vật nào trong các mục đó có đặc điểm trùng với con chó đang nằm duỗi dài trên sàn nhà kia.
Tôi lấy một số máy điện thoại của phòng Bảo vệ động vật nuôi trên mục “Tin tức” rồi bấm máy. Đầu máy bên kia là một phụ nữ. Tôi kể cho cô ta toàn bộ chuyện về con chó.
– Nghe có vẻ hấp dẫn quá – Cô ta cất lời.
– Cô có biết nó là giống gì không?
– Chẳng cần nhìn tận mắt, tôi cũng có thể đoán đó là một con chó Bun. Có lẽ là một con lai.
– Thế tôi nên làm gì với nó đây?
– Được rồi – Cô ta giải thích – Theo luật pháp thì anh phải cố tìm cách trả nó về với chủ của nó. Nếu bình thường, anh có thể mang nó đến đây và để cho chúng tôi chăm sóc trước khi chủ của nó được tìm thấy, nhưng thật đáng tiếc là hiện giờ chỗ chúng tôi đã quá tải rồi và tôi phải thú thực với anh là nếu tới đây nó sẽ không được chăm sóc kỹ lưỡng như thường lệ.
– Thế cô sẽ làm gì nếu cô tìm thấy một con chó và chẳng ai đến nhận nó cả.
– Rồi... anh biết đấy...
– Nhưng tôi có sự lựa chọn nào khác không?
– Anh có thể đăng quảng cáo trên báo. Đôi khi những trường hợp như của anh, người ta miễn phí quảng cáo đó. Nhưng anh cũng có thể mang nó tới gặp một bác sĩ thú y. Chắc chắn ông ta sẽ không làm gì phiền hà anh đâu.
Tôi gọi điện cho một tờ báo, xin đăng quảng cáo chó lạc. Sau đó tôi lôi cuốn danh bạ điện thoại ra và dò tìm địa chỉ bác sĩ thú y.
Có một bệnh viện dành cho động vật ở Sepuveda gần sân Olympic mà họ quảng cáo là “Trong mọi trường hợp khẩn cấp hãy đến với chúng tôi”.
Tôi để yên cho con chó ngủ chừng một giờ rồi chở nó đi.
*
Bệnh viện là một ngôi nhà cao tầng xây kiểu chung cư bằng xi măng, được sơn màu xanh da trời, nằm giữa một xưởng đúc thép và một cửa hàng quần áo cũ.
Giao thông ở Sepuveda rất lộn xộn nhốn nháo. Vì vậy tôi đem vị khách “không mời mà đến” của tôi vào bằng lối cửa sau. Khi bế nó lên tôi áng chừng nó nặng khoảng hơn chục ký.
Phòng chờ vắng tanh vắng ngắt, chỉ có một ông cụ đội mũ chơi gôn đang vỗ về một con chó chăn cừu dòng Đức to lớn màu trắng. Con chó nằm sõng soài trên tấm bạt lót nền nhà, sơn màu đen. Nước mắt nó túa ra, cơ thể nó run lên từng hồi. Ông cụ vẫn không ngớt vỗ về: “Thôi nào, Rexe, mày sẽ ổn ngay mà”.
Tôi gõ nhẹ vào cánh cửa sổ lắp kính mờ rồi vào đăng ký. Vì không biết tên con chó nên tôi đành lấy tên mình để làm thủ tục. Quãng chừng năm phút sau đó, con Rexe được gọi vào khám. Sau đó một cô gái trạc tuổi sinh viên mở cửa và gọi to:
– Alex đâu?
Con chó Bun của tôi vẫn nằm duỗi trên nền nhà, vừa ngủ vừa ngáy ngon lành. Tôi bế nó lên mang nó vào trong. Nó chợt mở mắt ra, nhưng toàn thân cứ mềm rũ.
– Có chuyện gì với con Alex thế hả chú?
– Chuyện dài lắm – Tôi nói và theo cô gái vào một căn phòng nhỏ bày la liệt các bộ đồ nghề phẫu thuật bằng thép.
Mùi thuốc khử trùng xộc lên mũi khiến tôi nhớ về những vết thương trước đây. Còn con chó vẫn yên lặng.
Ngay sau đó bác sĩ thú y xuất hiện. Đó là một người đàn ông trẻ tuổi, gốc châu Á, tóc húi cua, mặc áo choàng blu xanh. Ông ta vừa mỉm cười vừa lau tay bằng một cái khăn giấy.
– Xin chào, tôi là bác sĩ Uno. Ái chà, một con chó dòng lai Pháp. Loài này hiếm lắm đấy.
– Ông nói gì cơ?
Ông ta bỏ chiếc khăn giấy vào sọt rác.
– Đây là giống chó Bun dòng Pháp.
– Ồ, thế ư?
Ông ta nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
– Thế ông không biết nó là giống gì à?
– Tôi có biết gì đâu, nó lạc vào chỗ tôi mà.
– Thật sao – ông ta thốt lên – ông vừa bắt được một con chó thuộc loại quý hiếm lắm đó. Những anh chàng nhỏ nhắn loài này đắt tiền lắm đấy. Con này có vẻ được liệt vào loại chó giống cực có giá – Ông ta kéo một bên tai nó – Con này được chăm sóc kỹ đấy. Răng của nó cũng vừa được vệ sinh. Tai khá sạch. Vì thường thì những cái tai vểnh lên như thế này là nơi trú ngụ của vô số bụi bẩn... Nhưng thôi, giờ ông hãy cho tôi biết có vấn đề gì với con chó này vậy?
– Ngoại trừ sợ nước ra, còn chẳng có vấn đề gì với nó cả – Tôi đáp.
– Sợ nước à? Sợ thế nào?
Tôi liền thuật lại chuyện con chó tránh không bén mảng ra cái ao ra sao cho ông ta nghe.
– Thật là thú vị! – Ông ta thốt lên – Rất có thể con vật này đã được huấn luyện tự bảo vệ an toàn cho tính mạng mình. Ông biết không, cái giống chó Bun này dễ chết đuối lắm. Vì cái sọ của nó rất to và nặng, nên nếu ngã xuống nước nó sẽ chìm nghỉm như một hòn đá. Hơn thế nữa, khi bị ngã xuống nước, nó thường bị hoảng loạn, nên không đủ tỉnh táo định phương hướng. Một bệnh nhân của tôi đã mất toi hai con cún con giống này cũng vì thế đó. Còn cu cậu này rất khôn ngoan, nó hoàn toàn tỉnh táo khi biết tránh xa cái ao.
– Nhưng nó hiếu động lắm, làm loạn cả nhà tôi lên.
Ông bác sĩ mỉm cười. Tôi tiếp tục câu chuyện một cách hào hứng, như thể tôi mới chính là chủ nhân của con vật vậy.
– Tại sao ông không đặt nó lên cái bàn này và chúng ta chờ xem nó có thể trổ tài gì nữa?
Con chó được khám xét kỹ, tiêm vắc xin và cuối cùng được trao một giấy khám sức khỏe đề loại tốt.
– À thế này nhé, điều cơ bản cần phòng tránh cho nó đó là cảm nóng, đặc biệt là thời tiết bây giờ khi nhiệt độ đang tăng lên, trời rất nóng. Giống chó đầu to loại này rất dễ bị sốc vì nóng.
Nói rồi ông ta đưa cho tôi mấy cuốn sách hướng dẫn chăm sóc chó và nhắc lại lời cảnh báo đó.
– Tất cả như vậy thôi, chúc ông sớm tìm ra chủ nhân của nó.
– Thế ngoài những lời khuyên trên, ông có gợi ý gì giúp tôi không?
– Hãy đăng thông báo lên báo, hoặc nếu chỗ ông có một Câu lạc bộ Người Pháp, thì ông hãy cố bắt quen với họ.
– Xin hỏi, ông có biết câu lạc bộ nào không?
– Ồ xin lỗi, tôi không biết. Chúng tôi hầu như chỉ làm công việc ở phòng cấp cứu thôi. Có lẽ Câu lạc bộ AKC... American Kenel Club ấy mà, họ có thể giúp được ông đấy. Ở đó hầu hết họ đăng ký giống thuần chủng mà.
– Thế họ ở đâu?
– New York.
Vừa bước ra cửa tôi vừa hỏi:
– Nhìn chung giống chó này tính khí cũng thuần đấy chứ?
Ông ta nhìn xuống con chó. Con vật cũng ngước lên nhìn chằm chằm chúng tôi như hóng chuyện, trong khi cái đuôi cộc của nó ngoáy tít mù.
– Theo như cuốn sách tôi vừa đọc, những gì ông hiểu biết về nó như vậy cũng khá nhiều rồi đấy.
– Thế giống chó này có tấn công người không?
– Tấn công á? – Ông bác sĩ cười phá lên – Tôi nghĩ nếu con vật này cứ kè kè bên ông thì nó có thể bảo vệ được ông đó. Vì nhìn nó khối người phải dè chừng. Nhưng ông đừng kỳ vọng vào nó nhé. Loài này không giỏi chuyện đó đâu, chỉ để làm bạn thôi.
– Ồ, lại một điều tôi được mở mang.
– Chắc chắn là thế – Ông ta đáp – Ông thấy thế nào, đó là điểm mấu chốt đúng không?