Chương 3
Tôi lái xe ra khỏi bệnh viện, tay vuốt ve con chó và nghĩ về giọng của đứa trẻ trong cái băng cát–xét. Tôi không thấy đói, nhưng đã đến bữa trưa, phải ăn thôi. Trên phố Sepulveda có một quán hamburger, tôi mua hai lạng. Mùi bánh thơm làm con chó tỉnh giấc, nhỏ dãi suốt dọc đường về. Thi thoảng nó khịt khịt ngửi vào chiếc túi. Vào đến bếp nó cố thuyết phục tôi chia cho nó một phần ba ổ bánh. Tha phần bánh của mình vào góc bếp nó nhai rau ráu và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, mõm tỳ xuống sàn.
Tôi gọi điện đến cơ quan và phát hiện ra Milo đã gọi lại. Lần này anh ấy trả lời Robbery – Homicide.
– Sturgis đây. Có gì tiến triển không, Joe Friday thế nào rồi?
Tôi nói với anh ấy về cuốn băng.
– Có lẽ đó chỉ là trò đùa, nhưng cũng thử nghĩ xem sao lại bắt đứa trẻ làm thế.
Tôi nghĩ anh ấy sắp tìm ra lối thoát nhưng anh ấy chỉ nói:
– “Tình yêu dối trá” phải không, thật kỳ quặc.
– Đó là cái gì?
– Những lời trong hộp nhạc tìm thấy mấy tháng trước đây. Anh có nhớ vụ một công nhân bị giết ở trung tâm y tế không? Tên cô ta là Rebeca Basille?
– Đó chỉ là tin tức.
Tôi nói và nhớ lại tiêu đề và bản tin ngắn cùng tấm ảnh chụp một người phụ nữ trẻ đẹp, tóc đen bị giết trong một căn phòng trị liệu cách âm.
– Anh chưa bao giờ nói với tôi vụ đó là của anh...
– Không phải vụ của ai cả vì ban thanh tra không được báo cáo, vì gã tâm thần đâm cô gái đã chết khi đang tìm hiểu về nạn nhân tiếp theo.
– Tôi còn nhớ.
– Tôi bị mắc khi xem xét giấy tờ.
– Thế “tình yêu dối trá” được nói ra sao?
– Gã tâm thần gào lên bốn từ đó khi dồn theo Becky để đâm cô ta. Bà giám đốc trung tâm đang đứng ngoài tiền sảnh nghe thấy tiếng hét trước khi bà ta chạy vào văn phòng để trốn. Tôi cho rằng đó là lời khai của một kẻ tâm thần.
– Có thể đó là một thuật ngữ tâm thần học anh ta nghe được ở đâu đó trong bệnh viện tâm thần. Tôi nghĩ tôi cũng đã nghe thấy từ đó rồi nhưng chẳng nhớ là ở đâu cả.
– Có thể như vậy – Anh ấy nói – Nhưng một đứa bé ư?
– Phải! Một đứa bé giọng đều đều kỳ lạ. Có thể nó có liên quan gì đó đến vụ của tôi, Milo. Hãy nhớ lại hồ sơ anh chuyển cho tôi về người phụ nữ bị chồng giết?
– Người đi xe đạp ư?
– Anh ta bị nhốt sáu tháng. Hai tháng trước đây anh ta yêu cầu được thăm con gái. Thời gian này trùng với khoảng thời gian Basille bị giết. Thử nghĩ một chút xem. Tiếng kẻ giết Becky hét “tình yêu dối trá” lọt vào bản tin, tôi đoán có thể anh ta đã nghe thấy từ này và dùng nó trong những vụ sau.
– Có thể là một lời đe dọa. Điều đó có gợi lại cho anh về chuyện gì đã xảy ra với các nhà trị liệu, những người không điều khiển được mình không?
– Chính xác. Chẳng có tội ác nào ở đó cả. Chỉ là gửi đến một cuộn băng cát–xét mà thôi.
– Chắc không phải là từ cửa hàng hắn ta mua bim bim rồi. Nhưng làm thế nào mà hắn ta gợi cho anh chắp nối chi tiết chứ?
– Tôi cũng không biết trừ khi đó là món rượu khai vị, từ đó tôi chắp nối lại.
– Thế gã khốn đó tên gì? Anh có thể nhắc lại được không?
– Donald Dell Wallace.
Anh ấy nhắc lại và nói:
– Tôi vẫn chưa đọc hồ sơ vì không muốn vụ này ảnh hưởng đến vụ của tôi.
– Hắn ta thường ra ngoài với một gã đi xe đạp có biệt danh là Thầy Tu Sắt. Khi ở tù hắn làm việc như một thợ sửa xe máy, đặc biệt là điều chỉnh về tốc độ. Tôi nghĩ chắc hắn ta là thành viên của Câu lạc bộ anh em nhà Aryan.
– À có thông tin cho anh đấy. Để xem tôi đã tìm thấy gì nào?
– Anh nghĩ đó là điều làm tôi lo lắng ư?
– Không hẳn là thế, nhưng anh cũng nên nghĩ đến việc khóa cửa lại.
– Tôi đã thực hiện rồi.
– Xin chúc mừng. Tối nay anh có về nhà không?
– Có.
– Thế còn Robin?
– Tốt cả. Cô ấy đang dự hội thảo về đàn luýt thời trung cổ ở Oakland.
– Đứa bé thật thông minh. Được rồi, tôi sẽ điều tra đối tượng bị đe dọa để cứu anh khỏi cảnh mai danh ẩn tích. Nếu anh muốn tôi sẽ lấy vân tay trên cuốn băng. Nếu đúng là hắn ta, tôi sẽ báo cho chủ của hắn hoặc nhẹ nhất cũng cho anh ta biết cậu không bỏ qua trường hợp này.
– Tốt rồi. Cảm ơn anh nhiều!
– Được rồi... Đừng có động vào nó nữa nhé. Nhựa cứng là thứ bảo vệ tốt đấy. “Tình yêu dối trá”, nghe cứ như là trong phim khoa học giả tưởng ấy.
– Tôi không thấy từ nào giống như vậy trong những cuốn sách tâm thần học ở nhà tôi cả. Có lẽ kẻ giết Becky đã nghe thấy trong phim ảnh. Có lẽ là như vậy thật. Tất cả chúng ta đều như trẻ con trước màn ảnh nhỏ. Cuốn băng được gửi từ Terminal Annex chứ không phải là từ Folsom. Có nghĩa là nếu Wallace đứng sau vụ này thì chắc chắn phải có kẻ giúp hắn.
– Tôi sẽ điều tra đồng bọn của hắn. Ít nhất cũng là những kẻ có dính líu đến cuốn băng. Anh cũng chẳng cần phải mất ngủ về chuyện này làm gì. Tôi sẽ xem xét đến khoảng tám giờ. Trong lúc đó thì anh nên quay lại với vụ giết người đó đi.
– Những chậu máu đó ư?
– Phải, những chiếc chậu lớn bắn đầy máu. Mỗi buổi sáng thức giấc tôi đều cầu nguyện và ơn Chúa vì sự bất công mà Chúa đã ban, tại sao cứ phải làm đúng như thế nhỉ?
– Này! – Tôi nói – Anh yêu công việc của mình mà.
– Đúng vậy – Anh ấy nói – Tất nhiên là vậy rồi. Mất chức cũng chẳng thay đổi được gì.
– Cơ quan đối với anh vẫn tốt chứ?
– Đừng để chuyện bẩn thỉu đó xen vào giữa công việc tuyệt vời của tôi. Cơ quan làm ra vẻ bao dung với tôi lắm vì họ nghĩ họ làm tôi bị tổn thương sau vụ cắt lương. Cuối cùng tôi sẽ phải đầu hàng và bị vô hiệu như những kẻ hám tiền khác. Trên thực tế một đêm làm thêm có thể kiếm được nhiều hơn lại không phải lẩn tránh. Thực ra tôi cũng là kẻ ngược đời.
– Họ không theo dõi anh sao?
– Không! Thế họ mới là những người quản lý chứ.
Sau khi anh ấy gác máy tôi gọi cho Evelyn Rodriguez ở Sunland. Chuông reo, tôi hình dung ra người đàn ông và đứa con gái nhỏ đang chơi với một chiếc máy ghi âm trong căn phòng nhỏ của mình.
Không có tín hiệu trả lời. Tôi gác máy.
Tôi nghĩ đến Rebeca Basille, bị đánh cho đến chết trong một căn phòng cách âm. Cái chết của cô thật sự làm tôi cũng như nhiều nhà trị liệu khác phải đau đầu. Thế nhưng có lúc tôi đã quên vụ này nếu không có Milo gợi lại.
Tôi đấm mạnh xuống quầy hàng. Con chó ngẩng lên khỏi cái bát đã sạch nhẵn và nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi đã quên mất là nó đang ở đây.
Chuyện gì xảy ra nếu những nhà trị liệu không điều khiển được chính mình...
Nếu Wallace không liên quan gì đến cuốn băng thì sao? Hay một người nào đó, có lẽ tôi đã từng biết, có dính líu?
Tôi vào thư viện. Con chó cũng đi theo. Chiếc tủ đứng đã đầy chặt hồ sơ bệnh án sắp xếp lộn xộn không theo trật tự ABC, vì có một số bệnh nhân phải điều trị thành nhiều đợt.
Tôi bật đài nghe tiểu sử bệnh nhân và bắt đầu xem hồ sơ từ vần A, để tìm những đứa trẻ tôi đã đánh dấu có xu hướng tâm thần hoặc chống đối xã hội. Thế nhưng, tôi vẫn chẳng tìm được gì, trong người cảm thấy mệt mỏi vô cùng.
Đọc nửa đống hồ sơ, cả đống tiểu sử bệnh nhân mà chẳng tìm thấy gì. Đến cuối buổi chiều mắt tôi nhức nhối, tôi cảm thấy kiệt sức. Tôi ngừng đọc. Tiếng con chó ngủ ngáy át cả tiếng nhạc. Tôi cúi xuống bóp mạnh vào cơ cổ chú chó Bun. Nó rùng mình co rúm lại nhưng vẫn còn ngái ngủ. Trên bàn đặt một số biểu đồ hình quạt. Nếu phát hiện ra điều gì khả quan trong hồ sơ thì tôi cũng chẳng thể nào bàn với Milo được.
Tôi quay lại bếp, cắt một miếng thịt, lấy nước uống và ngắm nhìn “anh bạn” của tôi khịt mũi chạy vòng quanh. Tôi mở cửa ngách, nó lao xuống cầu thang.
Khi con chó đã đi ra tôi lại gọi điện đến cho Robin ở khách sạn Oakland nhưng nàng vẫn chưa về.
Con chó quay lại. Hai chúng tôi sang phòng khách xem bản tin. Những tin tức mới nhất chẳng có gì hấp dẫn cả, nhưng dường như con chó cũng chẳng thèm bận tâm.
*
Tám giờ ba mươi phút, chuông cửa reo. Con chó không sủa nhưng dỏng tai nghe ngóng. Nó kéo tôi về phía cửa rồi ngồi yên dưới chân tôi khi tôi ghé mắt nhìn qua lỗ cửa.
– Cảnh sát đây! Mở cửa ra nếu không tôi sẽ bắn đấy.
Milo nhe răng giống như khuôn mặt kinh dị của Hallowen. Tôi mở cửa. Anh ấy bước vào mang theo một chiếc vali, ăn vận chỉnh tề như người đi làm. Bên ngoài anh mặc chiếc áo gió chùng màu xanh da trời, áo choàng rộng. Bên trong là áo ghilê trắng ôm sát eo, cà vạt xanh xám thắt hờ hững, đôi giày cao cổ đóng bằng da lộn đã hết xi.
Anh ấy vừa mới cắt tóc. Hai bên và sau gáy rất ngắn, trên đỉnh lại để dài, đánh rối, tóc mai rủ xuống tận rái tai. Trông anh ấy giống hệt một gã nông dân quê mùa ở thập kỷ năm mươi. Tôi cược rằng Milo chẳng thèm quan tâm đến sự thay đổi này. Lọn tóc đen trên trán rủ xuống tạo thành một vệt xám mờ. Đôi mắt xanh của anh ấy rực sáng. Có vẻ như anh ấy lại lên cân. Bây giờ cái cơ thể cao một mét chín của anh phải tải đến chín mươi sáu kilô.
Anh nhìn chằm chằm vào con chó.
– Cái gì thế này?
– Không có gì cả. Nó theo tôi về nhà ấy mà. Tôi có thể giữ nó lại chứ.
Con chó nhìn anh ấy, gầm gừ.
– Phải rồi, tao cũng chán ngấy rồi đây – Anh ta nói với con chó.
– Chuyện quái quỷ gì thế này Alex?
– Một con chó Bun Pháp – Tôi nói – ông bác sĩ thú y nói nó rất hiếm và đắt đấy. Nó khôn như người vậy!
– Như người à! – Anh ấy lắc đầu – Anh không nói quá đấy chứ!
– Cũng như cách của anh thôi mà, rất hợp nhau đấy!
Anh ấy nhíu mày, vỗ vỗ con chó đầy hào hứng.
– Cũng tuyệt! – Vừa nói anh ấy vừa chùi tay vào áo khoác, rồi nhìn sang phía tôi.
– Tôi chắc là vậy vì sáng nay nó mới đến mà. Tôi cũng đã cố tìm chủ của nó, đã đăng tin trên báo rồi. Ông bác sĩ thú y nói sẽ để mắt đến nó. Nếu chẳng ai kêu ca gì thì đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
– Đột nhiên tôi nghĩ cuốn băng này chỉ là chuyện nhảm nhí.
– Thế ư? – Tôi cười, nhớ lại câu chuyện hài hước của bác sĩ Uno.
– Tôi không nghĩ vậy?
– Này – Anh ấy nói – Đôi khi tội ác lại bắt nguồn từ những thứ rất nhỏ bé. Theo như những gì tôi biết thì con chó của anh được huấn luyện để đi nhảy đực đấy!
Con chó đứng bằng hai chân sau, chân trước chạm vào quần Milo.
– Đứng xuống đi Rover – Anh ấy nói.
– Chuyện gì thế? Anh không thích động vật à?
– Chết tiệt thật. Có chứ. Thế tên nó là Didja à?
Tôi lắc đầu.
– Thế thì tên là Rover vậy! – Anh ấy cởi áo khoác, vắt lên thành ghế – Đây là những điều tôi được biết về Wallace. Chẳng có gì nhiều trong hồ sơ cả. Anh ta có quan hệ thế nào đó với Câu lạc bộ – Anh em nhà Aryan, nhưng không phải là thành viên chính thức. Theo những thứ mà anh ta có trong phòng, tôi không dám nói chắc. Được rồi, thế cuốn băng minh chứng đâu?
– Trong máy quay băng.
Anh ấy đến bên máy quay băng và ấn nút. Con chó cũng đi theo anh ấy.
– Mày biết mẩu thịt này ở đâu chứ? – Tôi nói.
Con chó ngẩng đầu liếm vào tay tôi.
Tiếng kêu thét trong băng nổi lên, làm đám lông dưới ức con chó dựng ngược.
Nghe đến lần thứ ba con chó phản ứng quyết liệt. Khuôn mặt của Milo cũng biến đổi đáng sợ khi những âm thanh cuối cùng của cuốn băng tắt. Tuy nhiên anh ấy chẳng nói gì với tôi cả. Anh ấy xách chiếc vali đến bàn, mở nó ra và bắt đầu xem xét cuộn băng. Sau đó anh ấy đút chiếc bút chì vào một lỗ răng cưa và quay.
– Chỉ thấy màu đen thôi – Anh ấy nói – Thử với màu trắng xem sao?
Anh ấy đặt chiếc cát–xét lên bàn, lấy trong vali ra một chiếc chổi và một chiếc lọ nhỏ. Anh nhúng chổi vào lọ và quét lên cuộn băng một lớp sơn màu tro mỏng – sau đó nheo nheo mắt theo dõi từng biến chuyển.
– Ồ, hình như là một dấu vân tay thì phải – Anh ấy nói – Dấu vân tay của anh đều có trên tất cả các bệnh án. Thế là thế nào nhỉ. Tôi kiểm tra được chứ?
– Chắc là họ có dấu vân tay của tôi khi tôi nhận chứng chỉ thì phải.
– Có nghĩa là một hai tuần trước đây anh đã đi một quãng đường rất dài chỉ để thỏa mãn tò mò, và anh chẳng tìm thấy tội ác nào ở PRINTRAK cả và không bị bắt vì những chuyện gần đây ư?
– Tôi chẳng nhớ chuyện gì cả...
– Tệ thật... nhưng thôi, ta phải xem xét những con số cụ thể của anh.
Milo lôi trong vali ra một lọ mực và một bản mẫu lấy dấu vân tay. Con chó nhìn theo từng cử chỉ của anh ấy khi anh ấn tay tôi vào hộp mực và lăn trên bản lấy dấu vân tay. Chiếc cát–xét để ngay cạnh tay tôi do đó tôi có thể thấy rõ những đốm trắng trên bề mặt nó.
– Hãy thoải mái nhé! – Milo nói – Cứ làm như mình là kẻ gây tội ác ấy.
– Đừng có nói với tôi như thế khi không có luật sư của tôi, đồ con lợn!
Anh ấy tặc lưỡi và đưa cho tôi mảnh giẻ lau. Trong khi tôi chùi tay, anh ấy lôi ra một chiếc máy ảnh và chụp hình vân tay trên cuộn băng. Anh ấy dùng bút chì gạt nhẹ vỏ băng, phết mực lấy vân tay ở cả hai mặt và sau đó chụp lại tất cả.
– Hy vọng là tìm được thứ gì? – Anh ấy nói. Cuối cùng anh ấy cho chiếc đài vào một chiếc hộp nhỏ, đóng dấu và cất vào vali.
– Anh nghĩ thế nào? – Tôi hỏi.
Anh ấy nhìn vào mẫu vân tay của tôi, sau đó lại nhìn sang cuốn băng và lắc đầu.
– Nguyên tắc của tôi lúc nào cũng rõ ràng. Cứ để phòng xét nghiệm xác nhận.
– Tôi muốn nói cuốn băng kia. Cứ như là phim ảnh ấy. Anh cũng thấy thế phải không?
Anh ấy đưa tay sờ khắp mặt như là rửa mặt mà không cần dùng nước.
– Không hẳn vậy!
– Tôi cũng nghĩ thế. Tiếng đứa trẻ đều đều như đã bị tẩy não rồi, đúng không?
– Còn hơn thế nữa kia – Anh ấy nói – Thật là điên rồ. Nhưng chẳng làm sáng tỏ được gì. Cho đến khi tôi vẫn còn quan tâm đến vụ việc thì hồ sơ vẫn hướng về “Tình yêu dối trá”.
– Chắc ai đó bắt đứa trẻ ê a như thế?
Anh ấy gật đầu.
– Chúng ta đang sống trong thời đại hỗn độn bác sĩ ạ!
– Nhưng nếu đó là sự thật thì sao? Nếu chúng ta gặp phải một kẻ bệnh hoạn, hắn bắt đứa trẻ làm như vậy chỉ để nắn gân tôi thì sao?
– Alex, chính kẻ gào thét đó là kẻ tra tấn. Và đó là một người lớn. Chắc là anh đang nghĩ đến ai đó.
– Nếu không phải là Wallace thì có thể là một bệnh nhân tâm thần nào đó, vì tôi luôn chữa bệnh cho trẻ em và tên tôi thỉnh thoảng còn được đăng trên báo, kẻ đó chắc chắn đã biết về cái chết của Becky và tiếng thét “tình yêu dối trá” nên mới xử sự như vậy. Tôi chỉ suy luận được có thể thôi. Chắc tôi cũng không phải là nhà trị liệu duy nhất của kẻ tội phạm.
– Có thể đấy. Lần cuối anh lên báo là từ khi nào.
– Mùa hè này. Lúc đó vụ J.nes bị đưa ra tòa.
– Còn gì khả nghi không? – Anh ấy hỏi.
– Còn một chuyện cụ thể hơn, Milo. Một bệnh nhân cũ đã nói với tôi là tôi lừa anh ta. Tôi đã xem lại được nửa đống bệnh án rồi mà chẳng tìm ra được gì. Nhưng ai mà biết được chứ! Tất cả bệnh nhân đều là trẻ em và tôi chẳng biết khi trưởng thành chúng nó sẽ ra sao.
– Nếu anh thấy chuyện gì hay ho hãy cho tôi một cái tên nhé.
– Tất nhiên rồi – Tôi nói – Nếu không có gì nguy hiểm tôi cũng chẳng biết con người mình ra sao?
Anh ấy cau có. Con chó nhìn anh không chớp.
– Này nhìn cái gì thế? – Anh ấy hỏi.
– Gâu, gâu.
– Nghe này, Alex. Tôi vẫn chưa phải mất ngủ vì vụ này đâu. Tôi sẽ mang những thứ này vào phòng thí nghiệm ngay. Để mai chắc là muộn mất. Tranh thủ mấy giờ đổi ca đêm tôi sẽ đẩy nhanh quá trình điều tra. Tôi sẽ copy ra một bản khác để nghiên cứu. Nếu có bị nghi ngờ thì anh phải thật bình tĩnh nhé.
*
Sau khi Milo đi khỏi, tôi cố gắng tập trung đọc cuốn tạp chí tâm thần học, nhưng không sao chú ý nổi. Tôi vừa xem bản tin vừa co duỗi chân tay. Chắc phải đến năm mươi lần. Đôi khi tôi cũng dừng lại liếc nhìn đống bệnh án. Tôi rất ít khi nhớ đến tên của những đứa trẻ bị tâm thần. Chẳng có cái tên nào gợi đến “Tình yêu dối trá” cả.
Mười giờ Robin gọi điện về:
– Chào anh yêu!
– Chào em! Nghe giọng em mọi chuyện có vẻ suôn sẻ nhỉ! – Tôi nói.
– Em vẫn khỏe, chỉ nhớ anh thôi. Có lẽ em sẽ về nhà sớm.
– Tuyệt vời, thế khi nào anh có thể ra sân bay đón em?
– Mọi việc ở nhà ổn cả chứ?
– Ổn cả! Nhưng chúng ta có một vị khách đấy. Tôi kể cho nàng nghe chuyện nhập gia của con chó Bun.
– Ôi! Nghe có vẻ hay đấy nhỉ! – Nàng nói – Nghe anh nói mà em muốn về cho thật sớm.
– Nhưng nó rất to và hay chảy nhớt nhãi lắm đấy!
– Chẳng sao cả! Anh biết đấy! Chúng ta có thể nuôi một con chó. Chẳng phải chúng ta đều là các nhà dinh dưỡng học hay sao? Khi còn bé anh cũng có một con chó cơ mà! Anh có nhớ nó không?
– Đó là con chó của bố anh – Tôi nói – Nó là một con chó săn, không yêu trẻ con. Năm anh năm tuổi thì nó chết, từ đó trở đi anh chẳng nuôi con nào nữa cả. Nhưng đảm bảo với em là anh thích chó. Nhưng còn em, em có ưa một con chó to, trông có vẻ dữ dằn không?
– Không sao! Chỉ cần nó tình cảm và mềm mại.
– Thế em thích loại nào.
– Em cũng không biết, có lẽ là một con chó trung thành và có thể trông cậy được. Hãy đợi em về nhà đã. Lúc đó em sẽ suy nghĩ và chúng ta sẽ đi mua một con.
– Nghe được đấy! Tạm biệt em!
– Chúng mình sẽ tự chế đồ ăn cho nó, nàng nói thêm.
– Cũng rất hay – Tôi trả lời.
*
Gần nửa đêm tôi cuốn cho con chó mấy tấm khăn khô, đặt nó xuống sàn và tắt điện. Con chó nhìn chằm chằm xuống sàn. Đột nhiên nó chạy vọt qua tủ lạnh.
– Đứng yên nào! – Tôi nói – Đến giờ đi ngủ rồi.
Nó quay lưng lại phía tôi và ngồi xuống. Tôi đi vào phòng ngủ, con chó vẫn chạy theo sau. Tôi đóng sập cửa trước con mắt van nài của nó.
Vừa mới chui vào chăn tôi đã thấy tiếng con chó cào cửa, thở nặng nhọc. Tiếng thở giống như âm thanh khò khè phát ra từ cổ họng một ông già. Tôi nhảy khỏi giường ra mở cửa. Con chó chạy vọt qua chân tôi và leo tót lên giường.
– Quên chuyện đó đi! – Tôi nói và đẩy nó xuống sàn trải thảm.
Nó lại bắt đầu rên, van vỉ và cố trèo lên giường.
Tôi lôi nó xuống sàn nhà.
Nó cố van vỉ một đôi lần nữa rồi im hẳn. Nó nằm quay lưng lại phía tôi trên tấm thảm nhàu nát. Có vẻ như một sự giận dỗi có lý đây. Nửa đêm tôi thức giấc nghĩ đến tiếng thét đau đớn và giọng nói đều đều trong cuốn băng. Con chó đã nằm cạnh tôi từ lúc nào. Đôi mắt nó thật đáng thương. Tôi để nó nằm lại. Chỉ mấy phút sau nó đã ngáy vang làm tôi cũng buồn ngủ lây.