← Quay lại trang sách

Chương 4

Sáng hôm sau tôi thức giấc, mệt mỏi vì vừa trải qua một giấc mơ hãi hùng. Tôi cho chú chó ăn và lại gọi điện đến nhà Rodriguez, nhưng vẫn không có tiếng trả lời, thay vào đó là giọng nói mệt mỏi của Evelyn trên nền nhạc bài “Slow hand” của Conway Twitty cài sẵn. Tôi nhắn bà ta gọi lại cho tôi nhưng chẳng thấy gì, thậm chí cả khi tôi đã tắm và cạo râu xong. Thế là chẳng ai gặp ai cả.

Quyết định đi ra ngoài nên tôi cho con chó mấy mẩu bánh quy và đi bộ vài dặm đến ký túc xá trường đại học. Máy tính trong thư viện BioMed chẳng có từ nào đúng với nghĩa “Tình yếu dối trá” cả, buổi trưa tôi đành về nhà. Con chó mừng rỡ chạy lên chạy xuống, liếm cả vào tay tôi. Tôi vỗ về nó, cho nó vài mẩu bơ. Nó chìa chân trước ra tỏ vẻ cảm ơn.

Sau khi hoàn thành biểu đồ bệnh án tôi đem chúng lại giá sách. Trên giá sách vẫn còn một bệnh án. Hi vọng tìm được thứ gì đó, tôi lôi nó xuống.

Không phải là tiểu sử bệnh nhân. Chỉ là một biểu đồ và những bài báo về kỹ thuật, tôi kẹp vào để tham khảo. Giữa những nếp gấp trên giá hồ sơ có một cuộn giấy dầy buộc bằng dây cao su, trên đó viết nghuệch ngoạc từ “PROFUNDITIES”. Tôi nhận ra nét chữ của mình hồi còn trẻ, trong lúc giận dữ, chán nản tôi đã viết từ này.

Tháo sợi dây thun, tôi trải cuộn giấy lên bàn và phủi sạch bụi. Tôi nhớ ra rồi. Đây chính là “bộ sưu tầm” những bài báo ký tên tôi và những bản báo cáo tôi đọc trong các hội nghị khoa học. Tôi xem lại chúng một cách hờ hững. Đột nhiên tôi nhận thấy một cuốn sổ nhỏ gần cuối cuộn giấy. Trong đó kẹp những lá thư viết bằng mực đen trên nền giấy xanh, đã ố vàng một góc vì dính cà phê.

Tình yêu cao thượng – Tình yêu dối trá

Những đánh giá, phân tích về tâm thần học, chiến lược phát triển bộ môn trong thế giới đang đổi thay.

Trung tâm y học nhi khoa Viễn Tây – Los Angeles, California – ngày 28 – 29 tháng 11 năm 1979.

Hội thảo về nguyên lý và ứng dụng lý thuyết của Giáo sư Boschian đối với các vấn đề xã hội và tâm sinh lý nhân kỷ niệm năm mươi năm giảng dạy và nghiên cứu của tiến sĩ Andres B.De Bosch, Ph.D.

WPMC, viện de Bosch và trường đại học Corrective – Santa Barbara – California đồng tài trợ.

Đồng chủ tịch hội nghị gồm:

Tiến sĩ Katarina V. de Bosch, Giám đốc điều hành, nhà tâm thần học Viện de Bosch và Trường đại học Corrective.

Tiến sĩ Alexander Delaware – Phó giáo sư nhi khoa và tâm lý học từ WPMC. (Trung tâm nhi khoa miền tây – Western Pediatrics Medical Centre).

Bác sĩ Harvey M. Rosenblatt – tiến sĩ tâm thần học và lâm sàng nhi khoa – Trường đại học y New York.

Bức ảnh ngay trang đầu là hình ba chúng tôi. Katarina de Bosch thì gầy gò, nghiêm khắc. Còn tôi và Rosenblatt đều để ria và có dáng chuyên môn.

Phần còn lại là lịch diễn thuyết của các diễn giả và rất nhiều ảnh, thông tin về hội thảo.

Tình yêu cao thượng – tình yêu dối trá. Bây giờ thì tôi nhớ rõ rồi. Làm sao trước đây tôi lại quên được nhỉ?

Năm 1979 là năm thứ tư của tôi ở trung tâm Western Peds. Một thời kỳ còn mãi trong tôi với những ngày dài, đêm thâu trong phòng ung thư và phòng di truyền học. Dường như cả ngày lẫn đêm tôi đều phải nắm chặt đôi tay những em bé đang hấp hối và nghe những câu hỏi không thể trả lời của các gia đình bệnh nhân. Tháng ba năm đó, cả trưởng khoa nhi và trưởng khoa tâm thần học đều nghỉ phép. Mặc dù chưa thống nhất chính thức, nhưng trưởng khoa tâm thần đã rời bỏ trung tâm, vì thế mà chức vụ này được giao cho tôi.

Được mọi người động viên bằng lời nói và hành động cụ thể tôi dần dần cảm thấy hứng thú với công việc. Chuyện gì đã xảy ra trong bộ máy quản lý tôi không được biết, chỉ biết rằng các khoản thu nhập của mình tăng, nên tôi đồng ý làm các nhiệm kỳ tiếp theo. Nhưng tôi còn quá trẻ để đảm nhận vai trò này.

Không lâu sau đó, trung tâm Western Peds trở nên nổi tiếng. Tôi nhanh chóng khám phá ra một công việc khác cho mình, đó là tiếp nhận đề nghị hợp tác của các trung tâm, cơ quan đại diện muốn hợp tác với bệnh viện. Tất cả những tổ chức này đều là đồng tài trợ cho hội thảo, trong đó bệnh viện đóng góp nhiều nhất. Vốn của bệnh viện chính là cơ sở vật chất và danh tiếng của bệnh viện trong việc bồi dưỡng nhân viên y tế. Hàng năm nhu cầu đào tạo chủ yếu ở bệnh viện tập trung vào lĩnh vực nhi khoa và tâm thần học. Nhưng cuối cùng họ chỉ đào tạo ba người. Bức thư của Katarina de Bosch là một trong những thư tôi nhận được vài tuần sau khi kết thúc hội nghị. Tôi đã đọc qua và huỷ mất nó. Không phải vì nó không nói lên được điều gì mà vì tôi và các đồng nghiệp không quan tâm đến vấn đề này. Cuộc tranh luận của chúng tôi về lý thuyết tâm thần học cổ không còn căng thẳng, sôi nổi nữa. Do đó công trình của Andres de Bosch đối với tôi chỉ xếp hạng trung bình. Đúng ra, đây là một công trình đa dạng nhưng không xứng với danh tiếng của người viết, vì ông ta chỉ phát triển một phần rất nhỏ ý tưởng của một sinh viên tên là Freud đưa ra năm ngoái ở Vienna và ý tưởng của những thành viên Hội chống Pháp đã được biết đến trên toàn thế giới. Tôi không rõ giáo sư de Bosch còn sống hay đã chết cho đến khi nhận được thư của con gái ông ta. Cuộc hội thảo do cô tổ chức chính là để ca ngợi tiếng tăm bố mình.

Tôi lịch sự viết một lá thư phúc đáp.

Hai tuần sau tôi được mời đến gặp giám đốc Henry Bork. Henry hay diện trang phục Hickey Freeman, hút xì gà Jamaica. Mấy năm qua ông ta vẫn chưa làm một phẫu thuật nào.

– Chào Alex!

Ông ta mỉm cười chào tôi, thích thú ngắm bộ ghế Breuer phía góc phòng, một người phụ nữ mảnh khảnh đang ngồi trên chiếc ghế bọc da.

Cô ta có lẽ già hơn tôi một chút... khoảng ngoài ba mươi gì đó nhưng khuôn mặt có vẻ già hơn vì in đậm dấu ấn của tuổi tác. Những dấu hiệu lo lắng bắt đầu hiện rõ trên khuôn mặt cô ta. Cô ta ngồi như làm mẫu vẽ chân dung cho họa sĩ. Môi cô ta khô nẻ, thực ra toàn bộ người cô đều toát lên vẻ khô héo, không trang điểm gì, trừ đôi mắt. Mắt cô khá to, nhưng vô hồn, lông mi rủ, lông mày rậm. Mũi cô ta cao, nhưng hơi khoằm. Đôi môi dày, hơi cong. Hai chân cô vắt chéo nhau, vuông góc với sàn nhà.

Cô ta mặc một chiếc áo len thô, cổ xếp và một chiếc váy đen có li, tất kẻ sọc làm nổi màu da rám nắng của người vùng Caribbean. Cô đi đôi giày đen, không dùng trang sức. Mái tóc nâu của cô rất dài và suôn, được buộc gọn sang hai bên bằng một chiếc nơ đen lớn làm bằng dải len. Chiếc áo choàng ôm sát hông. Bên cạnh cô ta là chiếc hộp đen.

Khi tôi ngồi xuống cô ta quan sát tôi, hai tay nắm chặt vào nhau làm cho chúng trắng bệch ra. Móng tay cô được cắt sửa gọn ghẽ, trông rất sạch sẽ.

Bork đứng chắn giữa hai chúng tôi, dang tay như một vị chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.

– Tiến sĩ Delaware, đây là tiến sĩ Katarina de Bosch. Tiến sĩ de Bosch, Alex Delaware là trưởng khoa tâm lý của chúng ta.

Tôi quay sang cô ta mỉm cười. Cô ta gật đầu rất khẽ.

Bork quay lại chỗ ngồi, ghé mông lên bàn. Hai tay cầm hai cốc đặt lên trên gối lót. Chiếc bàn rộng chừng bảy mươi centimét vuông, đóng bằng gỗ óc chó theo hình một chiếc ván lướt. Phía trên đặt một tấm da thấm và một phiến đá hoa cương mài mực. Giữa tấm da đặt một tờ giấy xanh hình chữ nhật. Anh ta với lấy tờ giấy và dùng nó để chà đốt tay.

– Anh có trả lời thư của de Bosch đề nghị hợp tác với khoa anh không, Alex?

Tôi gật đầu.

– Thế ý anh thế nào?

– Tôi từ chối.

– Tôi có thể biết lý do không?

– Nhân viên yêu cầu những điều liên quan trực tiếp đến bộ máy quản lý Henry ạ!

Bork lắc đầu thất vọng, đưa mảnh giấy xanh cho tôi. Đó là chương trình hội thảo. Tờ giấy vẫn còn thơm mùi mực in ghi đầy đủ tên diễn giả và khách đến dự. Tên tôi xếp dưới Katarina de Bosch với tư cách đồng chủ tịch. Phía dưới là ảnh tôi lấy ra từ bản kế hoạch.

Mặt tôi nóng bừng. Tôi thở dài.

– Henry, có vẻ như một việc đã rồi vậy.

Tôi định đưa cho anh ta cuốn sách nhỏ nhưng anh ta đã rụt tay về.

– Hãy giữ lấy Alex. Anh ta đứng dậy, từ từ bước đến phía trước chiếc bàn, cuối cùng thì anh ta cũng xoay sở được một chỗ ngồi.

Katarina de Bosch cũng đang bẻ đốt tay.

Tôi muốn giữ thái độ lịch sự nhưng không làm nổi:

– Thật là tuyệt khi biết mình làm gì vào tháng mười một, Henry. Hãy nhớ đưa tôi lịch làm việc trong thập niên này đấy!

Katarina khẽ khịt mũi. Henry quay sang mỉm cười với cô ta, sau đó quay sang tôi cầu hòa.

– Chỉ là hiểu lầm thôi mà Alex. Cái gì tự nhiên thì tự nó sẽ bộc lộ, đúng không nào?

Anh ta lại quay sang Katarina, nhưng cô ta không phản ứng gì, anh ta đành phải nhìn vào tấm da thấm.

Tôi dùng cuốn sách làm quạt.

– Thật ngớ ngẩn – Bork nói – Quyết định bổ nhiệm này được đưa ra trong lúc tiến sĩ Greiloff và Franks du khảo, và thế là cậu nhảy vào. Ban quản trị thấy hối hận rồi đấy.

– Tại sao lại phải bực với lá đơn xin việc chứ?

– Bởi vì tôi là người lịch sự – Katarina nói.

– Tôi không biết ban quản trị có dính líu đến việc sắp xếp cuộc hội thảo này, Henry.

Bork mỉm cười.

– Mọi chuyện, Alex ạ! Ban quản trị quyết định mọi chuyện. Nhưng cậu đúng. Chúng ta không phải là kẻ dính dáng vào những chuyện đại loại như thế. Tuy nhiên...

Anh ta ngừng lời, quay sang nhìn Katarina. Cô gái khẽ gật đầu, hắng giọng. Anh ta lôi ra một điếu xì gà. Điếu thuốc đặt trong hộp ba điếu có khăn lụa trắng bọc quanh.

– Thực tế chúng ta cũng có dính dáng đấy, Alex ạ. Cậu có thể nói với tôi không. – Anh ta nói, không còn mỉm cười nữa.

– Chuyện gì thế Henry.

– Tiến sĩ de Bosch, cả hai vị họ de Bosch đang được kính trọng trong hội đồng y khoa Western.

– Đang ư! Có nghĩa là ông bố vẫn còn sống ư? Tôi biết – Tôi nói.

– Đúng vậy.

Hai má anh ta bắt đầu đỏ ửng. Đó là dấu hiệu phản ứng quyết liệt của anh ta. Anh ta rút một điếu xì gà kẹp giữa hai ngón tay trỏ.

Katarina khẽ liếc mắt nhìn sang phía tôi. Không ai nói gì. Tôi cảm thấy màn tiếp theo sẽ do tôi đạo diễn.

– Được trọng vọng – Cuối cùng Henry nói, giọng nặng nề.

Tôi tự hỏi chuyện gì đang ám ảnh anh ta và nhớ lại tiếng đồn mấy năm trước mà tôi cố tình lảng tránh. Đứa con gái út của Bork, một đứa trẻ có vấn đề về tâm thần và tình dục, hai năm trước đã được gửi đến trung tâm để trị bệnh. Gia đình anh ta cố bưng bít chuyện này. Một trong những kẻ chống đối Bork xem đây là một cơ hội thuận tiện.

– Viện de Bosch và trường Corrective... – Bork nhìn tôi như muốn bảo tôi nên dừng lại – Tất nhiên – Tôi nói.

Giọng nói bất cần làm Katarina de Bosch nhíu mày, nhưng lại làm cho Bork phải mỉm cười.

– Đúng – Anh ta nói – Chúng ta đều mong muốn cuộc hội thảo này. Tôi hi vọng là anh và cô de Bosch sẽ hợp tác tốt cùng nhau.

– Tôi sẽ cùng làm việc với hai tiến sĩ họ de Bosch chứ?

– Bố tôi không được khỏe – Katarina nói – Ông ấy bị đột quy từ mùa đông năm ngoái.

– Tôi lấy làm tiếc.

Cô ta đứng dậy, vuốt lại váy, đi lại bàn lấy mũ. Khi đứng lên cô có vẻ rất cao nhưng gầy, chỉ nặng chừng ba lăm đến bốn mươi cân. Chân cô rất ngắn, ngón chân xương. Cô mặc chiếc váy dài quá gối chừng ba centimét.

– Bây giờ tôi phải về chăm sóc cụ – Cô nói – Đi cùng tôi ra xe, tiến sĩ Delawance. Tôi sẽ đưa ông bản chi tiết về buổi hội thảo.

Bork nhìn cô ta tức tối, sau đó nhìn sang tôi vẫn cái nhìn đó.

Nghĩ đến chuyện anh ta đã làm với con gái, tôi đứng dậy và nói:

– Chắc chắn rồi.

Anh ta đưa điếu xì gà lên môi.

– Tuyệt, cảm ơn Alex – Anh ta nói.

– Henry! – Cô ta lạnh lùng ngắt lời, không quay đầu lại và đi thẳng ra cửa.

Anh ta đứng bật dậy lao ra mở cửa cho cô.

Anh ta là một nhà chính trị và một kẻ hay quậy phá, một nhà vật lý có tài nhưng đã mất hết hứng thú làm việc và tính người. Những năm sau đó anh ta chẳng bao giờ cảm ơn tôi lấy một lời về sự hy sinh của tôi vào chiều hôm đó. Có lẽ anh ta ngày càng thù địch và thu mình lại. Do đó tôi cũng dần dần không ưa anh ta. Nhưng tôi không hối tiếc về những điều tôi đã làm.

*

Ra đến cửa cô ta nói:

– Anh là người theo chủ nghĩa hành vi?

– Đúng vậy, làm bất kỳ một điều gì cũng liên quan đến hành vi.

Cô ta cười mỉa mai và bước nhanh tay vung mạnh chiếc mũ trong hành lang hẹp của bệnh viện. Đến cửa trước vẫn chẳng có ai lên tiếng. Cô ta nóng nảy bước xuống bậc thềm. Đến lối vào bệnh viện cô ta dừng lại, cầm mũ trong tay, đứng im và đợi tôi mở cửa, giống như Bork làm lúc nãy. Có lẽ cô ta đã quen lớn lên bên kẻ hầu người hạ.

Xe của cô đỗ ngay ở phía ngoài, trong phần cấm đỗ xe để dành cho xe cứu thương. Đó là một chiếc Buick mới, mui lớn sơn đen. Tay bảo vệ bệnh viện đứng nhìn vẻ thèm muốn. Khi thấy cô ta bước ra anh ta giơ tay lên mũ chào.

Mở cửa xe, tôi nghe như có tiếng nổ khi cô ta ngồi vào ghế và nổ máy. Tôi đứng nhìn cô qua cửa xe. Cô ta lờ tôi đi, tăng ga, xong đâu đó mới quay sang nhìn tôi y như là cô ta ngạc nhiên lắm khi thấy tôi vẫn đứng đó. Cô ta hạ cửa xe xuống.

– Còn gì nữa đây?

– Chúng ta nên bàn bạc chi tiết – Tôi nói.

– Chi tiết à? – Cô ta nói – Tôi sẽ làm mọi việc, không cần phải lo lắng gì cả. Đừng làm phức tạp vấn đề. Mọi chuyện sẽ đâu vào đó. Được chứ?

Cổ họng tôi tắc nghẽn. Cô ta nhấn ga.

– Vâng, thưa...

Trước khi tôi kịp nói từ tiếp theo, cô ta đã phóng vụt đi.

Tôi quay lại bệnh viện lấy một cốc cà phê gần bàn mang vào văn phòng và cố quên đi chuyện vừa rồi để tập trung đối phó với những thách thức phía trước. Sau khi đã yên vị trên ghế, tôi vẽ bản đồ. Tay tôi trượt ra ngoài làm cà phê đổ cả xuống cuốn sách.

Tôi không nhận được tin gì của cô ta cho đến ngày cách cuộc hội thảo khoảng một tuần. Cô ta đã gửi cho tôi một bức thư đề nghị tôi đọc một bản báo cáo. Tôi gọi điện từ chối. Cô ta có vẻ phật ý.

– Nếu anh đọc diễn văn chào mừng khách mời thì tốt quá!...

– Thật thế sao?

– Đúng thế. – Cô ta gác máy.

Tôi là người đọc diễn văn chào mừng ngay ngày đầu tiên, sau đó thì ngồi chơi cả buổi sáng bên cạnh vị đồng chủ tịch khác Harvey Rosenbtatt – tiến sĩ tâm lý nhi khoa đến từ New York. Phải cố lắm tôi mới giữ được vẻ mặt hứng thú trong bài diễn thuyết của Katarina. Cuộc hội thảo không đông khách mời. Chỉ có khoảng bảy mươi hay tám mươi nhà trị liệu học và một số sinh viên chuyên khoa, trong một hội trường có bốn trăm ghế ngồi.

Katarina tự giới thiệu tên và học vị. Tiếp đó cô ta đọc một bản báo cáo đã chuẩn bị sẵn bằng giọng trầm bổng. Cô ta ưa dùng những câu dài rắc rối và thường từ mệnh đề thứ ba trở đi chẳng có nghĩa gì, cho nên người nghe cũng chẳng hiểu được gì nhiều. Nhưng đấy không phải là điều cô ta quan tâm. Có vẻ như cô không định nói cho ai hiểu, trừ bản thân mình. Tất cả mọi người đến đây chỉ là để tưởng nhớ những ngày hoàng kim của cha cô. Còn tôi, tham dự hội thảo, tôi sẽ có thời gian để thu thập những bài báo của Andres de Bosch, nhưng ông ta chẳng để lại trong tôi một ấn tượng nào.

Phong cách viết của ông ta rất rõ ràng, nhưng lý thuyết chăm sóc trẻ em của ông ta – Tình yêu cao thượng, tình yêu dối trá – mà cô con gái ông dùng làm chủ đề cho cuộc hội thảo chẳng qua chỉ là những lý thuyết nhặt nhạnh rồi mở rộng từ những công trình của người khác. Một chút của Anna Freud, một chút của Melanie Klein, có chỗ trích của Winnicott, Jung, Harry Stack Sullivan hay Bruno Bettelheim.

Ông ta đã để lại rất nhiều giai thoại về những đứa trẻ ông ta đã chữa trị tại trường bằng những kiến thức học được ở Viện và những kinh nghiệm thời chiến tranh. Tất cả những giai thoại đó ông ta đều đưa vào bản báo cáo, chỉ bỏ tên bệnh nhân, nhưng lại nhấn mạnh đến đặc điểm của từng bệnh nhân.

Khán giả chẳng mấy mặn mà gì, nhưng nhìn vẻ mặt họ, cô con gái vị giáo sư già lại thấy điều tương phản.

Sang ngày thứ hai của cuộc hội thảo, khán giả đến dự giảm đi một nửa. Những người đọc diễn văn lặn lội từ New York đến ngày hôm đó cũng muốn bỏ về. Tôi cảm thấy tội cho Katarina, nhưng cô ta chẳng buồn quan tâm gì đến chuyện đó, cứ hết lời tâng bốc những chiến công của ông bố thời hoàng kim. Cô ta cần mẫn làm việc như đang viết một cuốn sách về một bệnh nhân nhỏ tuổi dưới ngọn đèn Tiffany.

Lại một loạt diễn văn khác. Khán giả nhìn cô thất vọng, chán nản. Trông cô ta già hẳn đi. Họ đều là những người yêu quý hai cha con cô. Phía sau người đàn ông đứng tuổi thu mình trên ghế ở vị trí cao nhất là những người tỏ vẻ kính phục ông, nhưng lại đang thầm nguyền rủa ông. Kết cục bi thảm ám ảnh hai cha con. Một số người tham dự còn ở lại cũng phải ngại ngùng quay đi chỗ khác.

Người buồn nhất có lẽ là tiến sĩ Rosenblatt. Tôi nhận thấy sự thất vọng trong mắt ông ta khi tôi đọc bản báo cáo mà ông ta đã đưa.

Rosenblatt là người cao lớn, trên bốn mươi tuổi, để râu quai nón. Ông ta nói chuyện cùng tôi trong khi chờ đến buổi hội thảo chiều. Sự nồng hậu cũng an ủi tôi được phần nào. Không giống với những nhà phân tích khác, ông ta rất cởi mở nói về công việc của mình ở Mahattan, về cuộc hôn nhân bền vững trên hai mươi năm của ông với một nhà tâm lý và niềm vui được đối đầu với khó khăn khi nuôi dạy ba đứa con. Trong đợt hội thảo này ông ta cho cậu con trai út mười lăm tuổi đi cùng.

– Thằng bé về khách sạn rồi. Nó ở đó coi phim. Có lẽ là phim cấm. Tôi hứa sẽ trở lại trong vòng một giờ nữa để đón nó đi công viên Disneyland. Cậu có biết bao giờ mở cửa không?

– Chắc là vào mùa đông. Có lẽ mở đến sáu giờ.

– Thế ư? Có lẽ tôi phải để đến ngày mai mất. Hi vọng là Josh sẽ đồng ý.

– Nó có thích chơi trận giả không?

– Đó là trò nó khoái nhất đấy.

– Tại sao ông không đưa nó đến Santa Monica. Ở đấy đóng cửa muộn hơn.

– Được đấy. Cám ơn anh. Nhân tiện tôi xin hỏi ở đó có xúc xích ngon không?

– Tôi biết họ có xúc xích, nhưng chất lượng thì không biết.

Ông ta mỉm cười.

– Josh là đứa nghiện xúc xích Alex ạ. Chúng tôi đến Coney Island ở Mathan thường xuyên. Ở đó xúc xích rất tuyệt – Ông ta xoa má, vê vê bộ ria – Disneyland chán thật đấy. Tôi không muốn làm nó thất vọng.

– Thách thức với một ông bố đây! – Tôi nói.

Ông ta cười.

– Nó là đứa bé ngoan. Tôi mang nó đi theo, hy vọng là có một kỳ nghỉ có hai bố con. Đứa nào lớn lên tôi cũng đều làm như thế cả. Không dễ gì hòa đồng với những đứa trẻ khác, nếu như tự chúng nó không tìm cho mình những người bạn. Cậu có nhiều bạn không?

Tôi lắc đầu.

– Tuỳ vào giáo dục thôi. Tôi nghĩ nó còn tốt hơn nhiều so với mười năm học ở trường.

– Ông là con một à? – Tôi hỏi.

– Không. Nhưng dần dần tôi càng xa lánh những công việc liên quan đến bọn trẻ.

– Sao lại thế!

– Thành thật mà nói, làm việc với trẻ con cần nhiều giao tiếp hành động, điều đó quá khó với tôi. Ba giờ liên tục trong phòng trị liệu làm cho mắt tôi rất đau. Tôi biết vậy. Nhưng nếu không tập trung thì tôi sẽ làm cho chúng thất vọng. Vợ tôi thì khỏi phải nói rồi. Cô ấy đúng là nghệ sĩ trong lĩnh vực này. Một bà mẹ vĩ đại đấy.

Chúng tôi ra quầy giải khát uống cà phê, ăn hạt điều và nói về một số nơi ông ta có thể dẫn cậu con trai đến. Khi vào đến phòng hội thảo tôi hỏi ông ta về quan hệ của ông với nhà de Bosch.

– Andres là thầy giáo tôi – Ông ta nói – Hồi còn ở Anh, ông ấy là người hướng dẫn tôi suốt mười một năm ở bệnh viện Southwick gần Manchester, đặc biệt là về nhi khoa và di truyền học. Sau đó tôi làm việc cho Chính phủ chỉ vì muốn xem bộ máy Nhà nước của người Anh hoạt động ra sao.

– Thần kinh học à? Tôi không biết giáo sư de Bosch lại quan tâm đến vấn đề này.

– Không! Andres chẳng mặn mà gì vấn đề này đâu nhưng ông ta là người phản biện. Ông ta lập luận rất chắc đấy. Chẳng phải là ta luôn cần những người như thế sao?

Chúng tôi vào phòng hội thảo. Mười phút nữa bài phát biểu đầu tiên của buổi chiều sẽ được đọc, nhưng phía dưới gần như chẳng có ai dự.

– Đó là thời gian tuyệt chứ – Tôi hỏi khi cả hai đã ngồi xuống ghế.

– Về người hướng dẫn ư? Tất nhiên rồi. Trong khoảng thời gian dài tôi chữa bệnh cho những đứa trẻ con nhà nghèo hoặc con em gia đình công nhân. Andres là thầy giáo tuyệt vời, tận tình giúp đỡ tôi bằng tất cả kinh nghiệm vốn có của ông.

Tôi nghĩ cũng chẳng có gì đặc biệt cả. Tôi nói:

– Ông ấy là người viết tốt đấy.

Rosenblatt gật đầu, vắt một chân lên đùi và đưa mắt nhìn xuống khán phòng vắng tanh.

– Làm sao cô con gái lại chấp nhận chuyện này nhỉ? – Ông ta hỏi.

– Cũng chẳng có vấn đề gì! – Tôi nói – Chúng tôi đã chữa chạy cho rất nhiều trẻ con bị thương về thể chất bằng tâm thần học trong khoảng thời gian dài. Trước tiên khuyên chúng chịu đựng đau đớn, tiếp đến là hướng dẫn gia đình động viên con và theo dõi quá trình điều trị.

– Không có vẻ gì là được chiều chuộng lắm nhỉ?

– Không!

– Với tư cách là người phân tích cậu có thấy thoải mái không?

– Tôi không phải là người phân tích.

– Ồ! Ông ta quay đầu lại, tôi chỉ giả dụ thôi mà. Thôi được, thế tại sao cậu lại có mặt ở đây?

– Do tài thuyết phục của Katarina de Bosch.

Ông ta mỉm cười.

– Cô ta đúng là người có tài đấy. Khi tôi biết cô ta ở Anh cô ấy mới chỉ mười bốn, mười lăm tuổi gì đó, nhưng thậm chí ở tuổi đó tính cách cô ta cũng rất mạnh mẽ rồi. Cô ta thường đến dự lễ tốt nghiệp của chúng tôi và phát biểu y như một người uyên thâm vậy.

– Với tư cách con gái của giáo sư à?

– Đúng vậy.

– Mười bốn hay mười lăm ư? Có nghĩa bây giờ cô ta mới khoảng hai lăm, hai sáu?

Ông ta nghĩ ngợi một lát và trả lời:

– Có lẽ khoảng đó.

– Cô ta trông già hơn nhiều.

– Đúng vậy. – Ông nói như đang đi guốc vào bụng tôi – Tâm hồn cô ta già cỗi rồi. Một đồng nghiệp Trung Quốc của chúng tôi nói vậy.

– Cô ta có chồng chưa?

Ông ta lắc đầu.

– Có lúc tôi nghĩ cô ta là người đồng tính, nhưng không phải vậy. Có lẽ là kẻ vô tính thì đúng hơn.

Tôi nói:

– Có thể vì mặc cảm mà cô ta chẳng dám thể hiện gì cả.

– Với một cô gái thì thật là kỳ cục – ông ta hài hước vẫy tay – Thôi hãy để cho vấn đề của cậu đến đâu thì đến.

– Cô ấy tự lái xe à?

– Cái gì cơ?

– Chiếc Electra của cô ta – một loại Buick lớn.

Ông ta cười lớn.

– Này cậu, đấy không phải là thứ làm cậu chuyển từ lý thuyết của Freud sang đó chứ. Tôi chẳng biết chuyện gì cả...

– Anna Freud cũng không lấy chồng. Cả Malenie Klein nữa đúng không?

– Sao thế! Có chuyện gì với nhóm di truyền học à? – Ông ta nói và tặc tặc lưỡi.

– Chỉ là mấy số liệu thôi mà, Harvey. Ông thử kết luận xem sao.

– Ôi, thế mà con gái tôi lại phát cuồng lên vì đàn ông đấy. Nhưng tôi cũng chẳng phạt nó đâu – Ông ta quay ngoắt lại – Mặc dù tôi biết rằng chuyện đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của nó.

Ông ta ngừng lời. Theo hướng nhìn của ông tôi thấy Katarina đang bước vào hội trường. Tay cô cầm một chiếc cặp giấy, cô vừa xem đồng hồ vừa bước vào.

– Katarina. Mọi chuyện ổn cả chứ – Giọng ông ta cố vui vẻ nhưng ông ta là kẻ không biết nói dối.

– Tốt cả, Harvey – Cô nói và nhìn xuống khán phòng.

– Cô đến muộn mất hai phút. Đáng lẽ lúc này cô phải đứng trên bục diễn thuyết rồi.

*

Từ đó đến nay tôi không bao giờ gặp lại họ nữa. Những kỷ niệm buồn về hội thảo cũng mờ phai. Tháng giêng năm sau các báo đăng tin về cái chết của Andres de Bosch. Ông ta đã tự tử bằng cách uống thuốc ngủ quá liều. Nhưng họ nói rằng ông ta chết vì già yếu. Những cống hiến của ông cho khoa học được người ta nhắc đến một cách trìu mến, nể phục. Bản thân tôi biết rõ ai là người cung cấp những thông tin này. Mấy năm đã trôi qua, bây giờ tôi lại có dịp khui nó ra.

Tình yêu cao thượng – Tình yêu dối trá, thuật ngữ của de Bosch dùng với ý nghĩa chăm sóc con cái đã bị lạm dụng, biến nó thành một tội ác huyền bí...

Do vậy tôi có thể khẳng định Donald Dell Wallace không liên quan gì đến chuyện này. Đó phải là kẻ muốn chơi xỏ tôi và đã từng biết về cuộc hội thảo. Một kẻ nào đó vẫn còn ấm ức với tôi trong bấy nhiêu năm qua. Nhưng về chuyện gì cơ chứ? Có phải người nào đó có liên quan đến de Bosch, hành động nhân danh de Bosch hay không?

Vị đồng chủ tịch với tôi – một học sinh cũ của De Bosch là người duy nhất tôi biết.

Một hành động trách móc ư? Hay đó là sự lừa đảo? Một kẻ tâm thần ngồi dự hội thảo và nghe được từ này... Tôi nghĩ đến bảy mươi khách trong khán phòng nhưng chẳng biết thêm được gì. Tại sao kẻ giết Becky Basille lại dùng thuật ngữ ấy. Còn kẻ điên nào như thế nữa không!

Katarina có thể biết. Nhưng năm 1979 cô ta chẳng quan tâm gì đến tôi thì giờ cô ta cũng sẽ chẳng nói gì cả. Trừ khi cô ta cũng nhận được một cuốn băng và cũng đang hoảng sợ.

Tôi gọi đến trung tâm 805, nhưng ở Santa Barbara không có gì liên quan đến viện de Bosch hay trường Corrective. Không đâu có số máy của Katarina de Bosch. Trước khi dập máy tôi cố hỏi số nhà nhưng cũng không có. Tôi gác máy và tìm số của Hiệp hội tâm thần học Mỹ. Ở đây cũng chẳng khá hơn chút nào. Cuối cùng tôi cũng mò ra số cơ quan của Katarina de Bosch, nhưng đó lại chính là số của trường Santa Barbara năm năm trước đây. Theo số này tôi gọi đến công ty điện thoại rồi bấm trực tiếp.

Tiếng một phụ nữ trả lời:

– Taco Bonanza đây.

Giọng nói làm tôi thất vọng.

Tôi bỏ máy, ngồi thẳng dậy, vuốt đầu chú chó và chăm chú nhìn vào vết cà phê ố trên cuốn sổ nhỏ. Tôi tự hỏi tại sao và khi nào mọi việc sẽ được sáng tỏ.

Chỉ còn Harvey Rosenblatt thôi.

Bây giờ là một giờ ba mươi phút, ở New York sẽ là bốn giờ ba mươi phút. Tôi gọi điện đến Trường Đại học y New York và hỏi số khoa nhi. Vài phút sau tôi được biết không có ai là tiến sĩ Harvey trong đội ngũ giảng viên chính và thỉnh giảng ở đây cả.

– Chúng tôi chỉ có ông Leonard Rosenblatt thôi – Viên thư ký trả lời – Văn phòng của ông ta ở New York có tên Shirley Rosenblatt ở Manhatan, trên đường Đông 65.

– Thế ông Shirley là tiến sĩ hay bác sĩ?

– Tiến sĩ thưa ông. Bà ta là nhà tâm lý.

– Không có Harvey thật à?

– Không, thưa ngài!

– Thế cô có danh sách nhân viên cũ không? Những người đã nghỉ hưu chẳng hạn.

– Có lẽ có thưa ngài, nhưng tôi không có thời gian để tìm, nếu ngài...

– Cô có thể cho tôi số máy của tiến sĩ Shirley không?

– Xin chờ cho một chút.

Tôi ghi lại số. Sau đó gọi điện đến trung tâm thông tin Manhatan tìm người có tên là Harvey Rosenblatt học vị thạc sĩ, nhưng không có. Tôi gọi điện đến số của tiến sĩ Shirley.

Giọng phụ nữ nhỏ nhẹ trong máy nhắn nói: “Tôi là tiến sĩ Shirley. Tôi đang khám bệnh hoặc không có nhà. Nếu bạn thấy thật sự khẩn cấp hãy bấm số 1 hoặc số 2 và để lại lời nhắn. Xin cảm ơn và chúc bạn một ngày vui vẻ”.

Sau đó là nhạc Mozart. Tôi nói lời nhắn: “Chào tiến sĩ Rosenblatt. Tôi là Alex Delawance ở Los Angles. Tôi không rõ liệu bà có phải là vợ ông Harvey không, nhưng tôi đã gặp ông trong một cuộc hội thảo cách đây mấy năm. Hiện nay tôi đang muốn liên lạc với ông ta về một số vấn đề chuyên môn. Nếu bà biết ông ta hãy vui lòng thông báo cho tôi theo số của tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn”.

Tôi đọc số điện thoại của mình và gác máy. Thông điệp đã được gửi đi nửa giờ rồi. Chẳng có gì bất thường cả, nhưng khi tôi nghe thấy tiếng gì rơi trong thùng thư, hai tay tôi túa mồ hôi.