Chương 6
Bà ta vẫn còn nói khi trời đã tối hơn, để mặc cho bọn trẻ tiếp tục chơi trong khi bà ta nhớ lại những cơn ác mộng và những câu thần chú nỉ non, nỗi khiếp sợ của cảnh mồ côi.
Năm giờ ba mươi, Bonnie bước ra và bật chiếc đèn hành lang, làm cho sân sáng lên một màu vàng u ám. Có tiếng gọi, Evelyn đứng dậy và nói với bọn trẻ:
– Vào nhà thôi nào.
Ngay sau khi họ vào nhà, một người đàn ông bước ra, xoa xoa hai bàn tay và hít không khí. Ông ta khoảng năm mươi ba tuổi, hoặc có khi gần sáu mươi, dáng thấp, da sẫm, cằm trễ, cánh tay dài đầy những vết săm. Đôi chân vòng kiềng làm ông ta đi lảo đảo. Đôi mắt của ông ta bị mái tóc hoa râm dày che khuất và bộ ria mép màu xám kiểu Zapata rũ xuống che mất cái miệng. Mái tóc hoa râm rậm được chải bóng hất về sau. Ông ta mặc một cái áo sơ mi kaki công nhân và một cái quần jeans màu xanh xắn gấu.
Hai tay ông ta dính đầy vôi, ông ta cứ chà chúng rất mạnh khi đến gần chúng tôi.
Evelyn chào ông ta. Ông ta cũng đáp lễ và nhìn tôi, cố rướn người lên để cho có vẻ cao hơn.
Evelyn nói:
– Đây là bác sĩ đó. Chúng tôi đã có một cuộc nói chuyện thú vị.
Ông ta gật đầu. Áo ông ta có một tấm thêu hình trái xoan màu trắng với dòng chữ “Roddy” màu đỏ. Lại gần, tôi mới thấy mặt ông ta đã từng bị đậu mùa nặng. Hai vết sẹo hình lưỡi liềm kéo dài xuống cằm. Tôi đưa một tay ra. Ông ta nhìn vào lòng bàn tay mình, cười ngượng ngủng rồi nói:
– Bẩn quá – Giọng ông ta dịu dàng và khàn khàn. Tôi bỏ tay xuống. Ông ta lại cười và chào tôi.
– Chào bác sĩ Dellaware.
– Rất vui được gặp ông, Roddy.
Đó là giọng của người vùng cao nguyên Boyle. Khi ông ta hạ tay xuống, tôi chú ý những dòng chữ được săm ngang các đốt ngón tay của ông ta: L.O.V.E. Bên bàn tay kia là các chữ quen thuộc H.A.T.E. Ở chỗ trũng giữa ngón trỏ và ngón cái còn có một dấu thập ác màu xanh thô thiển. Bên cạnh đó là một con nhện mắt đỏ đang treo trên một mạng nhện nhỏ phía trên có dòng chú thích NR.
Ông ta bỏ tay vào túi quần.
– Hôm nay ông thế nào? – Evelyn hỏi ông ta, cứ như là bà ấy muốn chạm vào ông ta vậy.
– Tốt – ông ta khụt khịt.
– Có đói không?
– Đói. Tôi muốn ăn – ông ta lại rút tay ra và xoa xoa chúng – Nhưng phải tắm đã.
– Được thôi.
Ông ta đi vào nhà.
Evelyn nói với tôi:
– Tôi phải vào trong bếp. Tôi nghĩ là bây giờ đã quá muộn để anh nói chuyện với chúng, nhưng ngày mai anh có thể đến.
– Được.
Chúng tôi bước vào trong. Chondra và Tiffani đang ngồi trên ghế sô pha trong căn phòng lụp xụp phía sau xem phim hoạt hình trên tivi. Một con mèo đang bị xử tử trong sự mừng rỡ. Tiffani cầm điều khiển.
– Tạm biệt, các cháu.
Những cặp mắt đờ đẫn ngước lên.
– Chào tạm biệt bác sĩ đi nào.
Các cô gái ngước lên, vẫy tay và mỉm cười.
Tôi nói:
– Bây giờ chú phải đi. Ngày mai chú sẽ đến, lúc đó có thể chúng ta sẽ có cơ hội trò chuyện.
Tiffani nói:
– Hẹn gặp ngày mai – Rồi thúc cùi chỏ vào chị gái mình. Chondra cũng nói:
– Tạm biệt.
Evelyn đã đi khỏi. Tôi nhìn thấy bà ở trong bếp, đang lấy cái gì đó từ trong máy ướp lạnh ra. Rodriguez đang nằm duỗi trên chiếc ghế nhung, mắt nhắm, tay cầm một lon bia.
– Mai tôi gặp lại bà nhé.
– Đợi một chút – Evelyn bước đến, cái túi bà cầm trong tay là một món ăn kiêng đông lạnh hiệu En–chilada Fiesta.
– Tốt hơn là để ngày kia đi, tôi quên là mình còn vài việc cần làm nữa.
– Được rồi. Vẫn giờ cũ chứ?
– Tất nhiên – Bà ấy nhìn gói đồ đông lạnh và lắc đầu.
– Thịt bò New York nhé? – Bà ta hỏi chồng.
– Ừ – ông ta đáp mà vẫn không mở mắt.
– Ông ấy thích loại thịt bò của ông ta – Evelyn nói khẽ – Đối với cỡ người của ông ấy, thì ông ấy đúng là một kẻ chuyên ăn thịt.
Bà ấy bước theo tôi đến tận bãi cỏ. Tôi nhìn bữa ăn tối trên tay bà ấy.
– Không ai thích món này, có lẽ tôi ăn vậy.
Tôi bị kẹt xe ở cuối con đường Tây 210 và tiện thể tôi chạy luôn vào nhà để xe, lúc đó khoảng hơn bảy giờ. Khi tôi về đến nhà, con chó nhảy ra mừng, nhưng đầu nó cúi xuống và trông có vẻ thờ ơ. Tôi đã linh cảm có điều gì đó khi thấy nó ở hành lang gần cửa.
– Ồ! – Tôi nói vẻ ngạc nhiên.
Nó càng gục xuống thấp hơn.
– Lỗi của tao là đã nhốt mày. – Tôi xoa cổ nó trong khi nó âu yếm liếm tôi, rồi lon ton chạy đến tủ lạnh.
– Đừng có lục đồ nào, cưng.
Tôi dọn đống bừa bãi, cằn nhằn về trách nhiệm của những người nuôi thú cảnh và bật điện thoại xem có tin nhắn nào không, tự hỏi có ai trả lời quảng cáo của mình không. Nhưng không có ai. Cả tiến sĩ Shirley Rosenblatt, cả ông Silk đều không. Chỉ có người trực tổng đài gửi cho tôi vài cuộc gọi công việc. Tôi quyết định bỏ cái băng cát–xét ra, nhưng giọng nói ấy của đứa trẻ vẫn còn đó và tôi không thể ngồi yên được.
Tôi cho chó ăn và đang nghĩ xem phải làm gì với buổi tối của mình thì Milo gọi đến, lúc đó là tám giờ mười phút.
– Chẳng có dấu vết gì trong băng cả trừ những lời của anh. Có chuyện gì trong đống thư từ ngày hôm nay không? – Giọng anh ấy có vẻ mỏi mệt.
– Không, nhưng tôi có nhận được một cú điện thoại – Tôi nói cho anh ấy về người đàn ông hay cười đó.
– À, đó có thể là một Pisser.
– Là cái gì?
– Có vẻ như anh đã gặp một kẻ điên rồ rồi.
– Anh nói nghiêm túc đó chứ?
Anh ấy im lặng.
– Hầu hết những gã này đều là những thằng nhát gan, thích tránh mặt. Nhưng nói thật, Alex à, ai mà biết được?
Tôi trả lời:
– Tôi nghĩ là có lẽ tôi đã biết được “Tình yêu dối trá” có nghĩa là gì – Và kể cho anh ta nghe về cuộc hội thảo đó.
Anh ta nói:
– Năm 1979. Với những kẻ gàn dở nhớ dai à?
– Anh nghĩ đó là dấu hiệu xấu ư?
– Thôi... Anh đã ăn chưa?
– Chưa.
– Tôi ăn ở Palms rồi, đang ăn nốt vài thư nữa. Tôi có thể gặp anh ở Ocean trong khoảng nửa tiếng nữa.
– Đừng nghĩ là tôi sẽ đến. Tôi đã bỏ khách của mình quá lâu rồi – Tôi nói.
– Khách nào? À, nó à. Sao anh không để mặc nó đi. Bộ nó cô đơn và buồn chán sao?
– Đây không chỉ là vấn đề dạ dày – Tôi nói, xoa xoa phần sau tai con chó – Nó vừa mới ăn và cần được thoải mái.
– Ồ... hay nhỉ. Được rồi, Alex, hãy làm cái cửa chuồng chó đi và rồi nó sẽ có một ngôi nhà.
– Một cái cửa chuồng chó, nghĩa là khoét một cái lỗ. Nó chỉ ở đây một thời gian thôi mà.
– Tùy cậu vậy.
– Tốt – Tôi nói – Tôi sẽ bỏ ra một cái cửa. Anh đem đến một cái được không, mình sẽ lắp nó và rồi chúng ta có thể đi.
– Quái quỷ thật, tôi tìm đâu ra một cái cửa chuồng chó vào giờ này hả?
– Anh là thám tử mà.
Tiếng cửa đóng sầm.
Anh ấy đến lúc chín giờ mười lăm, lôi một chiếc xe Ford chưa bị đánh dấu vào trong nhà xe. Cà vạt để lỏng, trông anh ấy có vẻ ủ rũ. Anh ấy mang theo hai cái túi – một từ cửa hàng dành cho thú nuôi và cái kia là từ một nhà hàng Trung Quốc.
Con chó đứng dậy và sục mõm vào gấu quần của anh ấy và anh vỗ nó một cách miễn cưỡng rồi nói:
– Lối vào và ra.
Bỏ cái máy kỳ cục bằng nhựa và kim loại ra khỏi cái túi từ cửa hàng dành cho thú ra, anh ấy đưa nó cho tôi.
– Thấy là mình không giống một công nhân lao động chân tay trước bữa tối và vì công dân khéo tay của nhà này đã đi vắng nên mình nghĩ chúng ta nên mua đồ ăn sẵn.
Anh ấy đi đến tủ lạnh, con chó đi theo.
Nhìn anh ấy lê bước chậm chạp, tôi nói:
– Nhìn anh có vẻ mỏi mệt, có vụ án mới sao? Anh ấy lấy một chai Grolsch, mở và gật đầu.
– Một vụ cướp có vũ trang, tôi đang làm vụ này ở Palms.. Một hiệu tạp phẩm nhỏ của Mom và Pop. Pop chết cách đây vài tháng. Mom đã tám mươi tuổi, cố gắng gượng. Hai thằng oắt con khốn nạn đến chiều nay, giơ dao lên đe dọa sẽ cưỡng hiếp và cắt vú bà ta nếu bà không giao tủ tiền cho chúng. Bà già nộp cho chúng vào lúc khoảng mười ba hay mười bốn giờ. Bà quá choáng váng nên không thể nói gì thêm, ngực đau, khó thở. Họ đã đưa bà đến St. John để theo dõi.
– Tội quá. Mười hai hay mười ba giờ.
– À, giờ của vụ trộm có nghĩa là bọn nhóc đã đợi đến giờ tan trường để hành động. Những hoạt động ngoại khóa của anh thế nào? Hay chúng chỉ là những đứa trẻ tâm thần trốn học để đi chơi.
– Urban Huck và Tom. Tôi nói.
– Chắc rồi. Hút một đống thuốc và ngủ với Becky Thatcher.
Anh ta ngồi vào bàn và ngửi đầu chai bia. Con chó vẫn ở bên tủ lạnh, nhìn anh ta cứ như thể đang nghĩ cách lại gần. Giọng nói và cử chỉ của Milo làm nó bớt sợ, nó bước lại nằm cạnh chân tôi.
Tôi nói:
– Vậy là không có dấu tay của ai trong băng cả à?
– Chẳng có ai.
– Điều này có nghĩa là gì? Một người nào đó đã mất công xóa nó sao?
– Hoặc là đã dùng găng tay. Hoặc là có dấu vết nhưng chúng đã bị bẩn khi anh sờ vào băng. Anh ấy duỗi chân ra. Thôi cho tôi xem quyển sách anh tìm được đi.
Tôi đi vào thư viện, lấy chương trình hội nghị, rồi đưa cho anh ấy. Anh ấy nhìn chăm chú.
– Không có ai tên Silk ở đây cả.
– Có thể anh ta là một độc giả.
– Trông anh có vẻ căng thẳng – Anh ấy nói và chỉ vào tấm ảnh của tôi – Bộ râu đó, giống của một giáo sĩ Do Thái.
– Đúng vậy, tôi thấy chán – Tôi kể cho anh ấy làm thế nào tôi trở thành đồng chủ tịch hội nghị.
Anh ấy đặt cái chai xuống.
– Năm 1979. Một người nào đó mang một mối hận thù?
– Hoặc là một chuyện nào đó xảy ra gần đây đã gợi lại những ký ức từ năm 79. Tôi đã cố gọi cho Katarina và Rosenblatt, để thử xem liệu họ có thể quên điều gì trong thư không, nhưng cô ấy đã đóng cửa trường ở Santa Barbara, còn anh ta thì không còn luyện tập ở Manhattan nữa. Tôi đã tìm được một nhà tâm lý học ở New York, người có thể là vợ anh ấy và gửi bà ta một lời nhắn.
Anh ấy kiểm tra lại quyển sách.
– Vậy sự hận thù đó có thể là về chuyện gì được nhỉ?
– Tôi không biết, Milo. Thậm chí có thể không phải là hội nghị mà chỉ là một người nào đó tự thấy mình là nạn nhân của bác sĩ trị liệu hoặc liệu pháp. Có thể những điều phàn nàn cũng không có thật, một điều gì đó hoang tưởng, một ảo giác mà sẽ không bao giờ xảy ra với tôi hay với anh.
– Nghĩa là chúng ta bình thường?
– Tất cả chỉ là tương đối thôi.
Anh ấy cười.
– Vậy là anh không nhớ được điều gì kỳ quặc xảy ra ở hội nghị sao?
– Chẳng nhớ gì cả.
– Cái ông de Bosch này, liệu ông ta có phải là người ưa tranh cãi không? Kiểu như tạo kẻ thù chẳng hạn?
– Điều đó thì tôi không biết nhưng tôi chỉ liên lạc với ông ta qua các tác phẩm của ông ta thôi. Chúng không gây tranh cãi.
– Thế còn cô con gái thì sao?
– Tôi cũng nghĩ về điều đó. À, cô ấy có thể đã tạo kẻ thù... một người cáu bẳn thực sự. Nhưng nếu cô ấy là mục tiêu trả thù của một người nào đó, thì tại sao lại dính đến tôi? Tôi chỉ liên lạc với cô ấy trong hội nghị đó thôi.
Anh ấy vẫy quyển sách.
– Đọc đi, ai đó có thể tin các anh là đồng nghiệp được tôn trọng. Cô ta có gây khó cho anh không?
– Cô ta có bất hòa với giám đốc khoa nội của bệnh viện. Tôi đoán rằng bởi vì cô ta đã điều trị cho con gái của ông ấy – một đứa trẻ có nhiều vấn đề, và rồi đòi tiền. Nhưng có lẽ đó hoàn toàn là một chuyện khác.
Anh ấy đặt chai bia trên bàn cà phê. Con chó ngước lên rồi cúi xuống sàn nhà.
– Giọng của đứa bé trong băng – Tôi nói – Điều đó làm anh hình dung ra sao? Và cả cái gã đã giết chết Becky Basille nữa?
– Hewitt. Dorsey Hewitt, ừ, tôi có biết, anh ta thì liên quan gì đến chuyện này?
– Có thể anh ta cũng được de Bosch điều trị. Có thể “Tình yêu dối trá”là một thuật ngữ họ dùng trong liệu pháp. Nhưng nó có nghĩa là gì nhỉ? Một bọn hippi tốt nghiệp khoa liệu pháp và quay trở lại trả đũa bác sĩ của mình sao?
Anh ấy trao quyển sách lại cho tôi.
– Tôi thắc mắc liệu Donald Wallace có từng được de Bosch điều trị không, vẫn phải đợi thông tin thêm từ phía nhà tù. Những bé gái ấy thế nào?
– Thì đại loại là những vấn đề mà anh có thể lường được, chưa kể đến việc bịa ra một cái cớ tốt để tránh bị thăm hỏi. Bà ngoại bọn trẻ thì cởi mở hơn một chút. Tôi đến nhà đó chiều nay. Người chồng hiện tại của bà ta hình như đã nghỉ hưu, có rất nhiều vết xăm tự làm.
Lời tả lại những vết xăm trên da của Rodriguez.
Anh ấy nói:
– Đối phó với những người như thế này, cần cả anh và tôi. Anh ấy duỗi chân và liếc xuống nhìn con chó:
– Này, Rove.
Con chó chẳng thèm để ý đến anh ấy.
– Một con chó tốt – Anh ấy nói và uống bia.
*
Anh ấy đi lúc mười giờ ba mươi. Tôi quyết định hoãn việc lắp cửa chuồng chó đến ngày mai. Robin gọi cho tôi lúc mười giờ năm mươi và nói nàng đã quyết định dứt khoát trở về nhà sớm vào khoảng chín giờ tối mai. Tôi ghi lại số chuyến bay của nàng và nói rằng tôi sẽ đến sân bay LAX để đón nàng, rằng tôi yêu nàng. Sau đó tôi đi ngủ.
Tôi đang mơ về một cái gì đó đầy nhục cảm dễ chịu thì con chó đánh thức tôi khi mới hơn ba giờ sáng. Nó gầm gừ và cào cào đống bụi.
Tôi rên rỉ. Mắt vẫn nhắm nghiền.
Nó càng cào dữ hơn.
– Có chuyện gì?
Im lặng.
Có tiếng sột soạt.
Tôi ngồi dậy.
– Cái gì thế?
Nó làm ra vẻ như một ông già bị ngạt thở.
Thật đáng nguyền rủa cho tôi đã không lắp cái cửa chuồng chó vào, tôi buộc phải ra khỏi giường và tìm đường trong bóng tối như người mù để đến nhà bếp. Khi tôi mở cái cửa ở cổng vòm ra, con chó chạy nhanh xuống cầu thang. Tôi đợi, ngáp và chệnh choạng, càu nhàu:
– Nhanh lên!
Thay vì dừng lại ngồi gần bụi rậm, nó cứ chạy và chẳng mấy chốc đã không thấy đâu.
– A, đi tìm chỗ mới à – Tôi cố mở một mắt. Gió mát từ cửa thổi vào. Tôi nhìn ra ngoài, chẳng thấy nó đâu trong bóng tối.
Sau khoảng một phút hay đại loại như thế, nó không quay trở lại, tôi đi xuống tìm nó. Phải mất một lúc mới tìm thấy. Nó đang ngồi gần nhà xe, và liên tục quay đầu nhìn khắp nơi như thể đang canh chừng kẻ xấu.
– Chuyện gì thế, nhóc.
Nó thở hổn hển, đảo đầu nhanh hơn nhưng không làm động đậy thân mình.
Tôi nhìn quanh lần nữa, vẫn không thể thấy gì nhiều. Cái mùi hỗn hợp của các loài cây nở hoa vào ban đêm lan vào mũi tôi, và những giọt sương đầu tiên làm ướt da tôi. Màn đêm lờ mờ, chỉ có chút ánh trăng rọi xuống, vừa đủ làm vàng mắt con chó.
– Con chó săn của dòng họ Basketballs – Tôi nói và nhớ lại một tờ tạp chí Mad cũ.
Con chó cào cào mặt đất và khụt khịt, lại bắt đầu xoay xoay đầu.
– Gì thế?
Nó bắt đầu bước đến cái ao, dừng lại cách hàng rào chỉ vài bộ, y như cách nó làm lần đầu chúng tôi gặp nhau. Rồi nó đứng lặng.
Cổng đã bị khóa. Đèn hẹn giờ đã tắt hàng giờ rồi. Tôi có thể nghe tiếng thác nước. Nhìn chăm chú qua hàng rào, tôi phát hiện ra một thoáng mờ của một vùng ẩm được mặt trăng chiếu vào ngay khi mắt tôi bắt đầu thích nghi với khung cảnh.
Tôi nhìn lại con chó. Nó vẫn như một tảng đá.
– Mày có nghe gì không?
Cái đầu nó vểnh lên.
– Có thể đó chỉ là một con mèo hoặc một con thú bỏ túi thôi, anh bạn ạ. Hoặc có thể là một con chó sói, có đáng gì với mày đâu. Có gì đâu nào.
Nó vểnh đầu, thở hổn hển, cào cào mặt đất.
– Nghe này, tao hiểu sự cảnh giác của mày, nhưng bây giờ chúng ta về nhà được không?
Nó nhìn tôi chằm chằm. Há miệng ra, gầm nhẹ.
– Tao cũng mệt lắm.
Tôi nói và bước đến cầu thang. Nó vẫn đứng im cho đến khi tôi sắp lên hết cầu thang mới chạy lên với một sự tinh nhanh trái hẳn với dáng vóc của nó.
– Đừng đánh thức tao nữa nhé, được không?
Nó nhe răng ra, vẻ mừng rỡ, nhảy lên giường và nằm ườn ngang người tôi.
Quá mệt để gây lộn với nó, tôi cứ để mặc nó ở đó. Nó thậm chí ngáy trước cả tôi.
*
Sáng thứ tư tôi soát lại trí nhớ của mình: những lá thư và cú điện thoại kỳ quặc, nhưng tôi có thể xoay xở được miễn là không có thêm chuyện nữa. Và tình yêu đích thực của tôi sắp về từ vùng Oakland hoang vu.
Tôi sẽ lấy lại sự thăng bằng. Con chó vẫn bị cột, nó liếm mặt tôi. Khi tôi thả nó ra, nó lại chạy ra ngoài và biến mất.
Lần này nó đến gần cái cửa hơn, dừng lại cách cái then cửa chỉ hai bộ. Tôi đẩy cửa ra và nó bước thêm một bước nữa. Rồi nó dừng lại, thân hình chắc nịch đổ về phía trước.
Cái mặt như con ếch nhỏ bé của nó nghiêng về phía tôi. Có điều gì đó đã làm nó nhăn mặt, mắt nó mở ti hí.
Tôi nhận đoán mâu thuẫn đang diễn ra trong nó. Một mặt nó đấu tranh để vượt qua sự sợ nước. Mặt khác nó đã được ông chủ cũ tận tình dạy nó hãy tránh xa những nơi có nước.
Nó gầm gừ và thò đầu về phía cái cổng. Nó có vẻ giận dữ.
Tôi đoán sai sao? Có cái gì gần hồ làm nó bận tâm ư?
Nó gầm gừ to hơn. Tôi nhìn qua hàng rào và thấy một trong những con cá của tôi: con màu đỏ và trắng, con đẹp nhất và lớn nhất còn sống sót đang nằm trong đám rêu gần bờ hồ.
Một cái áo liền quần của trẻ con. Mẹ kiếp!
Đôi khi chuyện đó cũng xảy ra. Cũng có thể một con mèo hay một con thú có túi nào đó đã lén vào. Và đó là cái mà con chó đã nghe thấy.
Nhưng thân con cá hình như là chưa bị xé rách.
Tôi mở cổng và bước vào. Con chó Bun bước lên cái cột cổng đợi, trong khi tôi quỳ xuống xem kỹ con cá.
Nó đã bị nát, nhưng không có con thú bốn chân nào đã làm điều đó.
Có cái gì thò ra từ miệng nó... một chiếc lá nhỏ, cứng và quăn lại vẫn còn dính chặt một cành của cây thích tôi trồng mùa đông trước.
Tôi liếc nhìn cái cây, thấy chỗ cành cây bị cắt, đã bị thâm thành một vết đen. Một vết cắt gọn, chỉ mới vài giờ thôi. Hẳn là một con dao.
Tôi quay lại nhìn con cá.
Cành cây đâm từ cổ họng và xuyên qua người nó tới tận đuôi như một cái xiên, xé toạc bộ da đẹp và để lại một đống bùng nhùng những ruột và máu như một lớp rêu ố màu kem xám và nâu rỉ.
Tôi cảm thấy tức giận và ghê tởm. Có cái gì đó thoáng chạy qua tôi, đau rát như bị bỏng trên da thịt.
Một lớp vảy ngổn ngang trên lớp rêu. Những chỗ lõm dưới đất có thể là dấu chân.
Tôi nhìn gần hơn. Trong đôi mắt không chuyên nghiệp của tôi, chúng chỉ là những vết lõm chẳng có gì đặc biệt. Vẫn là những chiếc lá ở dưới cây thích, nơi cái nhành cây bị cắt. Cặp mắt chết của con cá cứ trừng trừng nhìn tôi.
Con chó đang gầm gừ.