← Quay lại trang sách

Chương 7

Tôi đào một cái hố nhỏ chôn con cá. Bầu trời trong xanh trên núi Anpơ và vẻ đẹp của buổi sáng sớm thật là một sự nhạo báng đối với công việc của tôi.

Tôi nghĩ đến một bầu trời tươi đẹp khác... buổi diễn trượt tuyết của Katarina de Bosch. Khoảng trời trong xanh như che đi hình dáng ngồi trên xe lăn của bố cô.

Tình yêu cao thượng – Tình yêu dối trá.

Bây giờ có thể chắc chắn đây không chỉ là một trò đùa bệnh hoạn.

Ruồi đang bám đầy cái xác rách bươm của con cá. Tôi bỏ xác nó vào hố rồi xúc đất lấp lại trong sự chứng kiến của con chó.

– Lẽ ra tối qua tao phải xem việc này nghiêm túc hơn.

Nó vểnh đầu lên và chớp chớp đôi mắt nâu dịu dàng.

Đất lấp mộ là một nắm đất đen mà tôi đã giẫm lên. Sau khi nhìn lại lần cuối, tôi lê bước vào nhà, cảm giác mình như một đứa trẻ bị theo dõi, tôi gọi Milo. Nhưng anh ấy không có ở đó, tôi ngồi vào bàn, chán chường và giận dữ.

Một kẻ nào đó đã xâm phạm tài sản của tôi và đã theo dõi tôi.

Quyển sách mỏng màu xanh đặt trên bàn, tên và bức ảnh của tôi, logic tuyệt hảo cho các bằng chứng kể trên.

Hãy đọc cái này, ai đó có thể tin các anh là những đồng nghiệp được trọng vọng.

Tôi gọi đến văn phòng. Vẫn không thấy Shirley Rosenblatt gọi lại. Có thể bà ấy không phải là vợ của Harvey... Tôi cố gọi cho bà ấy lần nữa, vẫn chỉ nhận được lời nhắn ghi âm cũ và tôi bực dọc dập máy.

Tay tôi bắt đầu vân vê quyển sách, vò nó rồi mắt tôi chợt dán vào cuối trang, tôi dừng lại và vuốt tờ giấy cứng.

Có những cái tên khác. Ba phát ngôn viên khác.

Wilbert Harrison, M.D, FACP

Nhà phân tâm học thực hành

Bevely hill, California.

Grant P.Stoumen, M.D, FACP

Nhà phân tâm học thực hành.

Bevely hill, California

Mitchell A.Lerner, M.S.W, ASCW

Bác sĩ khoa phân tâm học Bắc Hollywood, California.

Harrison người mập mạp, khoảng năm mươi tuổi, da trắng, trông rất vui nhộn với cặp kính gọng đen. Stoumen già hom, hói và hơi tỉa tót, ria trắng. Lerner là người trẻ nhất trong số họ, tóc quăn dài, cổ cao, râu xồm xoàm giống như tôi và Rosenblatt.

Tôi chẳng còn nhớ gì ngoài những thứ đó. Các chủ đề, những trang bài của họ chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Tôi ngồi trên bệ, nghĩ lan man, tức giận về việc mình có mặt ở đó.

Họ là ba người địa phương.

Tôi mở danh bạ điện thoại ra. Cả Harrison lẫn Lerner đều không ở đó, nhưng Grant p.Stoutmen, M.D vẫn còn một văn phòng ở dãy nhà phía Bắc đường Bedford – đồi Bevely. Một người trực tổng đài trả lời:

– Đây là Joan, bác sĩ tâm thần đồi Bevely.

Cũng là dịch vụ mà tôi đã dùng. Cũng là giọng nói mà tôi đã từng trò chuyện.

– Joan, bác sĩ Delaware đây.

– Xin chào, bác sĩ Delaware. Không ngờ lại có thể nói chuyện với anh sớm như vậy.

– Thế giới này nhỏ lắm mà – Tôi nói.

– Ừ, mà không, thực ra chuyện này cũng thường xảy ra, chúng tôi có rất nhiều bác sĩ, anh cần gặp ai trong nhóm?

– Bác sĩ Stoutmen.

– Bác sĩ Stoutmen à? – Giọng cô ta thấp hơn – Nhưng anh ấy đi rồi.

– Đi khỏi nhóm à?

– Khỏi... cuộc đời này, bác sĩ Delaware ạ, anh ấy chết sáu tháng trước, anh không nghe gì sao?

– Không – Tôi trả lời – Tôi không biết anh ấy.

– Vâng. Thật là chuyện đáng buồn. Chẳng ai ngờ, dù rằng ông ấy đã khá già.

– Ông ấy chết vì nguyên nhân gì?

– Tai nạn ô tô. Tôi nghĩ là tháng 5, ở ngoài thị trấn, tôi không nhớ chính xác chỗ nào. Ông ấy đang đến một hội nghị nào đó thì bị một chiếc xe ô tô cán phải. Kinh khủng quá phải không?

– Một hội nghị à?

– Anh biết đấy, một trong những cuộc họp y khoa ấy mà. Ông ấy cũng là một người tốt, không bao giờ mất kiên nhẫn như một số... – Có tiếng cười lo lắng – Bỏ câu bình luận đó đi, bác sĩ Delaware. Dù sao, nếu như anh đang cần gọi cho một bệnh nhân, bệnh nhân của bác sĩ Stoutmen bị tách ra với bệnh nhân của các bác sĩ khác trong nhóm, do đó tôi không thể tìm được người anh cần gọi.

– Có bao nhiêu bác sĩ trong nhóm?

– Carney, Langenbaum và Wolf. Langenbaum đang nghỉ phép, nhưng hai người còn lại đang ở trong thị trấn, hãy gọi cho họ.

– Còn lời khuyên nào nữa không?

– À... – Lại một tiếng cười lo lắng nữa – Cả hai người họ đều bình thường. Nhưng Wolf có vẻ thích giao tiếp hơn một chút.

– Wolf sẽ tốt thôi. Đó là ông hay bà vậy?

– Là ông. Stanley Wolf, M.D. Hiện giờ ông ấy đang họp, tôi sẽ nhắn lại.

– Cám ơn Joan.

– Không có chi, bác sĩ Delaware. Chúc một ngày tốt đẹp.

*

Tôi lắp cửa chuồng chó chậm chạp, bởi vì tôi cứ dừng việc cưa và gõ búa lại để lắng nghe tiếng bước chân trong nhà hay những tiếng động khả nghi ngoài hiên.

Hai giờ sau tôi bước ra vườn và nhìn quanh, tay nắm chặt.

Nấm mộ của con cá chỉ là một nắm đất đen hình elip. Những cái vảy cá khô và những vết bẩn màu nâu xám mượt nổi rõ bên bờ hồ.

Tôi quay trở về, tô vẽ một chút quanh khung cửa, rồi lau sạch và uống một chai bia. Con chó thích thú thử cái cửa ra vào mới của nó, cứ chạy vào rồi lại ra mãi. Cuối cùng, chán và thấm mệt, nó lăn ra ngủ ngay dưới chân tôi. Tôi nghĩ xem ai là người muốn đe dọa hay làm tổn thương tôi. Hình ảnh con cá chết thảm thương cứ ám ảnh mãi trong đầu tôi. Mười một giờ, con chó thức dậy và chạy ra cửa trước. Một lúc sau, hòm thư của tôi đã đầy.

Tôi lựa thư ra, một cái có địa chỉ trả lại của hòm thư Folsom và một hàng chữ in tay mực đỏ 11 số phía trên. Bên trong chỉ có một tờ giấy vở thông thường, cũng được in mực đỏ.

Gửi bác sĩ A.Delaware

Chào bác sĩ Delaware,

Tôi viết thư này cho ông để bày tỏ cảm xúc của mình về việc thăm các con gái tôi, là Chondra Wallace và Tiffani Wallace với tư cách là bố và người bảo trợ hợp pháp của chúng.

Dù có chuyện gì đã xảy ra với gia đình tôi, trong đó có cả trách nhiệm của tôi và dù cho chuyện đó theo tôi có tồi tệ như thế nào, chúng vẫn là con tôi. Chính vì thế, tôi không nên bị tước đi quyền làm cha và quyền được thăm các con hợp pháp.

Tôi chưa hề làm gì tổn thương chúng và tôi luôn làm việc chăm chỉ để giúp chúng ngay cả khi khó khăn nhất. Tôi không có đứa con nào khác và cần phải được thăm chúng, để chúng tôi có thể còn một chút hơi ấm gia đình.

Bọn trẻ cần có bố, đó là điều mà tôi chắc là không cần phải nhắc một bác sĩ được đào tạo tốt như ông. Một ngày nào đó tôi sẽ ra tù. Tôi là bố chúng và tôi sẽ chăm sóc chúng. Chondra và Tiffani cần tôi. Xin ông lưu ý đến điều này.

Chân thành cảm ơn.

Donald Dell Wallace

Tôi lưu bức thư vào một xấp tài liệu dày, bên cạnh bản báo cáo về cái chết bất thường của Ruthanne. Đến trưa thì Milo gọi đến và tôi kể cho anh ấy về việc con cá.

– Không chỉ là một trò chơi khăm phải không?

Anh ấy dừng một chút.

– Hơn tôi tưởng.

– Donald Dell biết địa chỉ của tôi, tôi vừa mới nhận được một bức thư của anh ta.

– Hắn ta viết gì?

– Một ngày nào đó hắn ta sẽ ra tù và muốn trở thành một ông bố có trách nhiệm, vì thế lúc này tôi không nên từ chối quyền lợi của hắn.

– Một lời đe dọa tinh vi à?

– Anh có thể chứng minh không?

– Không, hắn có thể đã có được địa chỉ của anh qua luật sư của hắn. Anh đang xem xét sự thỉnh cầu của hắn, nên hắn có quyền làm như thế một cách hợp pháp. Chắc là một sự ngẫu nhiên thôi, vì theo nguồn tin của mình hắn chẳng có một cái máy ghi âm nào trong xà lim cả. Ti vi và đầu máy video thì có.

– Thật là phũ phàng và khác thường. Vậy tôi phải làm gì?

– Để tôi đi xem và kiểm tra cái ao của anh, xem anh có để ý bất cứ dấu chân hay chứng cứ rõ ràng nào không?

– Có vài dấu vết – Tôi nói – dù chúng chẳng có vẻ giống lắm dưới con mắt không chuyên của tôi. Có thể có những chứng cứ khác mà tôi không đủ tinh tế để nhận ra. Tôi đã cẩn thận không đụng vào cái gì cả. Ôi, chết tiệt thật. Tôi đã chôn con cá. Liệu tôi có xử lý kém quá không?

– Đừng lo, chúng ta không cần phải mổ xẻ nó đâu – Anh ấy có vẻ bực bội.

– Chuyện gì thế? – Tôi hỏi.

– Chẳng có gì cả. Tôi sẽ qua và xem thế nào ngay khi tôi có thể. Có lẽ là vào buổi chiều.

Tôi hỏi:

– Có chuyện gì thế, Milo?

– Chuyện gì à? Có nghĩa là tôi không thể làm cả một cuộc điều tra giúp anh về chuyện này được. Giết một con cá không phải là một tội ác nghiêm trọng, cùng lắm thì nó chỉ là một trò tinh nghịch ranh mãnh mà thôi.

– Tôi hiểu.

– Tôi có thể lấy một vài mẫu dấu chân – Anh ấy nói – Để xem chúng có giá trị...

– Xem này – Tôi nói – Tôi vẫn không xem nó như một vụ tầm cỡ liên bang gì. Có thể chỉ là một chuyện nhảm nhí hèn hạ thôi. Bất cứ kẻ nào đứng đằng sau nó có lẽ cũng không muốn một sự đối đầu.

– Có lẽ không. Anh ấy nói nhưng vẫn có vẻ khó chịu và điều đó bắt đầu làm tôi lo lắng.

Tôi nói:

– Có chuyện gì khác kia. Mặc dù có thể chuyện này cũng chẳng có gì. Tôi đã xem lại quyển sách mỏng của hội nghị và thử liên lạc với ba bác sĩ trị liệu địa phương có bài phát biểu trong hội nghị. Hai người không có trong danh bạ điện thoại, một người có thì đã chết mùa hè vừa rồi. Anh ta bị đâm xe hơi trong khi đang tham dự một hội nghị chuyên đề về tâm thần học. Tôi phát hiện ra điều đó vì dịch vụ trả lời điện thoại của anh ta tình cờ trùng với dịch vụ tôi đang dùng và người trực tổng đài nói cho tôi biết.

– Bị giết ở L.A này à?

– Bên ngoài thị trấn, có lẽ là không có gì. Điều duy nhất bắt đầu khiến tôi khó chịu là tôi không thể tiếp cận được với bất cứ ai có liên quan đến hội nghị của de Bosch. Rồi lại nữa, sau một thời gian dài, họ đều chuyển đi.

– Ừ.

– Milo, anh có vẻ bực bội thế, sao vậy?

Im lặng một lát, rồi anh ấy nói:

– Tôi nghĩ xét đến mọi chuyện đã xảy ra, gắn kết chúng lại với nhau và anh có lý khi cần phải đề phòng một chút. Không phải là hoang tưởng đâu, chỉ là hơi cẩn thận thôi.

– Tốt thôi – Tôi nói – Tối nay Robin về. Tôi sẽ ra sân bay đón cô ấy. Tôi phải nói gì với cô ấy đây?

– Nói sự thật, cô ấy là một người cứng cỏi.

– Một cách chào mừng cô ấy về nhà.

– Anh đón cô ấy lúc mấy giờ?

– Chín giờ.

– Tôi sẽ đến trước giờ đó và chúng ta sẽ cùng suy nghĩ. Nếu anh muốn, tôi có thể ở nhà trong khi anh đi. Chỉ cần cho tôi ăn uống và bảo Rover đừng có đòi hỏi gì.

– Chính Rover đã phát hiện kẻ xâm nhập đó.

– Ừ, nhưng nó không ghi bàn, Alex ạ. Thay vì ăn thịt gã đó thì nó chỉ đứng quanh nhìn. Con chó của anh chỉ là một tên vô dụng bốn chân thôi.

– Anh khắt khe quá – Tôi nói – Anh đã bao giờ xem Lassier chưa?

– Dẹp đi, tôi thích Godzilla. Có một con vật có ích.

*

Cho đến ba giờ, không ai trả lời điện thoại của tôi và tôi cảm giác mình như một nhân vật hoạt hình, trên một hòn đảo cô lập. Tôi làm công việc giấy tờ và cứ luôn nhìn ra ngoài cửa sổ. Lúc ba giờ rưỡi, tôi và con chó mạo hiểm tản bộ bên ngoài quanh khu Glen và khi trở về tôi không thấy có dấu hiệu đột nhập nào.

Ngay sau bốn giờ, Milo đến, trông có vẻ vội vã và chán chường. Khi con chó đến gần, anh không thèm để ý.

Anh ấy cầm một cái máy cát–xét trong tay, tay kia là cái túi tùy viên bằng nhựa. Thay vì đi thẳng đến nhà bếp như thường lệ, anh ấy đi vào phòng khách và nới lỏng cà vạt. Đặt cái giỏ lên bàn cà phê, anh ấy đưa cho tôi cuộn băng.

– Băng gốc ở trong tập hồ sơ của tôi, đây là bản sao cho anh.

Nhìn thấy cuộn băng tôi hồi tưởng lại những tiếng kêu la và giọng hát của đứa trẻ đó... Tôi bỏ nó vào ngăn bàn và đi ra cái ao, nơi tôi chỉ cho Milo những dấu chân.

Anh ấy quỳ xuống và xem xét một lúc lâu. Đứng đó, nhíu mày tư lự.

– Anh nói đúng, những cái này chẳng giúp ích gì cả. Tôi trông có vẻ như ai đó đã tốn thời gian xáo trộn chúng đi vậy.

Anh ấy kiểm tra thêm khu vực quanh hồ một lần nữa, nhưng chỉ tổ làm bẩn ống quần.

– Không, ở đây chẳng có gì đáng giá cả, mẹ kiếp. Tiếc quá.

Cũng cái giọng gây khó chịu đó của anh ấy mà tôi đã nghe trong điện thoại. Anh ấy đang giấu tôi một điều gì đó, nhưng tôi biết chẳng thể thăm dò được gì.

Trở lại phòng khách, tôi hỏi:

– Uống gì không?

– Để sau – Anh ấy mở cái cặp nhựa và lấy ra một cái hộp plastic màu nâu. Lấy một cuộn băng video ra, đặt nó trên đùi.

Cuộn băng không được đánh dấu nhưng cái hộp có in những dòng chữ liên lạc của một đài truyền hình địa phương. Bắt chéo qua nhãn là một hàng chữ khắc: TÀI SẢN LAPD: BẰNG CHỨNG RM và một dãy số.

– Điểm dừng cuối cùng của Dorsey Hewitt – Anh ấy nói – Rõ ràng là không đúng lúc nhưng có một số thứ tôi muốn anh kiểm tra nếu anh thấy được.

– Tôi sẽ thử xem.

Chúng tôi đi vào thư viện. Trước khi bỏ cuộn băng vào máy, anh ấy nhìn chăm chú vào cửa máy.

– Lần cuối cùng anh tra dầu cho máy là khi nào?

– Chưa bao giờ – Tôi trả lời – Tôi rất ít khi dùng nó, trừ khi phải ghi hình phiên họp, khi tòa muốn có những hình ảnh.

Anh ấy thở dài, đẩy cuộn băng vào, lấy cái điều khiển, ấn nút play rồi đứng lùi lại, xem hiệu đính viên, trong khi tay gập ngang thắt lưng. Con chó nhảy lên một cái ghế da lớn, ngồi yên đó, và canh chừng anh ấy. Màn hình chuyển từ màu đen sang màu xanh nhạt và tiếng xì xào phát ra qua phát ngôn viên.

Thêm nửa phút màu xanh nữa, rồi logo của đài truyền hình lóe lên những con số ngày tháng, khoảng hai tháng trước.

Thêm một lúc nữa, màn hình bị gián đoạn bởi hình ảnh dài của một tòa nhà bằng gạch một tầng rất thu hút với mái vòm chính giữa dẫn đến một cái sân và những cánh cửa sổ bằng gỗ. Mái nhà lợp ngói và những cánh cửa màu nâu bên phải mái vòm.

Cuối cùng là một cái biển: Trung tâm Sức khỏe tâm thần vùng Los Angeles, bờ Tây.

Đung đưa giữa bức tranh là hai hình người nhỏ, mặc quần áo màu sẫm núp dưới phần đối diện của mái vòm, giống như một bức tượng G.I.Joe bằng đồ chơi đang cầm súng.

Cảnh kế bên là những hàng rào cảnh sát chắn đường.

Không có âm thanh nào khác ngoài sự yên lặng, nhưng tai của con chó đã vểnh lên và dỏng về phía trước.

Milo tăng âm thanh và chúng tôi có thể nghe được một tràng câu nói xen lẫn tạp âm khó hiểu.

Chẳng có gì trong vài giây sau đó, rồi một trong hai hình người sẫm di chuyển, vẫn ngồi xổm nhưng thay đổi vị trí sang bên trái cánh cửa. Một hình người khác bước từ một xó ra, hạ thấp người như quỳ xuống, cả hai tay đều cầm súng.

Tiếp đến là cảnh quay gần, màu áo của người đó chuyển từ sẫm sang màu xanh nước biển, để lộ lớp áo bảo vệ, với những chữ trắng có thể đọc là LAPD ngang cái lưng rộng. Họ mang giày chiến đấu. Mạng che mặt trượt tuyết màu xanh chỉ để lộ đôi mắt, tôi liên tưởng đến những tên khủng bố ở Mu–nich và biết rằng một điều gì đó tồi tệ sắp xảy ra.

Nhưng không có chuyện gì trong những phút sau đó. Đôi tai con chó vẫn dỏng cao và nó thở nhanh hơn.

Milo cọ hai chiếc giày với nhau và lấy tay che ngang mặt. Sau đó cánh cửa màu nâu mở ra đu đưa trước hai người. Một người đàn ông có râu, tóc dài, gầy guộc. Bộ râu là một mớ rối bù những sợi râu vàng xám. Trên vầng trán xương xương rúm ró, mái tóc của ông ta được tết thành những lọn bông, giống như ông mặt trời u ám khó coi của đứa trẻ.

Máy camera lia qua hắn làm rõ làn da bẩn, cặp má hóp, đôi mắt hằn những tia máu lồi thật to như muốn choán hết bộ mặt râu ria xồm xoàm của hắn.

Hắn ta cởi trần và vã mồ hôi liên tục. Cặp mắt hoang dại của hắn đảo liên tục, không chớp cũng không giữ yên. Miệng hắn há hốc ra như bệnh nhân có vấn đề về răng nhưng không phát ra tiếng gì. Dường như hắn không có răng.

Tay trái của hắn giữ chặt một người phụ nữ da đen béo, bàn tay ôm chặt vòng eo mềm mũm mĩm của bà ta, đến nỗi những ngón tay gần như biến mất.

Người phụ nữ mặc chiếc váy màu xanh lá cây, khoác chiếc áo khoác trắng, hở một phần bên ngoài. Cô ta khoảng ba mươi lăm tuổi, khuôn mặt đầy mồ hôi lẫn nước mắt. Môi cô ta trề ra và miệng há hốc vì kinh hoàng, làm lộ cả hai hàm răng.

Bên tay phải của gã cầm một sợi dây buộc quanh cổ người phụ nữ. Một thứ gì đó lóe sáng trong tay hắn khi hắn kề lên cổ họng cô.

Cô gái nhắm chặt mắt.

Hắn ngả người vào cô, kéo cô lại gần, chìa cổ cô ra và để lộ một con dao lớn sáng loáng. Bàn tay hắn vấy máu, lưỡi dao cũng dính đầy máu. Chỉ có gót chân cô chạm vỉa hè, cô mất thăng bằng, trở thành một vũ công bất đắc dĩ.

Gã chớp mắt, rồi lia mắt nhìn một trong số những cảnh sát. Một vài khẩu súng nhằm vào hắn, không ai cử động.

Cô gái run rẩy, bàn tay bị nắm vô tình cử động và để lộ ra một vết nhỏ màu đỏ trên cổ. Vết sưng đó nổi lên như một viên hồng ngọc.

Cô mở mắt và nhìn chăm chăm về phía trước. Gã hét lên một điều gì đó và cô nhắm mắt lại.

Chiếc camera đặt giữa họ, rồi chuyển nhẹ nhàng sang một anh cảnh sát đội SWAT.

Không một ai nhúc nhích.

Con chó đang ngồi trên ghế, thở mạnh.

Khuỷu tay cầm dao của gã đàn ông có râu run run.

Gã ngậm miệng lại, rồi lại há ra, như là đang hét trong lồng ngực, nhưng giọng hắn lại chẳng cho thấy điều đó.

Miệng cô gái vẫn mở ra. Máu ở vết thương của cô đã đông lại thành một vệt khô.

Một chiếc giày của cô bị tuột. Hắn không thèm để ý, nhìn dáo dác mọi nơi, nhìn cảnh sát, miệng không ngừng la hét.

Bất thình lình có một tiếng động rất lớn, một cái micro mới. Con chó bắt đầu sủa. Gã cầm dao la hét, rồi có một tiếng gào khàn khàn và nhão nhẹt.

Tiếng thở hổn hển. Không ai nói lời nào.

Tiếng thét đau đớn.

Tay tôi đập vào đùi. Milo cúi sát mặt vào màn hình, bất động.

Gã có râu liên tục xoay xoay đầu nhanh hơn, mạnh hơn như thể đang bị tát. Tiếng thét to hơn. Hắn càng nhấn mạnh con dao vào cằm cô gái.

Mắt cô gái vụt mở ra.

Con chó chuyển từ sủa sang gầm gừ trong yết hầu, nghe có vẻ hăm dọa hơn những tiếng sủa của nó tối hôm qua.

Tên cầm dao đang hướng những tiếng hét của hắn vào viên cảnh sát đội SWAT ở bên trái hắn, tiếng kêu gào cứ như hai người đang là bạn thân bỗng hóa thành thù hận.

Viên cảnh sát chắc đã nói một điều gì đó, bởi vì kẻ điên kia thét to hơn. Hắn gào rống lên.

Gã quay lại, ghì chặt cô gái hơn nữa, giấu mặt mình vào cô khi hắn lôi cô vào ô cửa.Rồi sau đó có tiếng cười và tiếng vặn tay nhanh, gọn. Thêm một dấu máu nữa, to hơn cái trước hằn trên cổ họng cô gái.

Cô ta nhấc tay lên một cách vô thức, cố thoát khỏi con dao nhưng mất thăng bằng và ngã nhào.

Trọng lượng và cử động của cô làm gã ngạc nhiên và trong khoảnh khắc khi hắn cố dựng và kéo cô về phía sau, hắn hạ cánh tay phải xuống. Một âm thanh đanh thép nhanh gọn như tiếng vỗ tay, trên má phải của gã hiện lên một nốt đỏ. Hắn dang tay ra và nhận thêm một nốt nữa ngay bên trái nốt trước.

Người phụ nữ ngã xuống lề đường khi một loạt đạn vang lên như tiếng ngô rang trong một phòng vọng tiếng. Ngực hắn vỡ tung và mặt hắn sẫm đỏ giống như cái kính vạn hoa trắng và hồng banh ra khi bị nổ tung.

Con tin đã được giải thoát. Những tia máu bắn vào người phụ nữ. Gã kia, bây giờ đã chết, người rũ xuống, tả tơi, tay vẫn nắm chặt con dao, máu từ đầu hắn phun ra. Hắn chết rồi nhưng vẫn chưa ngã ra, người hắn gập xuống đầu gối, cái đầu bị bắn của hắn che khuất vai con tin.

Rồi đột nhiên hắn buông con dao ra và đổ sụp xuống người phụ nữ, mềm nhũn như một cái chăn. Người phụ nữ xoay người, lách khỏi hắn, từ từ đứng lên, thổn thức và lấy tay ôm đầu.

Cảnh sát chạy về phía cô.

Một bàn chân trần của kẻ đã chết chạm vào chân cô. Cô không để ý nhưng một viên cảnh sát trông thấy và đá nó ra. Một cảnh sát khác, vẫn còn mang mạng che mặt đứng ngang xác chết, chân duỗi ra chĩa súng.

Màn hình trở thành màu đen rồi xanh nhạt.

Con chó lại sủa to và quả quyết.

Tôi bảo nó im. Nó vểnh đầu lên nhìn tôi chăm chăm, bối rối. Tôi đến vỗ nhẹ lưng nó. Nó giật mình và nước dãi nhỏ xuống miệng.

– Được rồi, cưng – Giọng tôi lạc đi và tay tôi lạnh ngắt. Con chó liếm tay tôi rồi lại ngước nhìn tôi.

– Được rồi – Tôi lặp lại.

Milo tua lại cuộn băng. Quai hàm anh ấy co lại.

Cảnh đó diễn ra trong bao lâu, chắc chỉ một vài phút? Nhưng tôi cảm thấy rất lâu.

Tôi vỗ con chó thêm mấy cái nữa. Milo chăm chú nhìn các con số trên mặt chiếc VCR.

– Hắn, phải không? Tôi nói. Hewitt. Kẻ đã thét lên trong cuộn băng của tôi?

– Hắn hoặc một kẻ rất giỏi giả mạo.

– Người phụ nữ tội nghiệp đó là ai?

– Adeline Potthurst, một nhà hoạt động xã hội ở trung tâm đó. Cô ta tình cờ ngồi đúng ở cái bàn xui xẻo khi hắn chạy ngang qua sau khi giết Becky.

– Cô ấy thế nào rồi?

– Về thể trạng thì tốt rồi, chỉ có một vết rách nhỏ. Còn về tâm lý? – Anh ấy nhún vai – Cô ấy xin nghỉ phép, từ chối nói chuyện với tôi và bất cứ người nào khác.

Anh ấy lấy tay vuốt dọc kệ sách, nhìn gáy sách và đồ chơi.

– Anh nghĩ chuyện này thế nào? Tôi hỏi. Có phải là Hewitt trong cuộn băng “Tình yêu dối trá” không?

– Thật sự là tôi không chắc về điều mà tôi hình dung ra.

Anh ấy nhún vai. Tóc trên trán anh ấy rũ xuống thành một hình vành nón ngang qua lông mày và trong ánh sáng yếu ớt của thư viện, đôi mắt xanh của anh ấy trở nên nâu xám.

Băng đẩy ra. Milo đặt nó trên bàn và ngồi xuống. Con chó núng nính đi theo anh ấy và lần này Milo nhìn nó với vẻ dễ chịu.

Vừa xoa cái cổ dày của nó, anh ấy nói:

– Khi tôi nghe cuốn băng của anh lần đầu tiên, có cái gì đó làm tôi khó chịu, gợi cho tôi một điều gì đó. Nhưng tôi không biết là cái gì, vì thế tôi không nói với anh. Tôi nghĩ đó có lẽ là chữ “Tình yêu dối trá”...Hewitt đã dùng cái cụm từ đó. Tôi đã đọc được cụm từ đó trong bản tường trình nhân chứng của giám đốc một bệnh viện.

– Trước đó anh đã xem cuốn băng này chưa?

Anh ấy gật đầu.

– Nhưng ở nhà ga, với nửa cái tai, có rất nhiều thám tử khác ngồi xung quanh, cười đùa. Lúc đó tôi đang điền vào đơn, làm một số công việc giấy tờ... Khi anh nói với tôi về cuộn băng, nó vẫn chưa gợi nhớ được gì, nhưng tôi không bực mình như thế. Tôi cứ nghĩ anh có một trò đùa tệ hại.

– Cú điện thoại và vụ con cá làm cho chuyện đó không chỉ là một trò đùa phải không?

– Cú điện thoại là một sự ngu ngốc, như anh nói đấy, một thằng hèn nhát. Ai đó xâm phạm tài sản của anh vào nửa đêm và giết một con cá. Tập hợp tất cả những điều đó lại thì còn nhiều vấn đề. Nhiều như thế nào thì tôi không biết, nhưng tôi thích một chút hoang tưởng hơn là bị bất ngờ. Sau khi chúng ta nói chuyện điện thoại chiều nay, tôi thật muốn vỡ đầu về việc cái gì đã làm tôi bận tâm. Tìm lại tập hồ sơ Bassile tôi tìm được cuộn băng và xem nó. Và tôi nhận ra rằng không phải tôi nhớ cụm từ đó mà là tiếng hét. Ai đó đã gài tiếng hét của Hewitt vào trong món quà nhỏ của cậu.

Anh ấy bỏ bàn tay ướt của mình khỏi bụng con chó, nhìn tay rồi cọ nó vào áo jacket của mình.

– Anh lấy cuộn băng từ đâu? Băng gốc của đài truyền hình à?

Milo gật đầu. Tôi hỏi:

– Cảnh này thật ra đã được chiếu bao nhiêu phần trăm?

– Không nhiều. Đài truyền hình này có một đội theo dõi tội phạm hoạt động hai mươi tư trên hai mươi tư giờ với một cái máy soi, bất cứ cái gì để có thể theo dõi được, phải không? Họ đến hiện trường đầu tiên và là những người duy nhất ghi được toàn bộ cảnh này. Họ chỉ chiếu được khoảng mười phút, hầu như chỉ là những cảnh tĩnh trước khi Hewitt bước ra cùng với Adeline. Đoạn anh vừa xem khoảng ba mươi lăm giây.

– Chỉ có thể thôi à? Tôi tưởng nó phải lâu hơn chứ.

– Tưởng lâu, nhưng nó chỉ có thể. Đoạn được chiếu thật trên bản tin lúc sáu giờ chỉ có chín giây thôi. Năm giây cảnh Hewitt và Adeline, ba giây cận cảnh đối đầu giữa hắn và cảnh sát, một giây hắn ngã xuống. Không có cảnh máu chảy, tiếng la hét, cũng không có cảnh kẻ chết gượng đứng.

– Không có chất khử mùi – Tôi cố đẩy hình ảnh cái thi hài loạng choạng đó khỏi tâm trí mình – Tại sao lại không có tiếng trong hầu hết các cảnh. Trục trặc kỹ thuật à?

– Ừ, sợi dây cáp trong micro của họ bị lỏng. Đến nửa chừng thì nhân viên âm thanh mới phát hiện ra.

– Thế các đài khác chiếu những gì?

– Những phân tích khám nghiệm tử thi từ người phát ngôn của bộ phận khám nghiệm.

– Vậy là nếu như những tiếng hét trong cuộn băng của tôi bị đánh cắp thì mẩu tin đặc biệt này chính là đầu mối.

– Cứ nghĩ theo cách đó.

– Nghĩa là sao? Ông Silk là nhân viên đài truyền hình à?

– Hoặc là vợ chồng, con cái, người yêu, bạn hoặc bất cứ người thân nào khác. Nếu anh đưa cho tôi danh sách những bệnh nhân của anh tôi sẽ thử tìm các hồ sơ của đài truyền hình và kiểm tra chéo.

– Tốt hơn anh nên đưa cho tôi danh sách những cá nhân. Tôi sẽ kiểm tra nó với danh sách các bệnh nhân của tôi và như vậy tôi có thể đảm bảo được bí mật cho các khách hàng.

– Tốt. Anh gắng lấy danh sách những người tham dự hội nghị “Tình yêu dối trá” nhé. Bất cứ ai có mặt. Cũng khá lâu rồi, nhưng có thể là bệnh viện còn lưu lại hồ sơ.

– Ngày mai tôi sẽ gọi cho họ.

Milo đứng dậy và vuốt cổ họng mình.

– Còn bây giờ thì tôi khát nước.

Chúng tôi đi vào bếp, mở bia ra uống và nghiền ngẫm.

Con chó đứng giữa hai đứa tôi, liếm mép.

Milo nói:

– Không cho nó thưởng thức một chút à?

– Nó không thích uống rượu bia – Tôi đứng dậy và đẩy ly bia về phía nó, nhưng nó không thèm để ý.

– Đồ khỉ. Chỉ thích nhảy cỡn và mạch nha thôi, cứ như nó đã đóng cửa vài cái quán trong thời của nó vậy.

– Có một cơ hội cho anh. Hãy ủ một loại bia nhẹ cho những con vật bốn chân. Mặc dù tôi không chắc anh có thể đặt tiêu chuẩn quá cao cho những loài thích thưởng thức bên ngoài nhà vệ sinh.

Milo phá lên cười, tôi cũng cố nở một nụ cười.

Cả hai chúng tôi đều cố quên cuộn băng và cả những thứ khác.

– Có một khả năng khác – Tôi nói – Có thể giọng của Hewitt không phải được lấy từ cuộn phim chiếu đó. Có thể hắn đã bị một người nào đó ở trung tâm tâm thần thu băng cùng lúc đó. Người nào đó đã tình cờ có một cái máy thu đúng cái ngày vụ án xảy ra và đã bật nó trong suốt quá trình đó. Có thể có những cái máy như thế ở quanh trung tâm để phục vụ điều trị.

– Cậu nói rằng có một bác sĩ tâm thần đứng đằng sau vụ này?

– Tôi nghĩ đến một bệnh nhân hơn. Một vài kẻ hoang tưởng thường rất tôn sùng việc giữ các máy thu âm. Tôi đã từng thấy một số máy thu âm xung quanh họ. Một kẻ nào đó mang một mối hận thù từ năm 79, rất có thể là một kẻ hoang tưởng cao độ.

Milo gật gù:

– Một kẻ điên rồ với một cái máy Sony bỏ túi, hà... Một kẻ mà anh đã từng chữa trị và cuối cùng vào trung tâm tâm thần?

– Hoặc cũng có thể chỉ là một kẻ nhớ ra tôi đã dự hội nghị và cuối cùng bị gửi vào trung tâm tâm thần. Một kẻ đánh đồng tôi với “Tình yêu dối trá”. Nó có nghĩa gì đối với anh ta. Có lẽ hắn tức giận với liệu pháp tồi hoặc hắn nghĩ liệu pháp là xấu xa. Lý thuyết của de Bosch liên quan đến việc những bà mẹ tồi tệ bỏ rơi con. Sự phản bội. Nếu anh nghĩ các bác sĩ chuyên khoa như những bậc cha mẹ thay thế, thì sẽ không khó để hiểu được sự căng thẳng đó.

Milo đặt chai bia xuống và nhìn lên trần nhà.

– Như vậy là chúng ta đã có được điểm nút, một trong những bệnh nhân của cậu, thấy xuống sức không thể chịu được việc điều trị cá nhân vì thế cần sự giúp đỡ của chính quyền. Anh ta vô tình có mặt tại trung tâm đúng cái ngày mà Hewitt điên lên và giết Becky. Với cái máy ghi âm ở trong túi quần có thể giám sát được tất cà những ai đằng sau lưng hắn. Hắn nghe tiếng thét và bấm nút thu... Tôi nghĩ cũng có thể. Cái gì cũng có thể xảy ra ở thành phố này. Nếu chúng ta đang phải đối đầu với một kẻ từ lâu đã bị bỏ mặc, lại chứng kiến cảnh Becky bị giết và cảnh sát đã làm hắn chú ý. Tiếng thét “Tình yêu dối trá” của Hewitt cũng có thể như vậy nếu như hắn đã từng trải qua kinh nghiệm với de Bosch hoặc một bác sĩ chuyên khoa theo lý thuyết của de Bosch.

Milo lăn chai bia trong lòng bàn tay mình.

– Có thể là như thế. Nhưng hai kẻ điên rồ cùng với câu chuyện về“Tình yêu dối trá” tự dưng tình cờ xuất hiện ở cùng một nơi trong cùng một ngày dường như là một điều quái quỷ đáng nguyền rủa đối với tôi.

– Tôi cũng thế.

Milo uống thêm một chút nữa.

– Chuyện gì xảy ra nếu như đó không hề là một sự tình cờ chút nào, Milo? Chuyện gì nếu như Hewitt và kẻ ghi âm quen biết nhau, thậm chí có chung sự tức giận đối với “Tình yêu dối trá”, với de Bosch và các bác sĩ trị liệu nói chung? Nếu như đó là một trung tâm sức khỏe tâm thần điển hình, thì nơi đó phải rất đông người với các bệnh nhân phải chờ hàng giờ. Sẽ không có gì là lạ nếu như hai kẻ bị làm phiền gặp nhau và khám phá ra một sự thù hận chung, phải không? Nếu ban đầu chúng là những kẻ hoang tưởng thì chúng có thể đã lợi dụng những nỗi sợ hãi và ảo tưởng của nhau, khẳng định với nhau rằng cách họ nhìn thế giới là đúng đắn. Thậm chí kẻ ghi băng có thể là một người sẽ không tỏ ra bạo lực trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên khi thấy cảnh Hewitt giết chết bác sĩ trị liệu của hắn và rồi chứng kiến cảnh khuôn mặt Hewitt bị cuốn phăng có thể đã thúc đẩy hắn.

– Thế ra bây giờ hắn đã sẵn sàng giết chết bác sĩ trị liệu của hắn? Vậy cuộn băng, cuộc điện thoại và chuyện con cá có nghĩa gì?

– Tạo bối cảnh thôi. Hoặc cũng có thể hắn sẽ không đi xa hơn, tôi không biết. Cũng có thể tôi không phải là đối tượng duy nhất của hắn. Có lẽ lúc này có một bác sĩ khác đang gặp nguy hiểm.

– Anh có nghĩ đến ai không? Trong danh sách bệnh nhân của anh à?

– Không, đó mới là vấn đề. Chẳng có ai cả. Các bệnh nhân của tôi đều là trẻ em. Rất nhiều chuyện có thể xảy ra theo thời gian.

– Mẹ kiếp, tôi không biết. Có thể kẻ ghi âm có một đứa con hoặc hắn đã bắt cóc một đứa. Lạy chúa, hi vọng không phải là thế, nhưng cái giọng đó đầy vẻ bị ép buộc, phải không? Quá nhạt nhẽo, Hewitt có đứa con nào không?

– Không, hồ sơ nói rằng hắn chưa kết hôn, thất nghiệp, cái gì cũng không.

– Biết được hắn gặp ai ở trung tâm thì tốt. Chúng ta cũng thử xác định xem cuộn băng của tôi có phải được trích ra từ cuộn phim phát trên truyền hình không. Bởi vì nếu không phải thì chúng ta sẽ không cần phải tham khảo danh sách cá nhân của đài truyền hình.

Milo cười.

– Và anh cũng không phải để lộ danh sách bệnh nhân của mình, đúng không?

– Đúng. Đó là một sự phản bội lớn. Tôi vẫn không thể biện minh được.

– Anh có chắc là không có ai trong đó chứ?

– Không, tôi không chắc, nhưng tôi phải làm gì bây giờ? Gọi điện cho hàng trăm người và hỏi xem họ có trở thành một kẻ điên rồ ghê tởm không ư?

– Cũng không có ai tên là Silk trong quá khứ của anh à?

– Tôi chỉ biết có silk* là cái cà vạt của tôi thôi.

Silk: tiếng Anh có nghĩa là lụa – ND.

– Có một điều tôi có thể nói với anh, cuộn băng của anh không phải là phiên bản chính xác của cuốn phim đâu. Cuộn phim kia Hewitt hét chỉ có hai mươi bảy giây trên tổng số ba mươi lăm giây và đoạn băng của anh chỉ có mười sáu giây. Tôi đã thử qua trước khi đến đây, thử hai cuộn băng cùng một lúc trên hai máy khác nhau để xem liệu tôi có tìm được đoạn nào trùng khớp chính xác không. Nhưng tôi đã không thể tìm ra, rắc rối quá... bật rồi tắt, tắt rồi bật, cố cho khớp nhau. Và có vẻ như chúng ta không chỉ phải đối phó với những từ ngữ không đâu, ở đây không lâu sau thì tất cả các tiếng hét đều có một âm thanh tương tự nhau.

– Anh nghĩ sao về việc làm một số phân tích về giọng nói? Thử tìm một cái máy khớp giọng điện tử xem sao.

– Theo tôi biết thì anh cần phải có những từ thật để khớp, vả lại bộ phận đó không còn làm khớp giọng nữa.

– Sao vậy?

– Có lẽ là do không có đủ cuộc gọi. Nó hầu như chỉ có ích cho những cuộc gọi tống tiền và đó thường là nhiệm vụ của FBI. Cũng có những cuộc gọi trong các vụ lừa đảo, bất lương, nhưng nó chỉ là ưu tiên thứ yếu so với những vụ án hình sự gây nhiều chết chóc. Tôi nghĩ vẫn có một người ở Sở Cảnh sát làm công việc này. Tôi sẽ tìm.

Con chó cuối cùng cũng cúi đầu vào chậu và bắt đầu xì xụp húp nước. Milo nâng chai bia lên “Chúc mừng” rồi uống cạn.

– Sao tôi và anh lại không thử chung sức làm một cách thô sơ xem sao. Anh làm cái băng, còn tôi phụ trách cuộn phim.

– Và tôi sẽ xong trước anh.

Milo mang máy ghi âm xách tay vào thư viện và cho băng vào. Chúng tôi ngồi ngang nhau, nghe tiếng hét, cố không bị tác động bởi bối cảnh. Ngay cả khi có hai người công việc cũng thật khó khăn, rất khó có thể phân chia những tiếng la hét vào những phân đoạn tỉ mỉ.

Chúng tôi cứ cho chạy rồi lại tua lại, cố định vị mười sáu giây trong đoạn băng “Tình yêu dối trá” ở chỗ nào trong những tiếng ồn và sự đau đớn của đoạn băng video dài hơn. Con chó chỉ chịu được vài phút rồi nó lỉnh ra khỏi phòng.

Milo và tôi vẫn ở lại, người đẫm mồ hôi.

Sau nửa tiếng đồng hồ chúng tôi đi đến kết luận: Chúng hoàn toàn khác nhau.

Một hoặc hai giây những câu huyên thuyên ê a không lời ở cuối đoạn băng của tôi không có trong bất kỳ chỗ nào phần ghi âm của cuộn băng video.

Ya Ya... kẻ la hét hạ thấp giọng của hắn một chút, một sự thay đổi khó có thể nhận ra được và không lâu hơn một cái nháy mắt. Nhưng khi tôi đã tìm ra, nó cứ rõ như là một cái bảng thông báo vậy.

– Hai đoạn băng khác biệt – Tôi nói, sửng sốt như Milo – Chắc là thế, nếu không thì tại sao đoạn băng ngắn hơn lại có cái gì đó mà cuộn băng dài hơn không có?

– Ừ.

Milo nói khẽ và tôi biết anh ấy đang tức giận vì không phát hiện ra nó đầu tiên. Anh ấy bật dậy và bước đi, nhìn đồng hồ.

– Anh nói khi nào anh ra sân bay?

– Chín giờ.

– Nếu anh thấy để nhà vắng như thế này không sao thì tôi muốn đi làm một số thứ.

– Được thôi. Chuyện gì thế?

– Nói chuyện với giám đốc bệnh viện về cuộc sống xã hội của Hewitt.

Milo dọn đồ của anh ấy và chúng tôi bước ra cửa.

– Thôi, tôi đi. Cứ dự trữ sẵn bia Porsche đi và anh có thể gọi tôi lúc nào cũng được.

– Cám ơn vì tất cả mọi chuyện, Milo.

– Có bạn để làm gì kia chứ?

Câu trả lời lóe lên trong đầu tôi, nhưng tôi giữ nó cho riêng mình.