Chương 15
Tôi nghe có tiếng động cơ xe nổ phía trong nhà. Chiếc Fiat của Milo từ từ lùi ra như một đồ chơi nhỏ hiện trên máy tính. Tôi bước ra ngoài, trời đang lặng gió. Chiếc xe nhả ra một luồng khói rồi rùng mình khởi động. Trông nó không hứa hẹn một chuyến đi êm xuôi; nhất là vào ban đêm.
– Vẻ ngoài của nó sẽ tạo cảnh phù hợp nơi chúng ta đến – Milo nói và ra khỏi xe. Anh mang một túi nhựa to màu trắng và mặc bộ quần áo đi làm. Tôi ngửi thấy mùi tỏi và thịt từ chiếc túi bay ra.
– Lại thêm thức ăn à? – Tôi hỏi.
– Bánh Sandwich của Ý, chỉ để tạo ra vẻ như một người giao nhận chính thức LAPD của anh thôi?
Robin quay lại gara làm việc dưới ống lò sưởi. Con chó cũng đứng quan sát chúng tôi và hướng mũi về phía chiếc túi, Milo nhấc chiếc túi khỏi tầm với của nói:
– Ở đây, chưa được an toàn, xa hơn này.
Con chó khịt mũi rồi lững thững bỏ đi.
Milo nói:
– Ồ một trong ba cái vẫn còn tốt – Anh vẫy Robin, nàng cũng giơ tay đáp lại, và buông dụng cụ xuống.
– Có vẻ như cô ấy sẽ ở nhà – Anh ấy nói.
– Còn anh thì sao Nick Danger?
– Tôi khoẻ. Có thêm điều gì về Gritz trong tài liệu không?
Trước khi Milo kịp trả lời thì Robin đã đi tới.
– Anh ấy mang bữa tối cho chúng ta đấy – Tôi nói.
– Một anh chàng công tử – Nàng hôn vào má Milo và nói – Thế anh đã đói chưa?
– Anh không đói lắm – Anh ấy nói và tay chạm nhẹ vào khuy áo, mắt nhìn xuống đất – Đã có một món khai vị cho tôi lúc chờ đợi đây.
– Như thế là tốt cho anh đấy – Nàng nói – Cậu bé đang trưởng thành của tôi ạ.
– Lớn không đúng cách chứ.
– Anh khỏe chứ Milo?
Nàng vỗ nhẹ lên vai Milo. Nhìn cái cách những ngón tay nàng gập lại tôi biết nàng đang rất muốn chúng tôi trở về an toàn. Còn tôi thì cũng nóng lòng khi nghĩ đến những con người trên con đường cao tốc. Con chó thì vẫn tiếp tục cái tính hờn dỗi của nó.
– Thế còn ngài thì sao, thưa ngài? – Nàng quay sang hỏi tôi. Con cún cứ nghĩ là nàng nói chuyện với nó nên lon ton chạy đến.
– Anh có thể đợi.
– Em cũng vậy. Em sẽ cho đồ ăn vào tủ lạnh, chúng ta sẽ ăn khi anh quay về.
– Nghe cũng được đấy – Milo đưa cho nàng chiếc túi.
Con chó liếm liếm, nàng an ủi nó:
– Yên nào, ta sẽ cho mày uống sữa đây.
Nhìn qua khe nhỏ trên mái nhà tôi thấy bầu trời tối đen và yên tĩnh. Ánh sáng từ những căn nhà rọi xuyên qua những hẻm núi dường như xa hơn.
– Em sẽ ổn chứ? – Tôi hỏi nàng.
– Em ổn mà. Anh đi đi. Nàng hôn tôi và đẩy nhẹ tôi đi.
Milo và tôi ngồi phía trên chiếc Fiat. Con chó ngó theo chúng tôi. Tiếng đóng cổng kêu lách cách làm tôi thấy yên tâm hơn. Milo cho xe chạy thẳng đến Benedict. Xe chạy nhanh và ngày càng tăng tốc, có lúc gần như quá cả khả năng có thể của nó. Chiếc xe chạy điên cuồng, người cầm lái chúi về phía trước che hết cả chiếc vô lăng, hình như chúng tôi đang đi về phương Nam thì phải. Tôi nói:
– Có chuyện gì về Gritz à?
– Có một chút. Cám ơn Chúa, đó lại là một cái tên không bình thường Lyle Edward, một người đàn ông da trắng, ba mươi tư tuổi, tôi quên mất mắt anh ta màu gì rồi.
– Coburg nói rằng anh ta thấp hơn Hewitt.
Milo gật đầu.
– Một nhóm những kẻ say và nổi loạn. Trong khi đó thì chúng ta vẫn phải lo lắng cho chúng từng viên thuốc ngủ.
– Anh ta đến L.A khi nào nhỉ?
– Lần dừng chân đầu tiên cách đây mười bốn năm. Máy tính cho anh ta địa chỉ mà không ai có thể biết, không ai có đăng ký ấy. Anh ta đã phải nhận án treo cho hành vi của mình khi sống ở County Tril và phải hoàn trả toàn bộ số nợ.
– Có đề cập gì đến căn bệnh thần kinh không?
– Không, trừ phi anh ta là một kẻ thần kinh loạn giới hoặc đã phạm một số tội ác có dính dáng đến bệnh tâm thần khác.
– Tôi sẽ gọi cho Jean Jeffers vào thứ hai này để xem anh ta có chữa bệnh ở trung tâm đó không?
– Trong khi đó chúng ta có thể nói chuyện với Off Rampers để xem giá trị của nó là gì. Tất cả những gì về anh ta chỉ là một cái tên, không hơn.
– Robin gợi ý rằng chúng ta nên mang đồ ăn cho họ để tăng thêm sự hòa hợp.
Anh ta nhún vai:
– Tại sao không? Có một cửa hàng nhỏ khi chúng ta đi qua Olympic.
Chúng tôi chạy xe thêm một lúc. Anh ấy cau mày và xoa mạnh tay lên mặt.
– Có chuyện gì phải không? – Tôi hỏi
– Ừ... chuyện thường thôi. Một vụ hiếp dâm nữa lại xảy ra. Một phụ nữ luống tuổi đã chết chiều nay.
– Tôi xin lỗi, đó có phải là một vụ giết người không?
Anh ấy nhấn thêm ga.
– Bà ta đã bị tắc động mạch và khối u ruột. Khám nghiệm tử thi cho thấy đó chỉ là vấn đề thời gian và tuổi tác, mà thực tế là những đứa trẻ đã không hề đụng đến bà ta. Điều đó có nghĩa là văn phòng DA không cần phải quan tâm đến việc xác minh. Đó hoàn toàn là một cái chết bình thường. Một lần người ta đã đưa bà ấy đến bệnh viện, nhưng chưa bao giờ bà ấy thực sự khỏe lại để có thể chống trả những đứa trẻ đó chứ đừng nói đến chuyện cướp bóc. Vì vậy họ chỉ làm một báo cáo sơ sơ rồi đi khỏi, cư theo đà suy đoán vậy thử hỏi xem chỉ một tháng thôi thì liệu có ai bị sát hại không?
Anh ấy lái xe về phía Sunset. Chúng tôi đã có một chuyến đi khá nhanh và an toàn đến miền Tây từ Beverly Hills. Khi xuống xe để tiếp xăng, tôi thấy chiếc Fiat thật thảm hại. Một chiếc Mercedes cắt ngang trước mặt chúng tôi.
Milo buông một câu chửi thề.
Tôi nói:
– Anh có thể đưa cho hắn một chiếc vé.
– Đừng có khích bác tôi.
Đi được thêm một dặm nữa tôi nói:
– Robin đã tìm ra mối liên hệ giữa Paprock và Shipler. Cả hai đã có thể tham gia vào nhóm trị liệu với de Bosch. Họ trị chữa bệnh cho bản thân hay có một nhóm bệnh nhân nói chuyện về bọn trẻ. Kẻ giết người cũng có thể ở trong nhóm đó, cũng chữa bệnh hay để thực hiện ý đồ của chúng.
– Nhóm trị liệu...
– Một số vấn đề thường thấy... còn gì có thể lôi cuốn hai người có hoàn cảnh khác nhau như vậy đến với de Bosch?
– Thú vị thật... nhưng nếu đó là một nhóm thì de Bosch đã không làm gì cả. Ông ta đã chết lúc tám mươi tuổi và giờ đây những đứa trẻ của Paprock mới chỉ khoảng sáu, bảy tuổi. Trên thực tế, vào thời điểm Myra chết, chúng chỉ là những đứa trẻ. Nhưng vấn đề mà chúng gặp phải là gì?
– Có thể đó là cách giáo dục hoặc một vài loại bệnh kinh niên. Anh có chắc là Paprock mới chỉ lập gia đình một lần không?
– Theo hồ sơ về Paprock thì đúng là vậy đấy.
– Được rồi – Tôi nói.
– Vậy có thể Katarina là một nhà trị liệu hoặc cả vài người nữa ở trường. Có thể kẻ giết người tin vào sự phạm tội tập thể hoặc có thể đó là phương pháp chữa bệnh cho người lớn. Nếu là một nhà trị liệu cho trẻ thì họ không bao giờ tiếc sức mình vì chúng.
– Tốt rồi. Nhưng bây giờ chúng ta quay lại với câu hỏi cũ, mối liên hệ của anh là gì?
– Phải có sự trao đổi. Những kẻ giết người thường mắc chứng bệnh hoang tưởng trầm trọng. Hãy để cho cơn thịnh nộ của hắn vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Với hắn, bất kỳ ai liên quan đến de Bosch đều có tội và còn nơi nào để bắt đầu tốt hơn là một nhóm các nhà trị liệu bày tỏ sự tôn kính với một ông già? Có thể việc gắp lửa bỏ tay người của Stoumen đã không gây ra chuyện gì cả.
– Cái gì cơ? Những kẻ mới lớn tụ tập tham gia vào vụ giết người à? Những kẻ giết người sẽ đứng phía sau bệnh nhân và những người trị liệu.
– Tôi không biết. Tôi chỉ tham lam vậy thôi.
Anh ấy có thể cảm thấy sự thất vọng trong giọng nói của tôi.
– Được rồi, hãy giữ lấy sự tham lam ấy và đừng mua người đóng thuế với giá mười xu. Theo như những gì tôi biết, chúng ta đang phải đương đầu với một điều gì đó thật điên khùng và không bao giờ hiểu được.
Chúng tôi chạy xe trong yên lặng. Được một lúc anh ấy hỏi:
– Bệnh viện của de Bosch là một bệnh viện tư và khá đắt đỏ. Làm thế nào mà một người gác cổng như Shipler lại có thể thanh toán tiền viện phí nhỉ?
– Đôi khi cũng có vài bệnh viện tư nhân khám chữa bệnh miễn phí cho các trường hợp khá khó khăn, hoặc có thể Shipler có bảo hiểm y tế thông qua trường. Thế còn Paprock thì sao? Cô ta có tiền chứ?
– Chẳng nhiều, có thể nói vậy, chồng cô ta là người buôn bán ô tô.
– Anh có thể lấy được giấy tờ bảo hiểm của họ không?
– Nếu họ có và chưa bị hủy đi.
Tôi nghĩ đến hai đứa trẻ đang ở tuổi đến trường mà đã không còn mẹ. Tôi hỏi Milo.
– Chính xác thì những đứa trẻ của Paprock lên mấy tuổi?
– Tôi không nhớ chính xác.
– Ai là người đang nuôi chúng vậy?
– Tôi cho rằng là chồng cô ta.
– Anh ta vẫn ở trong thị trấn chứ?
– Nếu vậy thì anh ta sẽ sẵn sàng kể cho chúng ta về cô ấy và chúng ta sẽ biết cô ấy có phải là một bệnh nhân trị liệu tại bệnh viện de Bosch hay không?
Milo chỉ chiếc ghế phía sau:
– Lấy bộ hồ sơ và kiểm tra lại địa chỉ.
Tôi xoay người về phía sau và thấy một hộp đựng hồ sơ.
– Ở ngay trên đầu đó – Anh ấy nói – Bộ màu nâu.
Không thể dễ dàng nhận ra màu sắc trong bóng tối, nhưng tôi đã tìm và kiểm tra xung quanh, cuối cùng cũng tìm thấy nó. Tôi mở ra và xem qua.
– Có chiếc đèn pin trong hộp đồ ấy.
Tôi cố gắng mở chiếc hộp nhưng nó bị kẹt. Milo nghiêng người đấm vào chiếc hộp một cái, chiếc nắp rơi ra, toàn bộ hồ sơ rơi xuống sàn xe. Tôi nhặt chúng, tìm cái đèn pin. Tôi soi ánh sáng yếu ớt lên những bức ảnh của các vụ án được gắn bên phải trang giấy. Có rất nhiều màu hồng và màu đỏ. Có cái có dòng chữ viết trên tường “Tình yêu dối trá”, được viết bằng màu đỏ cân xứng với vết máu trên nền nhà... dòng chữ ngay ngắn... một vật vấy máu ở phía dưới.
Tôi xem sang trang tiếp theo. Có tên của một người đàn ông góa vợ, Myra Paprock, ở giữa trang dữ liệu.
– Ralph Martin Paprock. Tôi đọc to “Valley Vista Cadillac. Địa chỉ nằm ở phía Nam Hollywood”.
– Tôi sẽ chạy qua DMV, tìm xem có thể anh ta vẫn ở quanh đâu đó.
Tôi nói:
– Tôi phải tìm kiếm những người khác để thông báo cho họ biết.
– Chắc chắn rồi. Nhưng nếu anh không thể nói cho họ biết ai và tại sao thì sẽ có chuyện xảy ra đấy.
– Thưa quí ông, quí bà. Xin thông báo là các quí vị có thể phải tuân lệnh, có thể bị hành hạ bởi những kẻ bị tâm thần.
– Có thể trong số họ sẽ nói cho tôi biết ai và tại sao. Tôi biết là tôi cần phải làm chuyện đó. Vấn đề là phải tìm họ. Không ai trong số họ đang sống và làm việc tại nơi họ ở vào thời gian của hội thảo. Và một người phụ nữ, tôi nghĩ có thể là vợ của Rosenblatt sẽ không trả lời tôi đâu.
Yên lặng một lúc Milo hỏi:
– Anh có băn khoăn về chuyện nếu họ cũng có người đến thăm không?
– Tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Katarina đã không được ghi vào chỗ dẫn của APA cách đây năm năm. Có thể cô ấy vừa ngừng đóng thuế, nhưng không có vẻ gì là bỏ dở khóa tâm lý hoặc tạm thời đóng cửa ngôi trường. Cô ta rất tham vọng và đã tham gia khá tích cực để duy trì công việc của ông bố.
– Ồ – Anh ấy nói – Đủ điều kiện để kiểm tra giấy tờ thuế và tài liệu an ninh xã hội, tìm xem ai còn sống hay đã chết.
Đến Hilgard Milo cho xe rẽ trái qua khuôn viên trường đại học, nơi tôi đã học trong nhiều năm.
– Có quá nhiều người ra đi – Tôi nói:
– Bây giờ đến lượt những cô gái nhà Wallace. Nếu như tất cả đều gập lều lại và khăn gói bỏ trốn.
– Này có thể họ biết những điều mà chúng ta không biết – Milo nói.
*
Dãy phố của các câu lạc bộ thoát y ở Olympic và Westwood tối om, chỉ có hương thơm và ánh sáng trắng phát ra từ cửa hàng nhỏ. Các quầy hàng đều yên lặng, một người Pakistan đội khăn xếp đang uống rượu Gatorade đằng sau quầy.
Chúng tôi ăn bánh mì, súp và uống sữa. Người đàn ông nhìn chúng tôi không mấy thân thiện, như thể hắn ta đang kiểm soát mọi thứ. Hắn mặc một chiếc áo sặc sỡ có hình những khu nhà buôn bán lớn trên thứ vải batit màu xanh. Nhãn chiếc áo gắn túi ngực không ghi gì cả. Milo lấy ví ra nhưng tôi đã rút ra trước và gọi người bán hàng. Hắn vẫn nhìn chúng tôi với vẻ không vui.
– Có chuyện gì vậy? – Milo hỏi:
– Có quá nhiều cholesterol trong khẩu phần ăn của chúng tôi thì phải?
Người bán hàng mắm môi lại và liếc nhìn lên chiếc camera ở phía trên cửa ra vào. Cái máy một mắt đó đang rà soát xung quanh cửa hàng một cách chậm chạp, còn chiếc màn hình phía dưới thì toàn một màu xám đục.
Chúng tôi dõi theo cái nhìn của anh ta vào những hộp sữa. Một người đàn ông ăn mặc bẩn thỉu đang đứng trước chiếc kệ đựng sữa, nhìn chăm chăm vào những chiếc hộp chất dẻo nhiều màu. Tôi đã không để ý đến anh ta khi mua đồ và cũng không thắc mắc anh ta từ đâu tới.
Milo quan sát anh ta một lúc rồi quay lại người bán hàng.
– Cảnh sát làm việc tích cực thật – Anh ta nói to lên – Xử lý hết chỗ năng lượng này để bắt những kẻ quấy rối.
Hắn bỗng cười to, âm thanh như điên loạn.
Người đàn ông cạnh kệ sữa quay phắt lại, nhìn chằm chằm vào chúng tôi chừng một phút, sau đó lại tiếp tục với công việc của ông ta.
Hắn trông hốc hác, gày gò, bộ râu lởm chởm, chiếc áo Jacket quân đội tối màu bẩn thỉu. Chiếc quần Jeans bạc màu và chân đi đôi dép đã cũ. Hai tay hắn run rẩy, còn con mắt mờ đục như bị mù. Lại thêm một thanh niên của gia đình Dorsey Hewitt. Hắn giơ tay vỗ vào sau gáy, quay người lại đáp trả cái nhìn của Milo.
Milo đáp lễ:
– Xin chào anh bạn.
Gã đàn ông vẫn đứng yên đó, hắn thọc mạnh tay vào túi áo, rồi rời khỏi cửa hàng, tiếng dép loẹt quẹt trên nền đường. Người bán hàng nhìn theo hắn, còn người thu tiền đang gõ vào máy tính tiền. Gã Pakistan giật lấy tờ hóa đơn thanh toán, nhét vào số túi đựng đồ của chúng tôi.
– Có cái hộp nào để đựng tất cả thứ này không? – Milo hỏi.
– Không thưa ngài – Người bán hàng đáp.
– Thế cái gì ở đằng sau kia?
Hắn nhún vai. Chúng tôi mang thức ăn ra khỏi cửa hàng, người đàn ông gày gò ban nãy đã đi khá xa, vừa đi vừa đá xuống mặt đường. Hắn đi ngang các cửa hàng và nhìn vào trong qua ô kính tối đen.
– Này – Milo gọi.
Không có tiếng trả lời. Anh cất giọng gọi lần nữa, moi ra một gói ngô rang từ chiếc túi và vẫy nó trên đầu.
Người đàn ông đứng thẳng, nhìn về phía chúng tôi, nhưng không quay lại. Milo bước lên một quãng đưa túi ngô rang ra. Rất nhanh, người đàn ông giơ tay nhưng mất đà quỵ gối xuống và với được túi ngô.
Milo quay lại xe mà không nhìn khuôn mặt người đàn ông đó. Còn hắn có vẻ bối rối, nghi ngờ và một chút biết ơn. Người đàn ông bước đi trong bóng tối, xé gói nilon và rắc những hạt ngô rang lên vỉa hè.
Milo nói:
– Hãy thoát ra khỏi cái địa ngục này.
Chúng tôi lên xe và đi vòng qua phía sau của khu phố, nơi có ba chiếc xe rác đang đỗ. Có rất nhiều hộp giấy được chất thành đống lỏng lẻo trong những chiếc thùng lớn hầu như đã bị xé rách. Cuối cùng chúng tôi cũng gặp được hai người trông tương đối sạch sẽ. Chúng tôi đưa cho họ chiếc túi giấu ở sau xe sau đó chúng tôi nói về hồ sơ vụ giết người của Myra Paprock.
*
Mảnh trăng lộ ra sau làn mây, bầu trời trắng đục. Con đường cao tốc đầy ắp ánh đèn và tiếng ồn. Bóng đêm và những thanh chắn bằng gỗ dán đã che khuất hoàn toàn khu đất Little Calcutta. Nhưng có một chỗ ở trên vỉa hè mà tôi đã có dịp tiếp xúc với Terminator Three được chiếu bởi ánh sáng yếu ớt của đèn đường và tôi có thể chỉ chỗ đó cho Milo. Chúng tôi ra khỏi xe, tìm lỗ hổng trên miếng gỗ dán. Qua đó chúng tôi thấy những ngọn lửa xanh run rẩy – lửa khí được đốt bằng cồn.
Tôi đưa anh ấy đến con đường dọc theo hàng rào chắn nơi trước đây tôi đã nhầm với cái hầm.
Những sợi dây kim loại được buộc thêm, han rỉ và thô ráp, chỗ nối quá chắc, không thể tháo ra bằng tay được.
Milo lấy bộ dao quân đội từ trong túi quần bật nhẹ chiếc kìm thiếc ra. Anh vặn xoắn, cắt để mở một chỗ chui. Chúng tôi quay lại xe để lấy những thùng hàng tạp phẩm rồi bước qua cửa hầm. Ánh lửa tắt dần, cứ như thể chúng tôi đem đến một luồng gió mạnh vậy.
Milo lại cho tay vào túi quần lôi ra chiếc đèn pin lúc nãy tôi dùng trên xe. Tôi đã cất nó vào hộp để đồ trong xe, vậy mà không biết Milo lấy nó ra lúc nào.
Anh ấy bỏ một số thứ ở hộp tạp phẩm ra. Chiếu đèn pin vào, đó là những miếng bolagna được gói bằng nilon.
Anh giơ chúng lên và khẽ kêu: “Thức ăn”.
Những ngọn lửa tiếp tục yếu đi. Anh ấy hình như rất quan tâm đến món bologna, anh lật qua lật lại miếng thịt, túi đựng đồ. Cái cách xem xét của anh ấy có gì thật đặc biệt.
Sau một lúc không có gì xảy ra, anh ấy đặt miếng thịt lên mặt đất, nơi có ánh sáng chiếu vào, tiếp đến anh trải tất cả những thứ có trong túi ra nền đất đầy bụi. Đi đi lại lại một hồi phía trước cửa hầm, anh ấy đã tạo ra một dải đường đầy thức ăn kéo dài ra tận vỉa hè.
– Goddamn Hansel và Gretel – Anh ấy lẩm bẩm rồi trườn ra phía ngoài.
Tôi đi theo anh và đứng trước chiếc Fiat, tay anh cầm một chiếc túi rỗng, nắm chặt vo viên lại rồi hất từ tay nọ sang tay kia.
Chúng tôi đứng đó chờ đợi, có rất nhiều ô tô lao vút qua làm cho nền bê tông của con đường rung lên nhè nhẹ.
Milo châm một điếu xì gà và nhả những vòng tròn khói. Chỉ vài phút sau anh ấy đã dập tắt điếu xì gà và kẹp nó giữa hai ngón tay. Trở lại phía cửa hầm, Milo bị kẹt đầu và không thể cử động được trong vài giây, rồi anh vẫy tay ra hiệu cho tôi theo anh vào bên trong.
Đi được vài bước chúng tôi dừng lại, Milo chiếu đèn pin về phía trước, ánh sáng yếu ớt nên chỉ chiếu xa khoảng năm đến sáu mét. Có rất nhiều bàn tay đưa ra để chộp, giật, cướp đống thức ăn đó. Chỉ cần liếc qua tôi cũng có thể thấy được hình dáng của họ. Những người đang qùy gối, nhổm lên và giật lấy đồ ăn, giống như hành động của người đàn ông trong cửa hàng.
Chỉ trong chớp mắt tất cả bọn họ đã biến mất cùng với chỗ thức ăn. Milo bắc loa tay và nói lớn
– Còn có nhiều thức ăn hơn thế, các bạn ạ!
Không hề có động tĩnh gì.
Anh ấy đứng nấp đi và tôi cũng lùi lại phía sau hàng rào. Đây cũng giống như một trò chơi phù phiếm vô ích, nhưng nó có vẻ đem lại cho anh ấy sự thanh thản.
Anh ấy bắt đầu lôi hết thức ăn ở các túi khác ra và đặt chúng rải rác phía ngoài cửa hầm. Sau đó anh quay trở lại chiếc xe, chui vào ngồi ở ghế sau, làm cho bộ nhíp kêu lên kèn kẹt. Anh châm lại điếu xì gà.
Cho mồi nhử, làm bẫy... giống một cuộc đi săn.
Thời gian trôi đi chậm chạp, Milo dán mắt về phía hàng rào, rồi lại thôi. Nét mặt anh không hề thay đổi. Anh ấy đến bên hàng rào. Có một bàn tay đưa ra chộp lấy miếng bánh mỳ trắng. Milo tiến đến đá chiếc bao đựng ra xa, bàn tay đó vội rụt lại.
– Xin lỗi – Milo nói – Muốn ăn phải tự đi kiếm lấy thôi.
Anh ấy rút tấm phù hiệu ra và đưa về phía cửa hầm.
– Chỉ nói chuyện thôi – Anh ấy nói.
Không thấy động tĩnh gì.
Milo thở dài và cúi nhặt ổ bánh lên rồi ném nó qua phía cửa hầm. Anh ấy nhặt thêm một hộp xúp và lắc lắc.
– Hãy ăn ngon nhé, anh bạn.
Một lát sau có hai người dáng vẻ sợ sệt hiện ra ở cửa hầm. Họ khoác trên người những chiếc áo cáu bẩn với những ống tay sờn và chiếc chăn quân đội đã cũ. Chúng tôi chưa thể nhìn rõ họ ngay vì họ vẫn đứng trong bóng tối. Milo cầm ca xúp bằng hai ngón tay: ngón cái và ngón trỏ.
– Sẽ có thêm nhiều nữa – Anh ấy nói – Các bạn chỉ phải trả lời vài câu thôi, không phiền chứ?
Một người mặc chiếc áo choàng rẽ đám đông đi về phía cửa hầm. Một kẻ len lén bước ra phía vỉa hè, rồi đến những người khác.
Một gã đi ra phía có ánh đèn đường rọi sáng, mặt hắn cau có. Người hắn đang choàng một cái chăn dài đến đầu gối và phủ qua đầu như một chiếc mũ nhà sư, che hết phần mặt. Hắn có nước da đen xám. Hắn bước thật thận trọng để thăm dò. Cái chăn bị trễ xuống một chút. Hắn có cái đầu to quá khổ, hói mất một nửa. Khuôn mặt dài và xương, rúm ró. Bộ râu xoăn xám, không được chăm sóc hàng ngày, làn da nứt nẻ, đóng vẩy. Hắn khoảng từ năm mươi đến bẩy mươi tuổi. Một cái mũi to bè vẹo vọ, thật cân xứng với khuôn mặt nhăn nhúm đầy vết tàn nhang. Đôi mắt lác của hắn không ngừng đảo qua đảo lại.
Hắn cầm mẩu bánh mỳ trong tay và nhìn hau háu vào ca xúp. Milo cố gắng đưa ca súp cho hắn. Sau một phút do dự, hắn bắt đầu ăn, đôi mắt đã bớt phần láo liên.
Milo bắt đầu hỏi:
– Anh có biết ngựa nòi là gì không?
Gã đó nén cơn giận, kéo chăn quấn quanh người và vặn miếng bánh mì thành hình số tám.
Tôi tiến đến gần hắn và nói:
– Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện thôi.
Hắn nhìn vào mắt tôi, cái nhìn đầy tức tối tưởng như các mạch máu có thể bị đông lại, trong ấy có gì đó đang sáng lên. Có thể đó là biểu hiện của sự thông minh hay đó chỉ là một sự đa nghi. Hơi thở của hắn bốc ra toàn mùi cồn. Cặp môi trễ xuống như mõm của loài chó mastiff. Tôi phải nén chịu đựng.
Milo tiến lại phía sau tôi châm điếu xì gà để xua đi thứ mùi khó chịu đó. Anh ấy đưa xúp cho hắn. Hắn nhìn ca xúp, cuối cùng cũng cầm lấy và nhìn chòng chọc vào tôi.
– Anh không phải là cảnh sát, đúng không?– Giọng hắn rõ ràng một cách đáng ngạc nhiên – Chắc chắn là vậy.
– Đúng đấy – Tôi trả lời – Nhưng anh ta thì là cớm đấy.
Hắn liếc sang Milo và cười, xoa xoa lên tấm chăn, chỗ quấn quanh bụng rồi cho cả hai tay xuống dưới tấm chăn để giấu miếng bánh và ca xúp.
– Chỉ vài câu hỏi thôi anh bạn – Milo nói – Rất đơn giản thôi.
– Cuộc sống không dễ dàng – Người đàn ông đó nói.
Milo móc ngón tay cái vào những túi đặt trên vỉa hè: – Một người quân tử nhé. Chỗ thức ăn này sẽ đủ cho cả anh và các bạn khác nữa. Chúc mọi người vui vẻ.
Người đàn ông lắc đầu:
– Chúng có thể đã bị đầu độc.
– Việc gì mà phải cho thuốc độc cơ chứ?
Hắn mỉm cười:
– Sao lại không. Cái thế giới này cũng đang bị nhiễm độc hết rồi. Người ta tặng quà cho nhau và trong món quà đó đã chứa chất độc và người ta sẽ bị hại.
– Điều ấy có thể xảy ra ở đâu?
– Trên sao hỏa.
– Nghiêm trọng thật đấy.
– Ở sao Kim.
– Tốt thôi – Milo đáp và nhả khói thuốc – Tuỳ anh thôi, chúng tôi sẽ hỏi ở nơi khác vậy.
Người đàn ông đó liếm môi.
– Cứ tiếp tục đi. Tôi là một con bệnh nên đối với tôi chẳng có nghĩa lý gì cả.
– Bệnh hả? – Milo hỏi.
– Không tin à. Thế liệu anh có dám hôn tôi không?
Hắn tặc lưỡi. Cái chăn rơi xuống vai để lộ phía dưới một chiếc áo phông Bush – Quayle đã cáu bẩn. Cổ và vai hắn xương nhô ra, gầy gò.
– Tôi sẽ làm – Milo nói.
Hắn cười phá lên.
– Đố anh dám đấy. Cá gì bây giờ nào? Các anh có thể kéo nó ra khỏi người tôi à?
– Kéo cái gì ra khỏi anh?
– Bất cứ cái gì anh muốn. Anh hoàn toàn có quyền mà.
– Này– Milo nói.
– Đây là LAPD mới. Chúng ta là những người còn trẻ và khá nhạy cảm.
Hắn lại cười, hơi thở của hắn nóng và có mùi khó chịu, khiến người khác buồn nôn.
– Mẹ kiếp... các người luôn là một thứ rác rưởi... hãy đi mà giữ lấy cái trật tự của các người.
Milo nói:
– Chúc một ngày tốt lành – Rồi quay đi.
– Vậy anh muốn biết gì nào?
– Bất kỳ một điều gì về người công dân có tên là Lyle Edward Gritz – Tôi nói.
Milo hỏi.
– Anh biết anh ta chứ?
– Như là một người anh trai.
– Thật sao?
– À – Người đàn ông đó nói – Thật không may, do thời thế, tuổi tác, sự suy thoái của gia đình... tất cả đều không tốt.
Milo nhìn vào cửa hầm và hỏi:
– Anh ta đang ở trong đó chứ?
– Không.
– Gần đây có thấy anh ta không?
– Không.
– Nhưng anh ta thường đến đây chứ?
– Đều đặn.
– Lần cuối là khi nào?
Gã lờ câu hỏi và lại nhìn tôi, rồi hỏi Milo:
– Anh ta là thứ gì vậy? Hắn hỏi tôi – Một loại phóng viên?
– Bác sĩ – Milo đáp.
– Ồ, thế á– Hắn mỉm cười – Anh có viên pelicilin nào không? Mọi cái khi đã đến đây đều bị nhiễm khuẩn. Amoxycilin, erythro–mycin, tetracyline... bất cứ thứ gì cũng đều hạ gục những con vi khuẩn đó.
– Tôi là một bác sĩ tâm lý.
– Ồ – Hắn như vừa bị thương. Hắn nhắm mắt lại và lắc đầu. Khi mở mắt ra, mắt hắn ráo hoảnh và hắn nhìn thẳng vào một điểm – Thế thì anh không thể làm hại tôi, đúng không anh bạn?
– Gritz – Milo nói – Anh có thể nói điều gì về anh ta không?
Hắn trở nên trầm ngâm.
– Một kẻ cặn bã da trắng, chỉ số IQ thấp nhưng khỏe mạnh. Anh ta không có sự bào chữa nào nên cuối cùng xuống đây. Tôi không làm thế. Có thể anh nghĩ tôi là loại công chức ăn tiền phải không? Vì tôi là người da đen và tôi biết luật – Hắn mỉm cười.
Tôi cũng cười đáp lại.
– Không phải thế – Hắn nói tiếp – Tôi đi lượm rác. Một cách chuyên nghiệp đấy. Ở thành phố Campton. Lương ở đó cao, có bảo hộ lao động, lợi nhuận lại lớn. Sai lầm của tôi là đã từ bỏ công việc đó và đi làm riêng. Công việc đang phát đạt thì trở nên ế ẩm và tôi đã đâm đầu vào ma túy để giải khuây.
Hắn rút một tay ra khỏi chăn, giơ lên cao làm cho ống tay áo tụt xuống tận khuỷu. Phía dưới khuỷu teo lại vì những vết sẹo, vài vết ápse, từng cụm sẹo trâu và có chỗ vẫn còn đang chảy máu.
– Vết này mới có đấy – Hắn nói và chỉ vào vết thương nơi cổ tay – Phải biến khỏi đây trước khi trời sáng, tôi chẳng có cái quyền cho riêng mình. Sao anh không cho tôi theo và cho tôi một chỗ ngủ?
– Đấy không phải việc của tôi – Milo trả lời.
– Không phải việc của anh sao? – Hắn cười – Anh là ai? Một kiểu người theo chủ nghĩa tự do chăng?
Milo nhìn hắn và lại hút thuốc.
Hắn lại cho tay vào trong chăn:
– Ồ, cuối cùng thì hãy cho tôi một bác sĩ thực sự và tôi có thể lấy vài viên morphin.
– Thế còn người dân trong vùng?
– Đã đi hết rồi. Không thể xin thuốc kháng sinh ở họ được.
Milo nói:
– Tôi có thể cho anh đi nhờ đến một phòng cấp cứu nếu anh muốn.
Hắn bật cười khinh bỉ:
– Để làm gì? Để rồi phải đợi suốt đêm với những phát súng và những con đau tim à? Tôi không có một phỏng đoán nào cả, chỉ là virut thôi, chưa hề có triệu chứng gì. Do vậy những gì họ có thể làm là bắt tôi đại, ở tù còn sướng hơn.
– Đây rồi – Milo nói khi thọc tay vào túi áo và tìm ra chiếc ví. Anh lấy ra một số hóa đơn và đưa cho gã đàn ông – Hãy tìm một phòng và giữ lại tiền thừa.
Hắn nở một nụ cười ấm áp và rộng rãi khi nhét tiền vào trong chăn.
– Cái đó thật tuyệt vời, ngài cảnh sát ạ.
Milo hỏi:
– Gritz cũng dùng ma túy à?
– Mới bị nhẹ thôi. Như tôi đã nói, hắn là một thứ cặn bã da trắng. Hắn và tiếng hát của hắn.
– Hắn thích hát sao?
– Lúc nào cũng thích hát, một thứ âm thanh om sòm và ầm ĩ. Hắn muốn trở thành Elvis cơ đấy.
– Còn tài năng gì nữa không?
Gã nhún vai:
– Tôi là ai mà có thể phán xét hắn.
– Hắn có bao giờ phạm tội hoặc mắc lỗi với ai chưa?
– Theo tôi thì không.
– Thế còn Dorsey Hewitt?
Hắn mím chặt môi.
– Hewitt, Hewitt... một người đã làm công việc mang tính tập thể đó!
– Anh biết anh ta à?
– Không. Tôi đã đọc trên báo. Khi thấy gã ngốc đó làm vậy tôi thấy lo cho hắn. Hắn đã phản ứng quá mức. Mọi người sẽ đến đây và tước đi của chúng tôi tất cả.
– Anh chưa bao giờ gặp Hewitt à?
– Chưa.
– Không biết hắn và Gritz có phải là bạn thân không?
– Làm sao tôi biết được trong khi tôi chưa gặp.
– Có người cho tôi hay rằng Gritz đã nhắc đến chuyện làm giàu.
– Chắc đúng đấy. Hắn luôn làm vậy. Một gã ngốc. Cắt bỏ đi một thành tích để trở thành Elvis thứ hai. Chỉ cần rót một chai đầy cổ họng thì anh ta sẽ là số một.
Người đàn ông quay về phía tôi.
– Theo anh thì sẽ là chuyện gì?
– Tôi nghĩ anh đang không khỏe – Tôi trả lời.
– Họ... những bác sĩ thực tập tại County... đã nói rằng tôi mắc căn bệnh dễ xúc động, sẽ còn thay đổi tâm tính dữ dội. Tiếp đến là họ sẽ giảm dần lượng thuốc methadone của tôi.
Hai hàm răng anh ta đánh vào nhau và đợi tôi đưa ra lời nhận xét. Nhưng tôi chẳng nói gì. Hắn tiếp tục:
– Giả sử tôi vẫn đang dùng thuốc, tự mình điều trị cho mình – Hắn cười, mẹ kiếp, tôi chỉ dùng thuốc để giải khuây.
– Milo bảo
– Trở lại khu đường ray thì anh còn biết gì thêm về Gritz?
– Hết rồi – Hắn mỉm cười – Tôi vẫn được giữ lại tiền chứ?
– Kẻ hủy diệt III vẫn ở đây à?– Tôi hỏi.
– Ai cơ?
– Một gã trẻ đến từ Arizona, bị khuyết ngón út và ho nặng. Anh ta có một cô bạn gái cùng một đứa trẻ.
– Ồ, đó là Wayne. Hắn tự gọi mình là thế đấy– Gã cười lớn
– Nhưng họ đã dọn đi chiều nay rồi. Như tôi đã nói đấy, người ta đến rồi đi mà...
Hắn trùm chăn lên đầu, không rời mắt khỏi tôi, rồi hắn đi men theo hàng rào chắn.
– Thế còn phòng ngủ hôm nay thì sao? – Milo hỏi.
Hắn dừng bước và nhìn lại:
– Tôi sẽ cắm trại ngoài trời để tận hưởng không khí trong lành – Hắn cười toe toét.
Milo cười với hắn ta và nhìn lại đống đồ ăn:
– Chúng ta làm gì với chúng bây giờ?
Người đàn ông nhìn chăm chú chỗ thức ăn và nói:
– À, tôi sẽ lấy một chút gatorade và cả pepsi nữa.
Hắn ta nhặt mấy thứ rồi lại giấu phía trong cái chăn.
– Thế thôi à – Milo hỏi.
– Đang ăn kiêng – Hắn đáp – Nếu có thể anh hãy mang toàn bộ vào trong kia. Tôi tin chắc là sẽ có vài người vui vẻ nhận lấy của anh đấy.
Người đàn ông đi khuất vào bóng tối, dáng đi lảo đảo nhưng dứt khoát, như dáng đi của người mù lão luyện.
Milo và tôi lôi những chiếc hộp ra dưới ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn pin. Công việc đang được tiến hành thì tôi cảm thấy có hơi thở sợ sệt đâu đó.
Người đàn ông dừng lại và đưa tay chỉ xuống đất. Chúng tôi đặt những chiếc hộp xuống và một ngọn lửa xanh bùng lên. Sau đó lửa nối tiếp bùng lên. Bức tường bê tông trở thành tụ điểm của những đống giấy. Những cơ thể và những khuôn mặt trông xanh hơn dưới ánh lửa.
– Đến giờ ăn tối rồi – Hắn gào lên khi đã đi xa– Có thêm nhiều ngọn đèn.
Mười người xuất hiện hoặc hơn. Họ hiện ra mờ nhạt và không trông rõ mặt, không rõ giới tính. Họ hỗn độn, tả tơi như sau một cơn bão.
Milo lấy mọi thứ trong hộp ra. Một bàn tay lần tới và giật lấy, có nhiều người vây quanh chúng tôi. Trông họ xanh nhợt, rụt rè và chờ đợi.
Milo vươn người về phía trước, ngậm điếu xì gà trên miệng. Sau những gì anh ấy nói, có nhiều người đổ xô tới. Một số khác thì đứng lại nghe ngóng, chỉ có một số đáp lại. Anh ấy cho họ thêm. Tôi cũng phụ giúp và cảm thấy những bàn tay chạm vào người. Cuối cùng tất cả chỗ thức ăn hết bay.
Milo lia đèn pin để quan sát khu đất. Ớ đó chỉ có những đống vải cũ, những mái che gắn vào tường và mọi người đang ăn uống.
Người đàn ông có tấm chăm trùm đầu đang ngồi dựa lưng vào tường, đuôi áo khoác trải rộng ra. Một bên cánh tay trần duỗi ra được quấn quanh bằng sợi dây chun. Nụ cười mãn nguyện hiện trên khuôn mặt gã, một mũi kim đang đâm sâu vào tay gã.
Milo vặn vẹo đầu cho đỡ mỏi và giảm bớt ánh sáng của chiếc đèn.
– Đi thôi – Anh ấy nói đủ để tôi nghe thấy.
*
Anh lái xe về hướng Tây chứ không quay lại
Beverly Hills và nói:
– Hừ, đó là con số không.
– Họ không có gì để nói cho chúng ta.
– Sự đồng lòng nhất trí trả lời không biết Lyle Gritz trong vòng một hoặc hai tuần. Đó cũng là một sự đối đãi đáng kể. Hắn đến rồi lại đi. Hắn đã làm vậy, thực sự là để khoác lác về cách làm giàu trước khi đánh bài chuồn.
– Một Elvis nữa.
Anh ấy gật đầu:
– Một tài năng âm nhạc, không phải kẻ sát cá. Tôi đã bám vào một vài chi tiết và vào người đã khai nhận là tuần trước nhìn thấy hắn bước vào xe của ai đó. Nhưng nhưng người đó cũng như bị mất trí vậy. Họ không thể đưa thêm chi tiết cụ thể nào như về màu sắc hay kiểu dáng xe để phân biệt. Tôi không chắc anh ta không chỉ nói thế. Tôi sẽ tìm ra nếu như tên Gritz xuất hiện ở bất kỳ hồ sơ tội phạm nào gần đây. Anh có thể hỏi Jeffers xem anh ta đã từng là bệnh nhân tại trung tâm hay không? Nếu đúng thì có thể nhờ chị ấy chỉ cho anh những gì có thể làm. Nhưng dù có tìm ra anh ta tôi cũng không dám chắc. Điều đó thật đáng nguyền rủa.
Anh ấy rẽ vào quán cốc tay trên đường Wilshire. Đó là khu vực buồn tẻ của Santa Monica. Đèn nêông được treo trên cửa ra vào. Tôi chưa từng tới nơi này, nhưng qua cách Milo đẩy cửa vào tôi biết anh ta đã quá quen thuộc nơi đây.
Bên trong phòng tối hơn bên ngoài. Chúng tôi rửa tay trong phòng vệ sinh, sau đó quay ra ngồi ở quầy ba. Đồ trang trí trong phòng bằng nhựa đỏ và nicotin. Những quân bài rummi cũ kĩ, lộn xộn và dường như bị lãng quên. Máy chơi nhạc gợi nhớ về Vic Damone.
Milo bốc một nắm hạt điều và nhấm nháp. Anh ta gọi hai lon Chiva và không phản đối khi tôi gọi một lon Coke.
– Điện thoại ở đâu? – Tôi hỏi.
Anh ta chỉ cho tôi và tôi gọi về cho Robin.
– Thế nào rồi em?
– Vẫn ổn. Em đang ôm ấp một người đàn ông khác trong đời.
– Vui lắm hả?
– Em không nghĩ thế. Anh ta chẳng cười mà chỉ nhỏ dãi. Cứ thế mãi thôi.
– Không hẳn thế. Bọn anh đã bỏ đi nhiều đồ ăn.
– Thôi được. Sao anh chưa về nhà?
– Milo muốn uống một chút gì đó. Tâm trạng anh ấy lúc này không tốt lắm. Có lẽ anh phải đưa anh ấy về. Em cứ ăn trước đi, không phải đợi bọn anh đâu.
– Được thôi... Em sẽ bật đèn ở cửa sổ và dành cho anh một mẩu xương ở đĩa.