← Quay lại trang sách

Chương 16

Milo tỏ ra khá trầm tĩnh cho đến tận khi chúng tôi đến Benedic Cangon. Tôi bảo anh ấy đi ngủ, anh ấy làm theo không phản đối. Bảy giờ sáng thứ bảy, tôi thức giấc, anh ấy đã đi rồi, chăn đệm gọn gàng.

Robin và tôi ăn sáng, sau đó tới thư viện Bio Med. Tôi tra cứu Wilbert Harrision trong mục nghiên cứu và điều trị bệnh tâm thần. Danh mục hướng dẫn chuyên khoa y chỉ ra một địa chỉ ở phố Signal ở Ojai, không có điện thoại. Tôi chép lại rồi tiếp tục đọc tiểu sử.

Học y tại Đại học Columbia và thực tập tại bệnh viện chuyên khoa Minninger, có một suất học bổng do chuyên khoa nhân chúng học ở Santa Barbara trao, một do văn phòng chuyên khoa của tổ chức de Bosch và Trường phục hồi chức năng trao.

Theo đuổi nhân chủng học khá thú vị, hứa hẹn một tương lai vươn xa trong sự nghiệp cá nhân. Nhưng con đường của ông ta không chỉ là hàn lâm mà lại tập trưng vào phân tâm học và những phương pháp ciều trị. Sáu lăm tuổi, nghỉ hưu, chuyển từ Beverly Hills về Ojai, sống một cuộc đời khép kín, thậm chí không có số điện thoại.

Tôi giở lướt qua vần R và chợt thấy hướng dẫn về Harvey Rosenblatt. Viện được hình thành do sát nhập Trường Đại học NY với một văn phòng ở 65 East – Mankalfa. Cùng địa chỉ của Shirley người mà tôi liên lạc biết bao lần không được.

Nhưng bà ta chẳng trả lời bao giờ, họ đã li dị chăng? Hay còn tệ hơn thế?

Tôi tiếp tục đọc. Rosenblalt tốt nghiệp Đại học NY, thực tập chuyên khoa ở Bellevue, bệnh viện chuyên khoa tâm thần học Hale Evanston Rebert ở Manhattan và bệnh viện Southwick ở Anh. Là nhà phân tâm học và tâm lý trị liệu.

Tập tiếp theo cũng có tên ông ta. Tôi tiếp tục cho đến khi cái tên đó không xuất hiện nữa.

Cách đây bốn năm đúng vào thời gian mà Paprock và Shipler bị mưu sát. Không biết họ có liên quan gì không.

Tôi thử kiểm tra. Giống như hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng khác, tờ tạp chí của hiệp hội y khoa Mỹ hằng tháng có đăng những lời cáo phó. Tôi lục tung cả đống tài liệu lên và tìm được bốn bản copy. Không có dấu vết của nhà phân tâm học nào cả.

Có lẽ bản copy của cuốn Hướng dẫn của hiệp hội phân tâm học Mĩ chỉ mở ra một lối nhỏ hẹp mà thôi. Tài liệu về Katarina de Bosch mà tôi thấy trong tập để ở nhà đã nói đến giây phút cuối cùng của cô ấy.

Tuy nhiên người ta cũng không khẳng định cô ấy đã chết, vì thế có thể tôi đang làm một việc vô ích.

Tôi nghĩ đến một hướng khác để có được những địa chỉ cần thiết, đó là những ấn bản khoa học.

Trong cuốn Phân tích phân tâm học và các chữ số có nhiều bài mà Katarina và bố cô ấy là đồng tác giả, nhưng từ khi ông ấy chết không thấy xuất hiện nữa.

Một ai đó đã nuôi dưỡng bọn trẻ, điều này gợi tôi nghĩ đến “Tình yêu dối trá”.

Tôi đọc tiếp:

Quá trình của sự hình thành ràng buộc mẹ – con dựa trên nền tảng mối quan hệ thân thiết. Nó chặn đứng mầm mống của sự phân tâm sau đó. Tình yêu cao thượng nuôi dưỡng tình cảm của trẻ nhỏ, dành cho nó cảm giác được bảo vệ, được che chở và tự tin vào khả năng của chính mình. Tình yêu dối trá là sự lạm dụng việc nuôi dưỡng tạo ra sự hoài nghi, oán hận nảy sinh từ những việc làm thất bại.

Tôi thử tìm những bài báo do Harrison và Rosenblatt viết. Nhưng không có. Thường những người mới tập sự không được in sách. Nhưng tìm thời gian tiếp đó cũng không thấy. Tốt nhất là tiếp tục với nhà hoạt động xã hội Mifechell Lerner.

Cách đây sáu năm anh ta từng là thành viên của một tổ chức hoạt động xã hội quốc gia. Ghi lại địa chỉ của Laurch Cangon và số điện thoại kèm theo. Cử nhân trường Cal State Northridge, tập sự chuyên khoa tại bệnh viện đa khoa San Francisco. Hai năm sau, trở thành nhân viên hoạt động xã hội ở trường phục hồi chức năng. Cùng với một số chuyên gia, anh ta viết vì sự lạm dụng việc nuôi dưỡng và cách xây dựng tình cảm gia đình.

Tôi bắt đầu thấy thất vọng, nhưng vẫn tiếp tục xem đến tạp chí hoạt động xã hội. Không thấy tiểu sử của anh ta, nhưng ngay dưới dòng thông báo về cái chết của anh ta vào tháng mười hai là quyết định đình chỉ hành nghề, với một danh sách kèm theo gồm mười ba người hoạt động xã hội bị tổ chức sa thải vì hoạt động bạo lực. Người nổi bật trong danh sách đó là Lerner, Mitchell A. Chẳng có thông tin gì thêm.

Thông tin thu được không đến nỗi tồi. Rời thư viện tôi quay về Benedict. Robin đang lúi húi gọt đẽo, con chó ngồi bên mặt buồn rầu. Nó theo tôi vào nhà, nhìn chăm chăm vào cái bánh Sendwich mà tôi đang cầm. Tôi đi ra ngoài, con chó lẽo đẽo chạy theo.

– Anh đi đâu đấy? – Robin hỏi.

– Về nhà. Anh định xem liệu bọn họ làm có ổn không? – Nàng nhìn tôi đầy lo lắng nhưng không nói gì.

– Có nhiều người xung quanh mà – Tôi trấn an.

Nàng gật đầu, nhìn ra ô tô. Con chó đang đứng đặt chân lên đầu xe. Nàng mỉm cười.

– Người ta muốn đi đây đi đó. Sao anh không cho nó đi cùng.

– Sao cơ... nhưng cái hồ đang tháo nước không phải là thứ mà nó ưa thích, nước là nỗi ám ảnh của nó mà.

– Sao anh không dạy nó thử xem.

– Ừ, sao lại không nhỉ. Có thể bắt đầu một việc mới đấy chứ.

*

Bốn người đàn ông đã có mặt trước khi tôi đến. Nước trong ao đã rút xuống một nửa và thôi không chảy mạnh nữa, không khí đang được thổi vào cho cá bằng một thùng to màu xanh trên xe tải. Mấy người công nhân nhổ những bụi bo vướng víu và kiểm tra đường dây khí dẫn tới thùng.

Tôi cùng với người tổ trưởng đi kiểm tra lại lần nữa. Đó là gã đàn ông da ngăm nâu, râu cằm trắng như nhuộm. Con cún giữ khoảng cách với ông ta, bám sát theo tôi khi tôi đến kiểm tra thùng thư.

Chẳng có gì quan trọng ngoài một phong bì trắng, dài làm bằng một loại giấy rẻ tiền mà trước đó tôi từng nhìn thấy ở đâu đó.

Tên và địa chỉ người gửi: Sherman Bucklean, luật sư tại văn phòng luật sư, thung lũng Simi. Lá thư thông tin rằng Donald Dell Wallace tin chắc tôi biết nơi ở của người khiếu kiện hợp pháp Chondra Starr Wallace và Tiffani Nicolette Wallace, yêu cầu tôi nhanh chóng cho biết chính xác thông tin về luật sư của người đó, để quyền của người khiếu kiện hợp pháp không bị hạn chế. Phần còn lại của bức thư là một loạt ngôn ngữ chuyên môn về pháp luật.

Tôi nhét lá thư vào phong bì rồi đút vào túi. Con chó đang cào cào cửa.

– Nào nào – Tôi vừa vỗ đầu nó vừa mở cửa, nó chạy lên trước tôi đến thẳng bếp và xông tới tủ lạnh giơ chân cào cào, miệng thở dài hổn hà hổn hển. Tôi mở tủ và thấy một ít thức ăn đã bị hỏng, liền bỏ chúng ra khỏi tủ lạnh.

Sữa, pho mát và một số hoa quả bắt đầu héo, tôi cũng quẳng đi nốt. Cho những thức ăn còn dùng được vào túi, tôi lại nghĩ đến những người lang thang trên xa lộ. Còn một ít thịt trong hộp nhựa, mùi còn khá thơm... Con chó nhìn chằm chằm vào đó cứ như nhìn thấy vị cứu tinh.

– Được rồi – Tôi đổ hộp thịt ra bát và đặt trước mặt nó, rồi cầm túi rau quả còn tươi đi xuống xe.

Những người dọn ao cá đã làm xong việc.

Anh tổ trưởng nói với tôi:

– Được rồi đấy, vài tiếng nữa sẽ hút sạch hồ. Ông có muốn chờ để kiểm tra không?

– Không thành vấn đề.

– Khi nào ông quay trở lại.

– Chưa biết.

– Ông định đi dài ngày à?

– Có thể như thế.

– Lạnh đấy.

Anh ta đặt vào tay tôi tờ hóa đơn. Một lát sau, họ đi. Chỉ còn nghe tiếng nước róc rách. Tôi ngồi xuống bên bờ ao vương vãi bùn đất, chờ xem nước cạn dần. Hơi nóng và sự yên tĩnh làm tôi thiu thiu ngủ. Không biết chính xác là bao lâu sau, chợt có giọng ai đó làm tôi tỉnh giấc: “Chào!”

Tôi ngái ngủ đứng dậy, chuyệnh choạng.

Một gã đàn ông trên dưới ba mươi tuổi, râu tóc đen rậm rì cầm một cái vành xe đứng chắn ngay lối vào. Hắn mặc một cái quần Jeans xám, đi ủng có trang trí dây xích, áo phông đen bên trong áo vét da đen đậm. Tai hắn đeo khuyên tai vàng, cố đeo xích kim loại, trên cánh tay xăm một hình lớn.

Chân hắn đi vòng kiềng, bụng phệ, mắt có những viền đỏ, đầu hắn đội mũ lưỡi trai đen.

Một gã bảo vệ nhan nhản ở các quán bar. Hắn ta vừa huýt sáo vừa tiến lại gần. Hắn cầm vành xe bằng một tay, từ từ hạ thấp, rồi tiến lại gần tôi. Hắn nhìn dán vào mặt tôi, rồi nở một nụ cười chậm rãi.

– Vẫn giữ nguyên bức tường chứ hả?

– Anh muốn gì?

– Những đứa con của Donald – Giọng hắn đặc sệt, cứ như vừa rời quầy bar đến thẳng đây vậy.

– Họ không ở đây.

– Ở đâu, ông anh?

Trong tay hắn bánh xe quay hình vòng cung rộng hơn. Tôi đáp:

– Làm sao tôi biết được.

– Anh đang tìm một người đàn ông da đen, nhỏ thó. Có thể anh đã tìm thấy hắn ta. Có thể đã tìm thấy, ông anh ạ – Hắn tiếp tục bước về phía tôi, chỉ còn cách một vài bước chân.

Tôi nhìn rõ hắn, rất nhiều răng bị gãy, đầu đầy gầu, một cái mụn căng mủ nằm ngay dưới mắt trái. Một hình xăm trông thật kỳ quái: lưỡi dao đầy máu và những chữ theo kiểu gothic màu xanh loè loẹt.

Tôi nói:

– Tôi đã nhận được thư từ luật sư của Wallace.

– Mẹ kiếp – Hắn ta tiến lại và vung tay rộng hơn, mùi hôi bốc ra từ hắn như mùi của một chậu quần áo bẩn lâu ngày chưa giặt.

Tôi quay lại phía sau. Không còn chỗ để lùi nữa. Đằng sau tôi là những bụi gai và cây bo chằng chịt. Tôi nói:

– Không phải anh đang giúp cho Donald Dell đấy chứ. Điều đó không lợi cho ông ta đâu.

– Ai gây ra chuyện vớ vẩn này, ông anh? Ông anh hết cơ hội rồi.

Hắn ta vung cái vành lên một cách uể oải, rồi hạ xuống và đập xuống đất, bụi tung lên mù mịt. Hắn liếc xuống ao rồi nhìn tôi.

Tôi nhìn vội xung quanh tìm vũ khí.

Vài cái túi nhựa quá khổ do mấy người công nhân bỏ quên, đoạn dây cao su, một vài mảnh kính lọc màn hình, một mái chèo dài, nhưng nó ngoài tầm với của tôi.

– Từ khi nào? Tôi hỏi.

– Cái gì?

– Tôi hết cơ hội từ khi nào?

– Từ khi tao nói như vậy đấy.

– Anh thuộc nhóm – Những Thầy Tu Sắt ư?

– Những đứa trẻ ở đâu?

– Tôi nói rồi, tôi không biết.

Hắn ta lắc đầu.

– Đừng có hy sinh vì nó, ông anh ạ. Đó chỉ là công việc thôi. Mẹ kiếp.

– Anh thích cá chứ?

– Hả?

– Cá ấy. Một sinh vật tuyệt vời. Đồ nhắm cũng tuyệt vời.

– Hừ!

– Anh có muốn làm một ít đồ nhắm quen thuộc không?

– Cái gì?

– Anh đã từng đến đó chưa? Câu cá thể thao ấy.

Vẻ bối rối hiện rõ trên khuôn mặt hắn ta. Nhưng nó qua đi rất nhanh. Sau đó là cơn tức giận bùng lên, hắn ta nhắm thẳng vành xe vào người tôi.

Tôi nhảy vọt sang bên tránh đòn.

– Hừ!

Hắn rất tức giận, vung nhát nữa, trượt, hắn lại đập một nhát thật mạnh, nhưng không đủ tầm với, trong suốt thời gian đó vẫn không có gì thay đổi trên nét mặt hắn.

– Lại đây, gà con, chic... chic... – Hắn cười.

Tôi cố chạy xa hắn ta, tìm mấy hòn đá ở ven hồ. Nhưng mấy hòn đá đầy rêu bám, trơn trượt, tôi phải dùng cả cánh tay để giữ. Điều đó làm hắn cười phá lên. Hắn ta hét lên, đi vòng ra sau tôi, dáng thô kệch và chậm rãi. Hắn đuổi, vờn tôi như chơi trò chơi vậy.

Hắn ta bắt đầu kêu cục, cục như gà trên sân. Tôi liếc nhanh giữa bánh xe và mắt hắn ta, sẵn sàng tìm cơ hội làm hắn giật mình và sẽ lấy cái to béo của hắn chơi lại hắn. Nếu tôi sơ sểnh, tôi sẽ bị đập nát ngay.

– Bum, bum, bum – Hắn gọi, gà con, chic, chic.

– Đồ ngu ngốc – Tôi nói.

Mặt hắn đỏ lên rồi tái đi. Hai tay nắm chặt bánh xe, hắn đột ngột vung vào đầu gối tôi.

Tôi nhảy giật lùi, vấp chân, trượt ra rìa hồ, tay bị đập một cái khá đau. Bánh xe rơi xuống đám sỏi kêu lạo sạo. Hắn ta nhặt lên, nâng cao qua đầu. Có tiếng động sau lưng hắn – rồi tiếng sủa rất gần, tiếng khịt mũi. Cuối cùng một khối lao nhanh như tia chớp vào hắn. Hắn ta quay ngay về phía sau, giơ bánh xe chắn trước ngực như đỡ khiên. Con chó Bun đã xông vào hắn, cái đầu đen của nó nhỏ như đầu đạn, răng nhe ra trắng ởn đe dọa. Tôi nhảy bật lên, tay cầm hòn đá quay tròn.

Không đủ lực để hạ gục hắn lập tức, nhưng tôi đã đập được vào hắn, đẩy bánh xe mạnh vào ngực hắn. Có cái gì đó gãy đánh rắc.

Hắn kêu lên “ối”. Âm thanh yếu ớt lạ thường. Hắn sụp xuống. Người gập lại như cây chuối gãy.

Con chó chồm lên người hắn, cắn ngập răng vào chân hắn, giật lắc từ bên này sang bên kia.

Hắn nằm úp sấp. Tôi giẫm mạnh làm cho bánh xe dưới ngực hắn cứa lên nghe sắc lạnh

Tôi ấn ấn cho đến khi tiếng rên rỉ của hắn yếu dần, tôi bắt đầu nới lỏng tay.

Tôi kéo hắn lên. Hắn hầu như không nhúc nhích, cả thân hình lực lưỡng của hắn đổ ập xuống cạnh tôi. Tôi vẫn cố đứng vững, để mặc hắn đổ uỵch xuống đám cỏ, hy vọng không làm rách thanh quản của hắn.

Con chó vẫn chồm lên người hắn, nhay nhay ống quần bò.

Gã đàn ông nằm sõng soài trên nền đất bụi. Tim tôi đập dồn dập. Hắn bắt đầu cử động và rên rỉ.

Tôi tìm thứ gì đó để băng cho hắn. Nhìn xa xa tôi thấy có mấy cái túi vải. Tôi bảo con chó: “Ở đây nhé”. Tôi chạy ra nhặt mấy cái túi, buộc lại với nhau thành dây rồi buộc treo cánh tay hắn lên.

Con chó lùi lại quan sát tôi, đầu nó ngẩng lên. Tôi khen nó:

– Mày làm tốt lắm, Spike ạ! Nhưng này đừng có ăn cái đó. Một miếng thịt bò thăn mày thấy thế nào, nó tuyệt hơn đấy.

Gã đàn ông he hé mắt. Cố gắng nói gì đó nhưng chỉ phát ra những tiếng khào khào trong cổ họng.

Phía trước cổ hắn có một vết thương và một vết thâm tím ngay chỗ xăm. Con chó bước qua hắn, hắn như bị điện giật. Hắn quay đầu đi và nhăn mặt vì đau.

Tôi nói:

– Đứng yên, Spike. Không đánh nhau nữa.

Con chó nhìn tôi dò xét với đôi mắt đã dịu hơn. Gã đàn ông bật ho nghèn ngẹt. Con chó chớp mắt, nước miếng chảy ròng ròng, miệng nó gầm gừ.

– Mày khá đấy, Spike – Tôi nói – Đợi hắn một chút, nếu hắn có ác ý gì thì mày được phép cắn họng hắn làm bữa điểm tâm nhé.