← Quay lại trang sách

Chương 18

Chúng tôi ăn tối ở một quán ăn Ấn Độ gần đồi Beverly phía Tây Los Angeles. Sau đó chúng tôi dùng trà và lái xe về nhà. Về đến nhà, Robin đi tắm còn tôi gọi điện cho Milo để nói với anh ấy về cuộc gọi của Jean.

– Chị ta muốn nói với tôi chuyện gì đó nhưng nhất định không nói qua điện thoại. Chị ta có vẻ lo lắng lắm. Tôi đoán chị ta phát hiện ra điều gì đó về Hewitt nên mới sợ hãi như thế. Tôi sắp đến gặp chị ta vào lúc một giờ. Tôi sẽ hỏi chị ta về Gritz. Khi nào anh gặp Ralph Paprock?

– Chắc cũng khoảng một giờ.

– Có sớm hơn được không?

– Nhưng mười giờ cửa hàng mới mở cửa. Tôi định sẽ tóm ngay khi hắn ló mặt tới.

– Tôi sẽ đến đón anh.

*

Sáng chủ nhật tôi lái xe đến phía Tây Hollywood.

Nhà của Milo và Rick không được rộng rãi lắm. Đó là ngôi nhà xây theo kiến trúc Tây Ban Nha nằm ở cuối con phố nhỏ tối tăm, khuất sau bóng dáng khổng lồ kỳ dị của trung tâm Design. Chiếc Cedar– Sinai đậu ở giữa lối đi, thỉnh thoảng Rick có lái nó đi làm, nhưng hôm nay anh ấy lái chiếc Porsche màu trắng. Milo đang đứng đợi ngoài cổng. Chiếc sân bóng nhỏ được thay bằng một vườn hoa vàng rực rỡ. Khi thấy tôi chăm chú nhìn vườn hoa, anh ấy nói:

– Do chúng tôi chống hạn tốt đấy – Rồi trèo lên xe. Tôi đã kể với anh về nhà thiết kế yêu môi trường đó rồi mà. Gã này có thể đặt toàn bộ thế giới vào một cây xương rồng nếu gã muốn.

Tôi đưa Laurel Cauyon đến Valley, băng qua những ngôi nhà hình hộp, trạm điện thoại hiện đại và lâu đài Palladian cũ nát, nơi Haudini đã đối xử quá nghiêm khắc với Jean Harlow. Trong vùng này đã từng có một vị thống đốc bang sinh sống, nhưng chưa một huyền thoại nào phai mờ.

Đến Ventura tôi rẽ trái và lái tiếp hai dặm đến Valley Vista Cadillac. Phòng trưng bày tại triển lãm dựng một tấm gương rất lớn. Đằng trước là một khu đất trống. Những tấm băng được treo cao trên dây điện. Điện đã tắt nhưng những tia nắng đầu tiên trong ngày len lỏi vào phòng qua những khe hở làm hiện rõ bóng người nằm trên ghế đá.

Những chiếc xe hơi trong khu đất trước nhà đều đã tắt đèn.

Đứng cạnh chiếc Sevillie màu khói là một người đàn ông da đen mặc bộ quần áo thủy quân cắt rất khéo. Khi thấy chúng tôi bước xuống xe anh ta bước đến mở cửa hàng, mặc dù còn lâu mới đến giờ làm việc. Khi tôi và Milo bước vào, anh ta chìa tay mời và nở nụ cười. Nụ cười của anh ta còn tươi hơn cả hoa trong vườn nhà Milo.

Gã da đen này có bộ ria rất đẹp và một chiếc áo sơ mi cổ bẻ trắng như tuyết. Phía bên kia phòng trưng bày cạnh nơi đỗ xe hơi là những phòng ngủ nhỏ. Đứng trong phòng trưng bày tôi nghe thấy cả tiếng ai đó đang nói chuyện qua điện thoại. Những chiếc xe hơi bóng lộn không một vết bẩn và hoàn hảo đến từng chi tiết. Trong phòng nồng nặc mùi da, mùi cao su và mùi các thứ hàng hóa khác. Xe của tôi cũng từng có mùi như thế, dù tôi sử dụng đã lâu.

– Xe của anh chắc là một loại cổ – Gã đàn ông nhìn qua cửa sổ và nói.

– Hợp với tôi đấy chứ! – Tôi nói.

– Hãy giữ nó cẩn thận. Một ngày nào đó ông sẽ thấy được nó giá trị thế nào, cũng như tiền gửi nhà băng ấy. Trong khi đó hàng ngày ông có thể lái một cái mới đi làm. Năm nay cũng được tuổi đấy chứ! Ông có nghĩ vậy không?

– Cũng tuyệt.

– Anh là luật sư à?

– Không, tôi là nhà tâm thần học.

Anh ta mỉm cười miễn cưỡng. Tôi tìm thấy một chiếc thẻ ghi John Allbright – Giám đốc bán hàng.

– Năm nay anh có thể mua được một cái nhíp hợp với chiếc xe cổ của anh đấy – Anh ta nói – Tôi nghĩ chỉ còn một cái duy nhất trên thế giới thôi. Nếu khi nào anh muốn hãy đến với Bose và...

– Chúng tôi đang cần gặp Ralph Paprock – Milo nói.

Allbright nhìn Milo chằm chằm, đặt tay lên miệng che nụ cười gượng gạo.

– Ralph à! – Anh ta nói – Đúng rồi Ralph ở đằng kia kìa!

Vừa trỏ tay về phía những căn phòng nhỏ, anh ta vừa bước nhanh rồi biến vào góc cửa kính. Anh ta đứng lại hút thuốc rồi đi ra khu đất trống.

Hai căn phòng đầu tiên không có người ngủ. Trong phòng thứ ba Ralph Paprock đang ngồi phía sau chiếc bàn uống nước. Anh ta khoảng gần năm mươi tuổi, nhỏ nhắn, nước da rám nắng, mái tóc nâu lơ thơ trên đỉnh đầu, phía hai bên thái dương được chải gọn gàng và vén ra sau tai. Bộ quần áo xanh oliu của anh ta được cắt theo kiểu áo của Allbright, nhưng có vẻ sáng màu hơn. Anh ta mặc chiếc áo sơ mi màu kem, cổ cao, rộng. Chiếc ca vát in loè loẹt những con vẹt và cây cọ vùng nhiệt đới. Trước mặt anh ta ngập một đống giấy tờ, đầu lưỡi thập thò nơi khoé miệng. Tay phải anh ta cầm bút gõ nhanh lên bàn. Móng tay anh ta sơn bóng.

Milo đằng hắng, Ralph rụt lưỡi vào và nở nụ cười rất tươi, nhưng khuôn mặt vẫn hằn lên nét mỏi mệt, cơ mặt chùng xuống nhão nhoét. Đôi mắt Ralph ti hí màu hổ phách. Bộ áo vét làm chúng ánh lên sắc kaki.

– Chào các ông. Tôi có thể giúp được gì cho các ông không?

Milo nói:

– Ông Paprock. Tôi là thám tử Sturgis thuộc Sở Cảnh sát Los Angeles – Anh ấy đưa cho anh ta tấm các.

Anh ta nhìn Milo cái nhìn dò hỏi:

– Anh định làm gì tôi với cái thẻ của anh đây!

Tôi cảm thấy khó chịu. Chúng tôi không có gì đặt mua ở chỗ anh ta cả nhưng chắc sẽ có rất nhiều thứ phải mang đi.

Tôi liếc nhìn bức ảnh trên bàn đặt cạnh bức tranh quảng cáo xe Cadillac. Trong bức ảnh là hai đứa trẻ mặt bầu bĩnh, tóc vàng. Đứa bé gái nhỏ hơn đang cười, nhưng đứa con trai mắt lại đầy nước. Đứng sau hai đứa nhỏ là người phụ nữ khoảng bảy mươi tuổi, đeo kính hình con bướm, mái tóc muối tiêu. Trông bà ta giống Paprock, nhưng có vẻ cương nghị hơn.

Milo nói:

– Xin lỗi vì đã làm phiền ông, ông Paprock. Chúng tôi đang điều tra một vụ giết người có liên quan đến vợ ông, nên chúng tôi muốn hỏi ông một vài câu.

– Còn gì nữa không, thứ gì mới ấy? –Paprock nói– Tôi chẳng thấy có gì mới mẻ ở đây cả.

– Không hẳn vậy đâu thưa ông. Vụ này cách đây ba năm rồi.

– Ba năm à? Thế mà ông nói là ông mới chỉ điều tra? Thế ông đã tóm được hung thủ chưa?

– Chưa, thưa ông!

– Chúa ơi! – Tay Paprock vẽ trên mặt bàn, trán anh ta vã mồ hôi. Anh ta đưa mu bàn tay lên quệt – Chẳng lẽ đây là chuyện tôi phải làm đầu tiên trong tuần hay sao?

Đối diện với chiếc bàn của Paprock có hai chiếc ghế trống. Anh ta nhìn chằm chằm vào đó nhưng không định mời chúng tôi ngồi.

Milo nháy tôi bước vào văn phòng và đóng cửa. Căn phòng rất hẹp. Paprock chìa tay ra, chúng tôi ngồi xuống. Đằng sau bàn có một tấm chứng chỉ cấp cho người bán hàng giỏi từ ba năm nay.

– Ai là nạn nhân tiếp theo?– Paprock hỏi.

– Một người tên là Rodney Shipler–Milo trả lời.

– Một người đàn ông à?

– Đúng vậy.

– Một người đàn ông... tôi chẳng hiểu gì cả.

– Anh không nhận ra tên sao?

– Không. Nếu đó là đàn ông thì tại sao anh lại nghĩ vụ án này có liên quan đến vợ tôi chứ.

– Vì cụm từ “Tình yêu dối trá” được viết trên hiện trường.

– Tình yêu dối trá á!– Anh ta kêu lên một cách ngạc nhiên– Tôi thường mơ thấy từ này và cố hiểu theo nhiều nghĩa nhưng vẫn chưa...

Anh ta nhắm mắt lại rồi mở ra. Sau đó anh ta lôi trong ngăn kéo ra một chiếc lọ. Đó là lọ thuốc aspirin. Anh ta lấy ra vài viên, rồi đút chiếc lọ vào túi áo vét sau chiếc khăn tay.

– Những nghĩa nào? – Milo hỏi.

Paprock nhìn anh ấy.

– Lộn xộn lắm, tôi vẫn chẳng biết nghĩa thực của nó là gì. Tôi không nhớ lắm..

Milo giơ ngón tay lên cao, như đang tìm một lời giải khó:

– Có dấu hiệu gì... của Shipler... tôi đoán vậy... hay có gì liên quan đến sex không?

– Không – Paprock nói–Họ có nói với tôi về chuyện này. Những tay cảnh sát, những gã tâm thần đôi khi cũng lạm dụng tình dục, nhưng điều đó hình như không liên quan đến cụm từ này. Cuộc đời của Myra cũng chẳng có gì liên quan đến thuật ngữ này.

Milo gật đầu.

– Một người đàn ông s– Paprock nói – Thế anh định nói với tôi chuyện gì? Toán cớm trước chắc đã sai lầm. Họ tìm sai hướng phải không?

– Về điểm này thì tôi không rõ lắm. Tôi chỉ biết có ai đó đã viết lại chữ “Tình yêu dối trá” ở hiện trường vụ án Shipler thôi.

– Shipler! –Paprock nhướng mày– Các anh định lật lại tất cả vấn đề từ anh ta à?

– Chúng tôi chỉ muốn điều tra ra sự thật thôi ông Paprock ạ!

Paprock nhắm mắt lại và thở dài.

– Myra của tôi đã chết, nhưng tôi có thể tả lại cô ấy chính xác. Với các anh chuyện này có vẻ sáo mòn quá nhưng... Anh ta lắc đầu.

– Không bao giờ sáo mòn cả!

Paprock nhìn Milo nghi ngờ.

– Sau khi nhận dạng cô ấy tôi phải mất rất nhiều thời gian để nhớ lại cách cô ấy thường... thậm chí ngay cả bây giờ... Nhóm cảnh sát đầu tiên nói bất kỳ kẻ nào... lạm dụng cô ấy... Sẽ bị bắt sau cái chết của cô ấy– Mắt anh ta ánh lên đầy cảnh giác – Điều đó thì họ nói đúng phải không?

– Đúng, thưa ông!

Tay Paprock bấu chặt lấy mép bàn. Anh ta nhô người về phía trước:

– Hãy cho tôi biết sự thật, ông thám tử, hoàn toàn sự thật. Tôi không muốn nghĩ đến nỗi đau ấy. Nhưng nếu không thể quên được thì đừng nói cho tôi biết điều gì bẩn thỉu cả. Tôi không muốn biết những chuyện đó. Cô ấy không đau khổ thưa ông! Tin mới duy nhất là cái chết của ông Shipler.

Mồ hôi càng vã ra đầm đìa trên mặt anh ta, anh ta đưa tay quệt liên tục. Sau đó, Paprock nói:

– Sau khi tôi nhận ra cô ấy, tôi phải nói với lũ trẻ. Tất nhiên là chỉ với đứa lớn, đứa bé vẫn còn quá nhỏ. Tuy đứa lớn cũng chẳng lớn hơn đứa nhỏ bao nhiêu, nhưng nó luôn miệng hỏi đến mẹ, vì thế tôi phải nói cho nó biết. Anh ta vỗ hai tay vào nhau, lắc đầu rồi lại gõ lên mặt bàn, nói tiếp. Phải mất rất lâu tôi mới tin ở sự thật. Khi phải nói chuyện với các con, tôi nghĩ rất nhiều về cô ấy. Trong đầu tôi lúc nào cũng thấy các con tôi gọi “Mẹ ơi, mẹ ơi”. Thằng lớn mới chỉ có hai tuổi rưỡi. Tôi nói với nó, mẹ con bị mệt và sẽ ngủ mãi mãi. Khi con em lớn hơn một chút, tôi giao cho thằng anh nhiệm vụ phải nói cho em nó sự thật. Con tôi đều là những đứa trẻ tuyệt vời. Mẹ tôi giúp tôi chăm sóc chúng. Bà đã gần tám mươi rồi, nhưng lũ trẻ không làm khó dễ gì bà. Thế thì tại sao phải thay đổi? Việc gì phải nhắc đến tên Myra và đảo lộn mọi thứ lên chứ? Có lúc người ta đã cố tìm ra thủ phạm. Đó là điều duy nhất mà tôi quan tâm. Nhưng thôi hãy dẹp chuyện này sang một bên. Chuyện của các ông có gì khác à? Cô ấy không thể sống lại để khai với các ông, đúng không?

Tôi gật đầu. Milo vẫn đứng yên.

Paprock đặt tay lên trán, mắt mở to.

– Tôi muốn hỏi vài câu về tiểu sử của vợ ông thôi.

Milo nói:

– Tiểu sử à?

– Chính xác là về công việc của bà ấy, đặc biệt là khi bà ấy kinh doanh địa ốc. Ngoài ra bà ấy còn làm gì nữa không?

– Sao các ông lại quan tâm đến điều ấy?

– Chỉ là thu thập chứng cớ thôi.

– Cô ấy làm việc ở ngân hàng, thế được chưa? Thế cái gã Shipler đó làm gì?

– Anh ta là bảo vệ.

– Cô ấy làm cho ngân hàng nào?

– Trust Federal – Quỹ tín dụng quốc gia ở Encino. Cô ấy làm bên bộ phận cho vay. Chính ở đó tôi đã gặp cô ấy. Chúng tôi thường trao đổi các khoản vay trả, về kinh doanh xe hơi của tôi. Ngày đó tôi làm ăn thua lỗ, nhưng cô ấy không ngần ngại cho vay.

Milo lôi ra cuốn sổ tay và ghi lia lịa.

– Đáng lẽ cô ấy được đề bạt làm phó giám đốc – Paprock nói tiếp – Vì cô ấy rất thông minh. Nhưng cô ấy muốn làm việc một cách có trách nhiệm. Cô ấy đã khám phá ra có chuyện tham nhũng. Vì vậy ban đêm cô ấy thường nghiên cứu tình hình của các nhà đầu cơ. Cô ấy đã làm đúng... Có rất nhiều các vụ buôn bán...

Anh ta nhìn sang tấm ảnh hai người rất đẹp đôi đang cầm vợt tennis bước vào chiếc xe Coup De Ville, chiếc vô lăng sáng như kim cương. Đằng sau xe là một khách sạn sang trọng, mặt tiền lát đá cẩm thạch và lắp kính thủy tinh cao cấp. Người gác cửa mỉm cười rất tươi với họ.

– Hội tham nhũng sao? – Milo hỏi – Trước khi làm ở nhà băng cô ấy có làm nghề gì khác không?

– Có, trước khi tôi gặp cô ấy, cô ấy dạy học– Paprock nói và vẫn quay mặt đi.

– Ở Los Angeles đúng không?

– Không, hình như ở Santa Barbara – Goleta.

– Goleta? Anh có nhớ tên trường không?

Paprock ngẩng mặt lên:

– Đó là một trường công... Nhưng tại sao? Công việc của cô ấy có liên quan đến chuyện gì ư?

– Có thể có, có thể không. Nhưng xin ông hãy trả lời tôi. Cô ấy có bao giờ dạy ở Los Angeles không?

– Tôi cũng không rõ. Nhưng trước khi đến đây cô ấy làm nghề dạy học.

– Tại sao lại thế?

– Do hoàn cảnh thôi... bọn trẻ không muốn học, lương lại thấp. Thử hỏi có gì níu kéo được cô ấy nữa chứ.

– Tại một trường công cơ đấy! – Tôi nói.

– Vâng, đúng thế!

– Cô ấy dạy môn gì? – Milo hỏi.

– Tất cả các môn. Tôi đoán cô ấy dạy lớp bốn hay lớp năm gì đó. Tôi cũng không rõ nhưng chắc chắn cô ấy dạy cấp một. Ở cấp một giáo viên dạy tất cả các môn, đúng vậy không? Chúng tôi chưa bao giờ nói nhiều đến chuyện này.

– Cô ấy dạy ở đó vào khoảng thời gian nào?

– Để tôi nhớ xem. Cô ấy tốt nghiệp năm hai mươi hai tuổi, tháng năm này cô ấy bốn mươi tuổi. Vậy thì khoảng mười tám năm trước là hợp lý. Tôi nghĩ cô ấy dạy ở đó khoảng bốn hay năm năm, sau đó sang làm ở ngân hàng.

– Trước khi dạy ở Goleta cô ấy còn dạy ở đâu không? – Milo hỏi.

– Tôi không rõ, nhưng đó là công việc đầu tiên của cô ấy khi ra trường.

Anh ta nhìn vào ảnh một lần nữa và lau trán.

Milo tắt chiếc máy ghi âm. Tiếng động làm Paprock giật mình, ánh mắt hai người gặp nhau.

Milo mỉm cười, cố gắng làm ra vẻ thân thiện.

– Cảm ơn ông đã dành thời gian cho chúng tôi, ông Paprock. Ông còn muốn nói gì với chúng tôi không?

– Không – Paprock nói– Nhưng khi nào tìm ra kẻ giết vợ tôi các ông hãy nhốt nó vào và để tôi gặp nó – Anh ta trừng mắt, nắm chặt hai tay và mỉm cười méo mó – Mong là sẽ có cơ hội.

Tôi và Milo đứng dậy. Ngay sau đó Paprock cũng đứng dậy. Anh ta là người tầm thước thanh nhã. Anh ta đưa tay đấm nhẹ vào ngực, lôi ra lọ thuốc asprine trong túi áo và truyền qua truyền lại trong tay. Đi vòng qua bàn, anh ta với tay mở cửa và giữ lại cho chúng tôi ra. John Allbright và những người khác đã trốn biệt đi đâu mất. Paprock đưa chúng tôi ra khỏi phòng trưng bày, khi đi qua chiếc Eldorado mạ vàng anh ta đưa tay sờ vào nó.

– Whyncha mới mua một chiếc xe hơi – Anh ta nói. Khuôn mặt rám nắng hơi ửng đỏ.

Milo chìa tay ra. Paprock bắt tay Milo, sau đó đến tôi. Chúng tôi cảm ơn anh ta một lần nữa.

– Các anh này – Anh ta nói – Tôi đã nói về điều tôi không muốn biết? Thật là điên, nhưng tôi vẫn còn nhớ cô ấy. Ba tháng trước tôi đã tái hôn. Các con tôi rất ghét mẹ kế. Với chúng Myra là người đặc biệt. Một ngày nào đó chúng sẽ hiểu. Tôi có thể chịu đựng được chuyện này. Nếu phát hiện được điều gì hãy báo cho tôi biết nhé! Nhớ nhé!

Tôi cho xe chạy qua Coldwater Canyon quay trở về thành phố.

– Một trường công lập cạnh Santa Barbara, tôi nói, lương thấp, vì thế có thể cô ấy sẽ sang một trường tư.

– Cũng hợp lý – Milo nói.

Anh ta hạ thấp cửa sổ, châm một điếu xì gà và nhả khói vào bầu không khí nóng nực ở Valley. Thành phố chật ních xe cộ. Một làn đường xe ngựa nối đuôi nhau đến tận đại lộ Ventura. Milo luôn bực bội với những vụ tắc đường như vậy. Nhưng lần này anh ngồi im hút thuốc và suy ngẫm.

– Shipler là người gác cổng trường. Có thể anh ta cũng làm việc cho trường de Bosch. Đây là mối dây liên kết của chúng ta. Cả hai đều là nhân viên chứ không phải là bệnh nhân ở đó. Hai mươi năm rồi... không biết quận này có còn lưu giữ hồ sơ của trường không? Tôi sẽ kiểm tra xem liệu Shipler có chuyển đi khỏi Santa Barbara không?

– Càng có lý do để tôi lái xe đến đó! – Tôi nói.

– Khi nào anh đi?

– Ngày mai, nếu Robin không cản. Việc tìm kiếm dấu tích còn lại của trường và việc tìm Wilbert Harrison ở Ojai đều chẳng dễ chịu chút nào.

– Với những tay bác sĩ trị liệu ở hội thảo hôm đó làm việc cho trường cũng chẳng thấy thú vị đâu.

– Nhưng Harrison và Lerner thì có đây, chỉ Rosenblatt là không thôi. Anh ta được de Bosch đào tạo ở Anh. Tôi không rõ về Stoumen, nhưng anh ta là người ủng hộ de Bosch, Katarina đã mời anh ta phát biểu. Do đó chắc chắn giữa họ có mối quan hệ nào đó.

– Nói gì đi chăng nữa thì tất cả đều liên quan đến de Bosch. Tất cả những ai có liên quan đến ông ta đều bị nghi ngờ. Thuật ngữ “Tình yêu dối trá” nói đến sự mất lòng tin của trẻ.

– Đó là khái niệm.

Tôi đến Coldwater và cho xe chạy lên dốc. Milo ném cuống điếu thuốc ra ngoài cửa sổ và nói:

– Paprock đã nói thật về vợ lão. Anh biết rồi đấy, trông anh ta mệt mỏi lắm rồi.

– Tội nghiệp cho anh ta – Tôi nói – Anh ta sẽ phải khổ nhiều.

– Nếu tôi nói cho anh ta biết cô ta chết khi bị cưỡng hiếp thì sao nhỉ Alex, cũng với sáu mươi tư vết đâm trên người, rất nhiều vết đâm trước khi cô ta chết. Có lẽ đây là một vụ báo thù. Anh có nghĩ thế không Alex? Cô ấy đã bị hành hạ trong một thời gian rất dài.