Chương 21
Tôi hơi nghi ngờ về việc Myra Evans và Myra Paprock chỉ là một, cái chết của cô ta và những người khác có liên quan đến de Bosch, đến trường học hay không?
Silk. Merino.
Hội nghị làm cho ai đó bị sốc.... một vài chấn thương.
Tình yêu dối trá.
Giọng rên rỉ của một đứa trẻ.
Tôi có cảm giác lo lắng đột ngột và hối hận vì đã để Robin ở nhà một mình. Tôi dừng lại trung tâm Ojai và gọi cho nàng từ máy công cộng. Nàng không có nhà. Tôi quay số nhà thờ Benedict về máy nhắn tin của mình. Đến tiếng chuông thứ năm có người nhấc máy.
– Không, cô ấy không có ở đây. Ông có muốn xem tin nhắn không, bác sĩ.
– Có.
– Chỉ có một tin nhắn của ông Sturgis. Ông ấy gọi để thông báo rằng Van Nuys sẽ nhận được băng ghi âm của anh sớm.
– Chẳng đơn giản –Tôi nói.
– Bác sĩ, ông biết đấy, họ tự làm cho mọi thứ trở nên phức tạp, vì thế con người lại tự cảm thấy mình ngu ngốc.
*
Ra khỏi thị trấn, tôi đến đại lộ 105 và đi thẳng theo hướng đông bắc trên đường cao tốc có hai làn xe uốn éo. Hồ Casitas uốn khúc song song với đường cao tốc ồn ào và xám xịt dưới ánh mặt trời lờ mờ. Hai bên đường là những lùm cây bơ với những ngọn vàng vàng mới nhú. Hết nửa đường tới Santa Barbara, đại lộ nối với đường 101 và tôi đi nốt mười hai dặm còn lại với tốc độ vừa phải.
Tôi nghĩ lại những điều Harrison nói với tôi về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của de Bosch và nghĩ xem tôi sẽ nói gì với Katarina khi tôi tìm thấy cô ta, làm thế nào để tôi tiếp cận với cô ta.
Tôi ra khỏi đường cao tốc rồi mà vẫn không nghĩ ra cách nào. Tôi mua xăng và gọi đến số Harrison đã cho. Không ai nhấc máy. Tôi quyết định sẽ trì hoãn cuộc gặp mặt, tôi xem qua sách hướng dẫn xem trường Corrective trước đây ở đâu. Hóa ra nó ở gần biên giới Montecito, gần hơn vài dặm so với Shoreline Drive.
Tôi đến một con phố râm mát và thẳng, có rất nhiều cổng. Ở đó có rất nhiều cây khuynh diệp nhưng khô héo. Mặc dù khu này rất dễ bị cháy nhưng vẫn có nhiều mái nhà và xe Mercedes.
Địa chỉ đưa tôi tới một ngôi nhà khá đẹp nằm sau bức tường đá cao. Một tấm biển quảng cáo chăng qua sáu nhà, nhiều màu sắc và hỗn độn. Ngang qua đường là một ngôi trường tư thục sơn màu hồng và nâu với một tấm biển treo trước cửa: “Trường Bancroft”. Một con đường nhỏ ngang qua tòa nhà. Chiếc Lincoln đen đậu dưới gốc sồi xum xuê lá.
Người đàn ông ra khỏi xe, khoảng trên sáu mươi tuổi, vẫn còn minh mẫn. Tôi lái xe qua đường, đỗ cạnh xe ông ta và kéo thấp cửa kính xe.
Trông ông ta không được thân thiện cho lắm, dáng bệ vệ, đầy quyền lực. Ông ta mặc quần áo bằng vải tuýt và khoác ngoài một chiếc áo vét bằng len dù trời nóng, tóc ông ta bạc trắng và rất thẳng. Ông ta có một vẻ bề ngoài rất buồn cười. Tay ông ta xách một chiếc cặp bằng da đã cũ với một cái nắp bằng đồng. Tôi có thể ngửi thấy mùi da cặp vừa được đánh bóng. Vài cái bút cài trên túi trước ngực. Ông ta nhìn lên chiếc Seville với đôi mắt đẹp hơi hẹp, sau đó tiến đến trước mặt tôi.
– Xin lỗi – Tôi hỏi – Trường Corrective đã từng ở phía bên kia phố phải không ạ?
Ông ta quắc mắc: “Đúng rồi”. Sau đó bước đi.
– Ông còn ở đây lâu không?
– Một lúc nữa. Sao anh hỏi vậy?
– Tôi muốn có vài câu hỏi về ngôi trường đó.
Ông ta đặt cặp xuống và chuẩn bị lên xe.
– Anh là... cựu học sinh?
– Không.
Trông ông ta có vẻ tin tưởng.
– Cựu học sinh có thường qua lại đây không? – Tôi hỏi.
– Không, không thường xuyên, nhưng... anh biết đó là loại trường học nào rồi đấy.
– Những đứa trẻ có vấn đề.
– Thật tồi tệ. Chúng tôi chưa bao giờ hài lòng với cái trường đó. Trước kia, chúng tôi đã ở đây. Bố tôi đã sống ở đây ba mươi năm trước khi họ đến.
– Thật thế à?
– Hầu hết các gia đình này đều đã sống ở đây. Sau đó, nơi này lại quay về nghề nông nghiệp.
– Những học sinh của trường này có gây rắc rối gì không?
– Anh quan tâm đến vấn đề gì trong cái trường này?
– Tôi là một nhà tâm lí học. Tôi nói và đưa cho ông ta tấm danh thiếp. Tôi đang tư vấn cho sở cảnh sát Los Angeles. Có một số bằng chứng chứng tỏ rằng một trong số những cựu học viên ở đây tham gia vào những vụ việc không hay ho lắm.
– Những vụ việc không hay ho. Ồ, cũng không ngạc nhiên lắm nhỉ?
Ông ta lại quắc mắt. Lông mày rậm, thấp và đen khiến cho ta có cảm tưởng sự giận dữ luôn thường trực trên mặt ông ta.
– Đó là loại chuyện không hay ho gì vậy?
– Xin lỗi. Tôi không thể nói gì thêm. Ông có phải là Bancroft?
– Đúng thế – Ông ta đưa tôi tấm danh thiếp, trắng, nặng và có một tấm huy hiệu gắn trên một góc:
Trường Bancroft.
Thành lập năm 1993 – Col.C.H.Bancroft (Ret)
Xây dựng chế độ học bổng và trường điển hình Condon H.Bancroft, Tr, B.A, M.A, hiệu trưởng.
– Anh muốn nói đến tội phạm? – Ông ta hỏi.
– Có thể.
Ông ta gật đầu vẻ hiểu biết.
Tôi hỏi:
– Tại sao nơi đó lại bị đóng cửa?
– Ông ta, một người Pháp, qua đời và không ai đứng lên để điều hành nó. Đó không chỉ là giáo dục mà còn là nghệ thuật.
– Ông ta không có con cái à?
Bancroft nhướng mắt:
– Cô ta yêu cầu tôi mua chỗ đó. Nhưng tôi làm cô ta thất vọng. Lỗi một phần ở tôi. Tôi chỉ nên mua nó vì chỗ đất. Bây giờ thì họ đã đến và xây dựng những cái kia...
Ông ta đảo mắt về phía bức tường đá.
– Họ là ai?
– Một nhóm người nước ngoài. Hiển nhiên là người châu Á. Katarina muốn tôi mua tất cả chỗ đó, cả nhà kho, cả những cái khóa. Nhưng cô ta lại đòi một số tiền quá lớn so với giá trị của nó và không chịu thương lượng. Còn với họ, tiền không thành vấn đề.
– Cô ta vẫn ở thành phố này chứ?
– Cô ta ở Santa Barbara.
Tôi không hiểu ông ta nghĩ ông ta đang ở đâu, sau đó tôi tự trả lời câu hỏi của mình: Montecito Vannabee.
– Thật là phiền phức. Điều này không ảnh hưởng xấu đến trường học của tôi chứ? Tôi không muốn dây với cảnh sát. Họ làm toàn chuyện vặt vãnh.
– Học viên của trường đó đã bao giờ bị cảnh sát tóm gáy chưa?
– Chưa, bởi vì tôi tin chắc họ chẳng làm gì cả. Niềm tin này vững như bức tường thành Berlin. Ông ta vạch một đường thẳng xuống vỉa hè bằng đầu ngón chân. Vài người trong số họ đã từng cải cách lại trường học. Một trường học với những vụ hỏa hoạn, những kẻ cứng đầu, trốn học... tất tật các loại côn đồ đó.
– Chắc là rất khó khăn khi họ quyết định đóng cửa?
– Không, chẳng khó tí nào – Ông ta trách cứ – Nếu họ có cơ hội để lưỡng lự, tôi đã cho họ hy vọng trở lại.
– Đã bao giờ ông gặp rắc rối với trường đó chưa?
– Ồn ào. Có quá nhiều tiếng ồn, mọi lúc. Chỉ không còn bị ảnh hưởng khi họ đã đi khỏi. Một trong bọn họ đã lộ mặt và tự gây nên điều kinh tởm – Ông ta cười và tiếp – Điều kiện của ông ta không đủ để tâng bốc những phương pháp kiểu Pháp của ông ta?
– Chuyện gì vậy?
– Một kẻ lang thang – Ông ta nói – Không tắm gội, không chải đầu, và nghiện ma túy nặng, đôi mắt hắn hiện rõ điều đó.
– Làm sao mà ông biết đó là một cựu học sinh?
– Bởi vì hắn nói ra. Nói thế này: Tôi là một cựu học sinh. Cứ như điều đó gây ấn tượng với tôi lắm.
– Chuyện đó xảy ra khi nào?
– Khá lâu... xem nào, tôi đang phỏng vấn một đứa trẻ nhà Gummer. Đứa út, khoảng mười năm trước.
– Kẻ lang thang đó bao nhiêu tuổi?
– Khoảng hai mươi tuổi. Một kẻ thô tục. Hắn gào lên trong văn phòng của tôi, không đếm xỉa gì đến thư kí của tôi. Tôi đang tiếp chuyện nhà Gummer, một gia đình tốt, những đứa lớn đã học rất giỏi ở trường Bancroft này. Hình ảnh hắn ta tạo ra làm cho họ không muốn gửi đứa bé vào học ở đây.
– Hắn muốn gì?
– Hắn gào lên trường đó ở đâu? Chuyện gì đã xảy ra? Hắn lên giọng và làm điệu bộ. Tội nghiệp bà Gummer. Tôi nghĩ tôi phải gọi cảnh sát, nhưng cuối cùng tôi lại có thể thuyết phục hắn bỏ đi bằng cách nói với hắn rằng người đàn ông Pháp đã chết lâu rồi.
– Điều đó làm hắn thỏa mãn?
Lông mày ông ta chúc xuống:
– Tôi không rõ nó có tác động với hắn như thế nào, nhưng hắn đã bỏ đi. Thật may cho hắn, tôi đã rộng lượng – Ông ta lắc mạnh đầu – Hắn ta bị mất trí, chắc chắn là nghiện ma túy.
– Ông có thể tả lại hắn chứ?
– Bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, còn gì khác nữa nhỉ? Không có ôtô, đi bộ, tôi nhìn thấy khi hắn sang tới đường cao tốc. Chúa sẽ phù hộ cho người nào nhặt được hắn.
Ông ta đứng khoanh tay trước ngực và cũng nhìn khi tôi lái xe đi. Tôi nhận ra rằng mình chẳng nhìn hay nghe thấy tiếng một đứa trẻ nào ở trường học của ông ta.
Những kẻ cứng đầu và những kẻ gây cháy. Một kẻ lang thang tuổi đôi mươi cố gắng đào bới quá khứ.
Một người đàn ông tên gọi Harrison.
Merino.
Silk. Một thứ gì đó như chất liệu.
Hewitt và Gritz, hai kẻ lang thang ở độ tuổi hai mươi có thể quay lại đó. Năm năm trước, Myra Paprock bị giết. Hai năm sau đó, Sipler. Sau đó, Lerner. Tiếp đến là Stoumen. Rosenblatt vẫn còn sống sót?
Nhà Katarina đây rồi, chỉ vài dặm phía trước con đường rất đẹp này. Tôi thấy đầu óc đã bớt căng thẳng và sẵn sàng tiếp chuyện cô ta.
*
Đại lộ Cabrrillo kéo dài tới tận biển, thấy rõ hàng đoàn du khách đi nghỉ cuối tuần và khung cảnh vỉa hè tồi tàn. Cầu tàu trông rất thảm hại, mất hút trong sương mù. Một vài người đi xe đạp, bơm xe bên lề đường. Những người đi bộ, chạy ma–ra–tông đang cố về đến đích. Tôi đi ngang qua những khách sạn lớn, mới mọc, những nhà nghỉ có chỗ đậu ô tô qua đêm mọc lên như nấm, qua quán hải sản nhỏ – nơi tôi và Robin đã từng ăn tôm và uống bia. Mọi người đang vui vẻ ăn uống, nói cười và tắm nắng.
Santa Barbara là một nơi đẹp nhưng đôi khi nó làm tôi khiếp sợ. Có quá nhiều khoảng cách giữa người giàu và kẻ nghèo nơi đây. Mảnh đất mà thiên nhiên không ưu đãi cho lắm. Một con đường nối với quốc lộ dẫn từ những khách sạn hạng sang, các quán bar tồi tàn đến các hiệu may và các quán kem hai đồng một muỗng. Các đường ven Isla Vista hay Goleta thì khó đi như đường ven ở bất kì tỉnh lẻ nào. Nhưng người ta vẫn thích ăn bánh ở Montecito. Đôi khi, sự căng thẳng lên đến mức người ta có thể giết người.
Tôi tưởng tượng ra cảnh Andres lùng sục những người hạ đẳng làm công hàng ngày cho ông ta. Con gái ông ta nghe được và cười nhạo khi ông ta tự biến mình thành kẻ vô nhân đạo với những gì ông ta vừa tìm ra về họ...
Đại lộ lên cao dần, không còn bóng dáng khách bộ hành. Tôi phóng tầm mắt ra biển Thái Bình Dương mênh mông, vô tận. Những con thuyền buồm đánh cá ngoài biển đang chòng chành, chới với tìm gió xuôi. Các xà lan đánh cá đậu thành hàng gần như thẳng tắp, cứ như được sắp xếp bởi bàn tay các nhà nghệ thuật. Đến đoạn bằng phẳng, đại lộ nhập với đường bờ biển và tiến sâu vào khu dân cư. Tôi bắt đầu kiểm tra số trên xe.
Nhà ở đây hầu hết đều theo kiểu nông trại của những năm năm mươi, một số đã được đổi mới. Tôi nhớ trước đây vùng lân cận trồng rất nhiều cây xanh. Ngày nay, rất nhiều cây đã bị đốn đi, số còn lại trông rất thảm hại. Nạn đói tràn lan thị trấn này khi nước biển tràn vào. Những bãi cỏ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Hầu hết đều bị chết hoặc úa vàng, chỉ một ít là còn xanh tốt.
Ôi! mong sao nỗi đau mau qua đi.
Muốn tự mình thoát khỏi sự lệ thuộc vào những gói thuốc phiện từ Sierra, Santa Barbara đã tuyên bố một hệ thống hạn định nghiêm ngặt từ rất lâu, trước cả Los Angeles. Giờ đây thị trấn đang dần biến thành một sa mạc, nhưng cơn say “nàng tiên nâu” thì thật khó mà rũ bỏ.
Tôi đã tới nhà Katarina, nó cũ và nhỏ hơn so với các nhà xung quanh, sơn màu xanh nhạt, một kiểu nhà Anh với hai tháp canh, mái lợp bằng lá bản đã đến lúc phải sửa lại, và một khoảng đất rộng hoang tàn đằng trước cửa. Hàng rào bằng cây thủy lạp, không được xén tỉa đều và đầy lỗ hổng. Nơi trước kia là vườn hồng, giờ là bãi tập hợp lưới mắt cáo và gậy gộc lổng chổng.
Một cái cổng kiểu cũ tết bằng dây kim loại được đóng chắn ngang con đường nhựa dẫn vào nhà. Nhưng khi kéo ra thì tôi thấy nó không khóa. Tôi lùi lại và đẩy mạnh, cửa mở ra, tôi đi vào trên con đường nhựa cũ, đầy ổ gà kéo dài khoảng ba mươi sáu mét đến chỗ một chiếc ô tô Nhật Bản nhỏ, màu xanh nhạt. Tất cả các ô cửa sổ đều một màu trắng. Cửa trước được lót ván gỗ sồi, lớp vécni đã bị sùi lên, một miếng kim loại đề tên một công ty đồng hồ – Neighborhood Watch, được đính ngay dưới cái gõ cửa hình đầu sư tử. Phía dưới đó lại có một cái mác nữa gắn tên công ty đồng hồ báo thức.
Tôi nhấn chuông. Chờ đợi. Nhấn lại. Chờ thêm. Dùng đầu sư tử gõ, vẫn không có ai ra mở cửa.
Không có ai ở quanh đây. Tôi có thể nghe thấy cả tiếng sóng ngoài đại dương.
Tôi đi xung quanh, qua một cái ô tô màu trắng và một cái gara nằm trên chỗ đất cao với những cái cửa xoay võng xuống, hé mở. Vườn sau rộng gấp đôi vườn trước và trơ trụi. Những hàng cây bơ, cây cam dày khô xác ngăn cách với các nhà xung quanh. Trên mặt đất là những bụi cây héo quắt không thành hình thù gì cả. Thậm chí cả cỏ cũng đang đấu tranh để giành sự sống.
Nhưng hai cây thông lớn ở phía sau thì lại sống sót một cách diệu kỳ. Rễ của chúng đủ sâu để hút nước trong lòng đất. Những cành cây vươn ra phía ngoài vách đá lởm chởm, nhô ra phía bờ biển. Thấp thoáng sau những cành cây là đại dương một màu sơn mài xám xịt. Thủy triều cao nhất lên tới ba mươi mét, tiếng sóng gần giống như tiếng trống thúc, to đến mức không thể nghe thấy thứ âm thanh nào khác.
Tôi xem xét phía sau ngôi nhà một cách cẩn thận và chắc chắn. Gần mỏm đá là một chiếc bàn gỗ màu đỏ và hai chiếc ghế cũ, mặt ghế phủ đầy phân chim. Một nửa chiếc bàn trải khăn màu trắng, trên đó có một chiếc chén, một chiếc tách và một chiếc đĩa.
Tôi đi lại phía đó. Cà phê đóng cặn dưới đáy chén, những mẩu vụn bánh mì trên đĩa và một miếng vàng vàng trông giống mứt cam bị cứng.
Đại dương vẫn đang gầm thét và những chú chim biển cũng kêu lên chi chí đáp lại.
Tôi bước đến đỉnh mỏm đá – nơi mà Katarina đã chụp ảnh cho bố mình trên chiếc xe lăn.
Mỏm đá bẩn và khô, không có rào chắn, rất dễ ngã. Tôi trèo lên, nhìn xuống và cảm thấy chóng mặt. Khi cảm giác đó qua đi, tôi nhìn xuống một lần nữa, sườn đồi bị đào bới lộ ra con đường rất lớn dẫn xuôi xuống bãi biển đầy đá lởm chởm.
Những chú chim hải âu lại kêu lên như bị quấy rầy làm tôi nhớ ra rằng mình đang xâm phạm vào lãnh thổ của chúng. Cà phê và vụn bánh mì còn trên bàn cho thấy Katarina đang ở thị trấn này. Có thể cô ấy ra ngoài có việc.
Tôi có thể chờ ở đây, nhưng điều tôi nên làm ngay là gọi điện cho Milo và nhắc anh chú ý đến những tờ ghi chép của Becky Basille, Harrison và Bancroft.
Khi chuẩn bị đi, tôi lại đi qua ga–ra và nhìn thấy đèn sau của một chiếc ôtô khác, đỗ đằng trước chiếc xe nhỏ màu trắng. Nó to và tối màu hơn chiếc xe nhỏ, màu đen. Những cái đèn hậu là của hãng Buick Elektra. Giống hệt chiếc xe tôi đã nhìn thấy trước cửa bệnh viện năm 79.
Có gì đó gần lốp xe sau. Hình như là những ngón tay, trắng và thon. Một bàn tay, trên đầu ngón tay đầy những vết chàm. Mà không, một loạt vết khác, đen hơn vết chàm.
Cô ta nằm trên nền gạch, ngửa mặt, song song với những cái đèn của hãng Bick, gần như bị che khuất dưới sườn xe. Tay kia để quá đầu, lộ ra những vết khoét sâu. Những sợi gân từ một vài vết thương lộ ra cuốn vòng như những sợi dây đàn hồi bị đứt.
Đó là những vết cắt.
Cô ta mặc bộ đồ ở nhà màu hồng bên trong chiếc áo choàng bằng vải bông. Áo choàng mở phanh ra, váy bị kéo quá thắt lưng, gần lên tới cằm. Chân trần, lòng bàn chân dính đầy vết bẩn ở gara. Kính bị văng ra cách khoảng một mét, một bên gọng gần gãy, một bên mắt bị vỡ.
Cổ cô ta cũng có vết cắt, nhưng các vết cắt hầu hết tập trung ở vùng bụng. Một vùng bụng đen và đỏ bị thủng, một mớ lẫn lộn lục phủ ngũ tạng, nhưng chỉ sưng lên chút ít.
Hơi choáng váng, tôi quay lại, kiểm tra phía sau lưng mình. Tôi nhìn lại cái xác một lần nữa, cảm giác điềm tĩnh một cách kì lạ. Thời gian trôi đi chậm chạp, đầu tôi đầy những cảm giác xáo trộn với bao câu hỏi, như thể có cả đại dương trong đó.
Hình như còn thiếu cái gì đó, nó nằm ở đâu?
Tôi quyết phải tìm ra những chữ màu đỏ... bốn từ... không có gì cả. Không có gì trong ga–ra, nhưng chiếc ôtô, Katarina và một chiếc bàn làm việc nhỏ bị đổ nghiêng sang một bên, đằng sau là một chiếc bảng hình chữ nhật có lỗ sẵn để treo.
Một chiếc bàn làm việc giống của Robin nhưng chất đầy những hộp sơn, dụng cụ, những lọ keo dán và hộp nhựa Shellac. Trên bảng gỗ treo những cái đục, đục máng, đục dầm, một cái móc treo đục để không.
Một con dao trên bàn, lưỡi dao màu đỏ, cán bằng gỗ cây phong. Lưỡi dao rộng thon dần. Tất cả mọi thứ đều nhuốm máu... Bàn bị vấy bẩn, nhưng không có chữ, chỉ là những vệt bẩn vương vãi.
Những vết sơn cũ. Những vệt máu mới. Tất cả trộn lẫn với màu đỏ nâu.
Từng thứ, từng thứ một, nhưng tôi chưa đưa ra được kết luận nào. Một mảnh giấy. Không trắng... gần như màu trắng, màu be, bóng lên rất đẹp. Một tấm danh thiếp.
Những dòng chữ màu nâu tự tin:
Công ty liên hợp SDI
9817– Đại lộ Wilshire
Suite 1233
Bevery Hills, Ca 90212
Còn có thứ gì đó
Ở trên cùng bên phải.
Rất nhỏ.
Dấu viết tay bằng bút bi: T.Y.D.T.
Nét viết rất gọn gàng, tương tự những chữ tôi đã biết trước đây. Đầu bút ấn mạnh đến nỗi tấm giấy cứng như thế cũng bị rách ra.