← Quay lại trang sách

Chương 22

Tôi chạy xuống đường, quăng mình vào xe và lao vội ra cảng. Ở đó có một trạm điện thoại công cộng trên bãi neo thuyền, gần những thùng phế phẩm bốc mùi hôi thối.

Tôi cố gắng gọi cho Robin. Vẫn không được.

Gọi cho Milo, một thám tử tại West L.A. là Robbery Homicide nói:

– Ông ấy không có ở đây.

– Nhưng rất khẩn cấp.

– Xin lỗi, không biết ông ta ở đâu.

– Có thể ông ấy đang ở trên xe ô tô – Tôi nói – Anh có thể dò sóng gọi ông ấy được không?

Giọng anh ta đanh lại:

– Ai đấy?

– Trợ lí cảnh sát trưởng Murchison. Tôi nói mà không suy nghĩ, thán phục vì mình có thể nói dối dễ dàng như thế.

Một giây yên lặng. Hình như anh ta muốn hỏi.

– Chờ một lát, thưa ngài.

Ba mươi giây sau. Từ đầu dây bên kia:

– Sturgis nghe...

– Là tôi đây, Milo.

Yên lặng.

– Alex. Tôi nói.

– Cậu tự cho mình là Murchison à?

– Katarina đã chết. Tôi vừa phát hiện thấy xác cô ta.

Tôi kể chi tiết cho Milo, miêu tả ngắn gọn hiện trường vụ án, về tấm danh thiếp với dòng chữ “Tình yêu dối trá” viết tắt.

– Nét chữ giống hệt với những chữ trước đây.

– SDI. Anh ấy nói.

– Nó ở ngay đây thôi, tại Beverly Hills. Phải có nguyên nhân nào đó trong việc hắn chọn tấm danh thiếp để viết chữ để lại.

– SDI... chắc chắn đó không phải là sáng kiến phòng thủ chiến lược.

– Anh có thể trông chừng Robin không? Tôi biết nơi đó an toàn, nhưng kẻ giết người đang đua tốc độ và cô ấy hiện đang ở đó một mình... Tôi cố gắng gọi cho cô ấy hai lần nhưng cô ấy không có nhà.

– Có lẽ cô ấy đi mua sắm. Tôi gác máy đây.

– Cảm ơn anh. Tôi phải làm gì bây giờ? Thậm chí tôi chưa gọi cho cảnh sát địa phương.

– Anh đang ở đâu?

– Trạm điện thoại công cộng, cách ngôi nhà chục mét.

– Được rồi. Quay lại đó đi. Cố gắng giữ nguyên hiện trường và chờ đợi. Tôi sẽ gọi cho sở cảnh sát Santa Barbarra, nói với họ anh là người Do Thái, sau đó tôi sẽ tự mình đến đó. Mấy giờ rồi nhỉ? Mười lăm giờ ba mươi phút... muộn nhất là mười tám giờ, tôi sẽ đến đó.

*

Tôi ở gần mỏm đá, cách xa cái ga–ra. Nhìn ra ngoài biển, hít sâu vị mặn của đại dương và cố gắng cảm nhận mọi thứ.

Hai nhân viên mặc đồng phục đến trước tiên. Một người canh cái xác nạn nhân còn người kia lập biên bản lấy thông tin về tôi: Tên, nghề nghiệp, số chứng minh thư, thời gian và địa điểm đến, họ có vẻ rất chăm chú nghe và hơi ngờ vực.

Hai lăm phút sau, hai thám tử tới. Một người là phụ nữ, Sarah Grayson, cao, gầy, khá hấp dẫn ở tuổi bốn mươi. Cặp mắt bà ta sáng, hơi nâu, chuyển động chậm, nhưng khi nắm bắt sự việc thì đảo qua đảo lại rất nhanh.

Người đàn ông đi cùng là Steen, cao lớn, nặng nề, hàng ria mép đen rậm với bộ tóc thưa. Ông ta tiến thẳng vào ga–ra, để tôi lại với Grayson.

Một lúc sau chúng tôi đã đứng gần mỏm đá. Tôi nói với bà ta tất cả những gì tôi biết, bà ta nghe rất chăm chú. Sau đó, bà ta chỉ tay về phía biển và nói:

– Có một chú hải cẩu đang chạy quanh ngoài đó.

Tôi nhìn theo tay bà ta và thấy một chấm đen nhỏ, cách mực nước thủy triều khoảng mười sải bơi ếch, cắt thành một đường thẳng góc qua những con đập.

– Hay đó là con sư tử biển? – Bà ta tiếp – Cả hai loại đều có tai, phải không?

Tôi nhún vai. Bà ta nói:

– Chúng ta xem xét lại tất cả mọi việc, được không bác sĩ?

Khi tôi kể xong, bà ta bảo:

– Vì thế ông đi tìm Katarina để cảnh báo cho cô ấy về sự trả thù này?

– Đúng, và tôi muốn tìm hiểu xem liệu cô ấy có thể cung cấp cho tôi một số thông tin lý giải cho việc tại sao hắn lại trả thù.

– Anh nghĩ là liên quan đến trường Corrective?

– Điều duy nhất tôi biết là cả cô ấy và bố cô ấy đều điều hành trường này.

– Tên chính xác của nó là gì?

– Trường Corrective và viện nghiên cứu de Bosch. Đóng cửa vào năm 1981.

– Anh nghĩ là cô ấy biết chuyện gì xảy ra vì cô ấy là con gái của ông chủ.

Tôi gật đầu và nhìn về phía sau ngôi nhà. Có thể còn rất nhiều ghi chép ở đó... Những bệnh án vật lí trị liệu, những vụ việc đã làm khủng hoảng tinh thần của một học viên đến nỗi nhiều năm sau đó anh ta vẫn còn bị ảnh hưởng.

– Những học sinh nào vào học ở trường đó?

– Xáo trộn cảm xúc, tâm sinh lí. Ông Bancroft, hiệu trưởng của ngôi trường đối diện nói rằng chúng là những kẻ gây ra các vụ hỏa hoạn, trốn học và những kẻ vô lại chống lại xã hội.

Bà ta cười:

– Tôi biết ông Bancroft. Vậy theo ông cuộc khủng hoảng tâm lí này diễn ra khi nào?

– Trước năm 1979.

– Vì hội nghị đó ư?

– Đúng vậy.

Bà ta nghĩ một lát:

– Ngôi trường đó tồn tại được bao lâu?

– Từ 1962 đến 1981.

– Điều đó có thể được chứng minh – Bà ta nói, tự nói với mình hơn là với tôi – Nếu có một sự khủng hoảng lớn thế thì chúng ta sẽ có thông tin về nó. Chắc chắn điều gì đó đã xảy ra.

– Bà nghĩ sao?

– Anh vừa nói với tôi anh nghĩ đứa trẻ này bị điên, đúng không bác sĩ? Điều này chứng minh cho sự trả thù – Bà ta nhìn tôi và vân vê một chiếc hoa tai – Vì vậy hắn ta nung nấu ý định trả thù trong đầu.

– Có thể, nhưng một người mắc bệnh về thần kinh không có nghĩa là u mê hoàn toàn, hầu hết đều có những giây phút tỉnh táo. Những người mắc bệnh thần kinh cũng rất dễ bị tác động. Thêm vào đó, có thể anh ta chưa phải là bệnh nhân tâm thần. Chỉ là bị xáo trộn cực điểm.

Bà ấy lại cười:

– Anh giống như một chuyên gia nhân chứng.

– Tôi đã làm ở tòa án.

– Tôi biết, thám tử Sturgis có nói với tôi. Và tôi cũng nói với Judge Stephen Huff về anh, chỉ để an toàn thôi.

– Bà biết Steve?

– Biết rất rõ. Tôi đã làm việc với Juvenile ở Los Angeles, Steve điều hành ở đó. Tôi cũng biết Milo. Anh có những người bạn đồng hành rất tuyệt đấy bác sĩ ạ – Bà ấy nhìn ngôi nhà – Nạn nhân cũng làm việc ở Los Angeles. Cô Paprock, anh có nghĩ cô ấy dạy học không?

– Tôi biết, dưới cái tên là Evans, Myra Evans làm việc với một hệ thống trường công ở Goleta. Ở đó chắc vẫn còn hồ sơ. Và một nạn nhân đàn ông – Rodney Shipler, làm bảo vệ một trường ở Los Angeles. Vậy, anh ta cũng có thể có một công việc tương tự ở Goleta.

– Shipler – Bà ta nói, mắt vẫn không rời ngôi nhà – Anh làm việc ở chỗ nào tại Los Angeles?

– Phía Tây.

– Tư vấn trẻ em?

– Hiện giờ tôi làm việc bên pháp y. Đánh giá về sự tạm giam, các trường hợp bị thương...

– Sự giam giữ, điều đó có ý nghĩa – Bà ta lại xoa khuyên tai.

– Nào, chúng ta sẽ xem xét chung quanh ngôi nhà như những học viên trường kỹ thuật và đợi những nhân viên điều tra đến.

Bà ta chăm chú nhìn ra biển rất lâu, đưa mắt trở lại chiếc bàn bằng gỗ cây xăm xe và dừng lại ở tách cà phê.

– Cô ta đã ăn điểm tâm – Bà ta nói.

– Cặn vẫn chưa cứng lại, vậy những thứ này tôi đoán là từ sáng nay.

Tôi gật đầu:

– Đó là lý do tại sao tôi nghĩ sáng nay cô ấy ở nhà. Nhưng nếu cô ấy đang ăn ngoài này và hắn ta tiến đến bất ngờ, tại sao cửa nhà lại không mở? Nhìn này, như là đang đóng. Và tại sao không ai nghe thấy tiếng kêu cứu của cô ấy?

Nắm chặt các ngón tay, bà ta khoác túi qua vai và đi về phía ga ra. Vài phút sau, bà ta cùng với Steen đi ra. Ông ta cầm một chiếc thước đo bằng kim loại và một máy quay phim. Ông ta đang lắng nghe Grayson nói gì đó và gật gật đầu.

Sarah lấy trong túi ra một đôi găng tay mổ. Sau khi đi vào bà ta thử mở cửa sau, thò đầu vào một lát rồi quay ra hội ý với Steen. Sau đó quay lại nói với tôi:

– Một bãi chiến trường, và bà ấy hẩy hẩy mũi.

– Một cái xác nữa à?

– Không. Không phải là tôi đi quá xa... nhưng xem này, bác sĩ, sẽ phải mất khá nhiều thời gian để đưa mọi thứ ra khỏi đây. Tại sao anh không thử nghỉ ngơi cho đến khi thám tử Sturgis đến. Xin lỗi nhé vì anh không thể ngồi trên những chiếc ghế này được, nhưng nếu không ngại, anh có thể ngồi xuống bãi cỏ đằng kia. Bà ấy chỉ tay về phía nam của khu vườn. Tôi đã kiểm tra các dấu chân ở đó nhưng không thấy gì cả. A, nhìn kìa, lại một con sư tử biển khác. Trông đáng yêu không kìa!

*

Milo đến lúc mười bảy giờ bốn mươi tám phút. Tôi vẫn “chiếm giữ” vị trí ở góc vườn. Anh ấy bước thẳng đến đó sau khi nói chuyện với Grayson.

– Robin vẫn chưa về khi tôi đến kiểm tra. Xe chở hàng, ví và cả con chó của cô ấy cũng không có nhà. Cô ấy viết gì đó lên giấy nhắn ở tủ lạnh về món Salad, chắc cô ấy đi mua sắm. Tôi thấy không có gì bất ổn cả. Đừng lo lắng nữa.

– Cô ấy nên đến chỗ anh.

– Tại sao?

– Tôi không đủ an toàn để bảo vệ cô ấy.

Milo nhìn tôi:

– Được rồi, chắc chắn đấy, nếu điều đó giúp anh thấy yên tâm. Chúng tôi sẽ bảo vệ anh.

Anh ấy đặt một tay lên vai tôi, sau đó vào ga ra và ở đó khoảng hai mươi phút. Các điều tra viên đến rồi đi, xác nạn nhân cũng được mang đi. Kỹ thuật viên vẫn đang làm việc, phủi bụi, nhìn ngó và diễn lại hiện trường vụ án. Tôi xem họ làm cho đến khi Milo ra ngoài.

– Đi thôi – Anh ấy bảo.

– Đi đâu?

– Đi khỏi đây.

– Họ không cần tôi nữa à?

– Anh đã nói với Sally những gì anh biết chưa?

– Rồi.

– Vậy đi thôi.

Chúng tôi đi qua gara, Steen đang quì gối bên một hình người bằng phấn, nói vào máy ghi âm, Sarah Grayson đứng cạnh viết vào sổ tay. Bà ta nhìn thấy tôi và vẫy tay, sau đó lại ghi chép.

– Một phụ nữ đẹp – Tôi nói khi chúng tôi rời khỏi đó.

– Bà ta là một trong những điều tra viên giỏi nhất của trung tâm Jvey. Đã có một đời chồng, một viên chỉ huy canh gác – một kẻ bất lương, nghiện rượu nặng và ích kỉ. Người ta xì xào rằng hắn ta đã hành hạ bà ta và những đứa trẻ.

– Hành hạ về thể xác?

Milo nhún vai.

– Tôi chưa bao giờ thấy những vết bầm tím, nhưng hắn ta có một tính cách xấu xa, đầy hằn học. Cuối cùng, họ li hôn. Hai tháng sau, hắn ta đến chỗ Grayson, gây ra một cuộc náo loạn, kết thúc bằng việc hắn ta tự bắn vào chân mình và mất một chân – Anh ta cười nói tiếp – Cả một cuộc điều tra lớn được tiến hành. Sau đó, Sally được chuyển về đây và kẻ bất lương phải nghỉ việc như một kẻ tàn phế và được đưa đến Idaho.

– Bắn vào chân – Tôi nói – Không phải là một xạ thủ.

Anh ấy lại cười:

– Thật ra, hắn là một tay súng cừ, trước đây đã từng là huấn luyện viên môn bắn súng. Chuyện hắn ta tự làm với mình thật khó tin. Nhưng anh biết rồi đấy, tất cả những kẻ lạm dụng chất cồn đều không thể điều khiển nổi mình. Không còn gì để nói.

Chúng tôi ra đến đường phố. Xe cảnh sát đậu đầy ngoài đường, kẹp chặt chiếc Seville. Những người hàng xóm đổ xô, chen lấn trước băng ghi lại hiện trường vụ án mà một chiếc xe tải đang chiếu. Tôi tìm chiếc Fiat của Milo mà không thấy đâu cả.

– Xe của anh đâu?

– Ở Los Angeles. Tôi đi trực thăng.

– Đến sân bay à?

– Ừ.

– Thế anh đến đây bằng gì?

– Một đồng nghiệp ở Santa Barbara đón tôi.

– Cao cấp quá nhỉ! – Tôi trêu.

– Ừ. Sally thường sống ở Mar Vista. Tôi là một thám tử trong bộ máy nhân viên cũ của bà ấy.

– Ồ. Ra thế!

– Bây giờ anh chở tôi. Chúng ta phải mổ xẻ mọi thứ trước khi các “con đỉa” báo chí bắt đầu xông vào đeo bám.

*

Tôi rẽ xuống đại lộ Cabrillo. Milo gợi ý:

– Anh có quá đói hay quá thừa năng lượng để ăn chút gì đó không?

– Từ sáng tôi chưa ăn gì. Tôi có thể ăn thứ gì cũng được, hoặc cùng lắm là ngồi nhìn anh ăn chứ gì.

– Tuyệt, quán này được đấy, vào đi.

Milo chỉ một quán hải sản nhỏ nằm bên một khách sạn có ô tô đỗ qua đêm bên bờ biển. Bên trong, lác đác vài chiếc bàn phủ giấy dầu, những chiếc gạt tàn bằng vỏ trai, sàn nhà bẩn thỉu, tường đầy mạng nhện, phòng bar nhạc sống và một khu tự phục vụ. Món đặc biệt hôm nay là cá hồi và khoai tây chiên. Chúng tôi đều gọi hai món đó, chọn số và ngồi vào chiếc bàn gần cửa sổ. Chúng tôi ngắm nhìn những con tàu, thuyền đi lại trên mặt nước. Một cô phục vụ còn trẻ hỏi chúng tôi có muốn uống gì không, cô ta mang cho chúng tôi hai cốc bia và để chúng tôi nói chuyện.

Tôi lại gọi cho Robin, dùng cái máy điện thoại ở phía sau gần quầy bán thuốc lá tự động. Vẫn không liên lạc được. Khi tôi quay trở lại bàn thì Milo đang liếm bọt bia trên mép.

– Katarina có thai – Anh ấy nói – Các điều tra viên khẳng định cái bào thai đã bị lấy đi khỏi bụng cô ấy.

– Ôi chúa ơi! – Tôi kêu lên, nhớ lại hình ảnh bầy nhầy toàn máu và cái bụng béo phị – Cái thai được bao lâu rồi?

– Năm đến sáu tháng. Nhân viên điều tra xác định được đó là bé trai.

Tôi cố gắng gạt nỗi khiếp đảm sang một bên.

– Harrison nói rằng cô ấy chưa bao giờ lấy chồng và sống một mình. Ai có thể là cha đứa bé?

– Có thể là học viên của tổ chức Mensa. SDI có nghĩa là Seminal Depository and Inventory.

– Một ngân hàng tinh dịch?

– Ngân hàng đặc biệt này đòi hỏi phải sàng lọc và kiểm tra tất cả những người cho tinh trùng cả về trí óc và cơ thể.

– Để tạo ra những đứa trẻ – Tôi nói – Rồi, tôi có thể thấy Katarina tìm kiếm điều gì. Công nghệ nhân tạo cho cô ấy sự điều chỉnh tổng hợp và toàn diện để có thể nuôi dạy một đứa trẻ, mà không có những vướng mắc gì về tình cảm... Ở tháng thứ năm cô ấy chắc chắn bị phát hiện ra. Đó là lý do tại sao kẻ sát nhân lại tập trung vào bụng cô ấy để trút hết sự căm thù. Triệt bỏ dòng giống nhà de Bosch.

Milo cau mày.

Tôi tiếp tục:

– Có lẽ đó cũng là lý do tên giết người chọn tấm danh thiếp của ngân hàng tinh dịch để viết lời thông điệp chết người. Cái cách ghim tấm các đó dưới hung khí cũng cho thấy cách sắp đặt hiện trường của hắn. Đó là cách thức riêng của hắn.

Cô phục vụ mang thức ăn lên. Nụ cười của cô tắt ngấm khi nhìn vào mặt chúng tôi.

Tôi nói tiếp:

– Hắn cố gắng tìm mọi cách xoá sổ những gì liên quan đến de Bosch. Một lần nữa hắn lại sử dụng thứ vũ khí hắn có trong tay. Những lời lăng mạ và những vết thương làm cho nạn nhân chống lại hắn. Cố gắng trả thù lại những gì hắn nghĩ ông ta đã đối xử với hắn. Nhưng chắc chắn hắn mang theo thứ gì đó khác để dọa cô ấy?

– Những cú đấm có thể là những thứ mà hắn cần để thực hiện điều đó. Có rất nhiều vết tím bầm quanh mắt cô ấy.

– Hắn đã đánh cô ấy cho tới chết à?

– Khó có thể nói gì nếu không khám nghiệm tử thi, nhưng Sally nói rằng các nhân viên điều tra không nghĩ như vậy.

– Nếu cô ấy còn tỉnh, tại sao không ai nghe thấy tiếng cô ấy kêu cứu?

– Đôi khi người ta không thể. Nhiều khi họ bị sững lại vì sợ hãi và không thể kêu được. Hoặc là những cú đánh vào đầu làm cho cô ấy ngất xỉu. Thậm chí nếu cô ấy kêu lên cũng chẳng ích gì. Hàng xóm hai bên đều quá xa và tiếng biển gầm gào át hết mọi âm thanh ở đó.

– Thế những người hàng xóm không nhìn thấy người lạ nào đi vào ngôi nhà à?

– Chẳng có ai đến đó trước cả. Sally và Steen đã gõ cửa điều tra từng nhà rồi.

– Sally nói rằng ngôi nhà rất bừa bộn. Bà ấy muốn nói nó không ngăn nắp, nó đã bị lục lọi, xáo trộn?

– Bị lục lọi, đồ gỗ bị đổ, nệm ghế bị rách.

– Thật là cuồng bạo – Tôi nói – Có thể hắn ta tìm kiếm những bản ghi chép về trường cũ, những điều có thể tố cáo hắn.

– Hủy chứng cứ ư? Hắn đã giết người trong nhiều năm, tại sao bây giờ mới bắt đầu tìm kiếm?

– Có thể hắn ta sợ hãi?

– Theo kinh nghiệm của tôi chỉ có thể ngược lại. Những kẻ giết người luôn đòi hỏi sự thú vị trong đó, niềm hứng thú ngày càng nhiều và trở nên bất cẩn.

– Hy vọng là hắn bất cẩn và anh sẽ tìm thấy chỗ sơ hở đó.

– Tôi phải mất hai ngày để thực hiện một cuộc khám nghiệm pháp y tỉ mỉ.

– Nhìn từ bên ngoài, cửa nhà hình như đã được khóa. Nếu không nhìn thấy những cái đĩa ăn điểm tâm, tôi sẽ khẳng định rằng Katarina đã ra khỏi thị trấn. Tên giết người đã đóng cửa sau khi giết cô ấy, sau đó để mọi thứ trở lại yên bình.

– Đó là cả một công đoạn, hắn sắp đặt mọi thứ rất cẩn thận.

– Vì vậy không phải chúng ta đang đối đầu với một kẻ tâm thần điên loạn. Mọi việc xảy ra đã chứng minh quá rõ ràng cho chứng bệnh tâm thần phân liệt: đi dự tất cả mọi hội nghị, sắp đặt các vụ tai nạn, xiên con cá của tôi, thu băng tiếng kêu cứu của Hewitt. Cuồng bạo và ngấm ngầm thỏa mãn sự hận thù của mình trong nhiều năm nay. Milo, điều này chứng tỏ sự độc ác của một loại người tâm thần. Những ghi chép của Becky nhắc chúng ta phải chú ý tới Gritz một cách cẩn thận. Nếu hắn là Silk hay Merino thì hình thức ăn mày đường phố của hắn chỉ là một trò ngụy trang. Một sự ngụy trang hoàn hảo, có khi nào anh nghĩ về nó không Milo. Người vô gia cư ở khắp mọi nơi. Đối với hầu hết chúng ta, họ đều giống nhau. Tôi nhớ là đã nhìn thấy một thanh niên tại văn phòng của Coburg. Trông nó rất giống Hewitt, làm tôi giật mình. Tất cả những điều mà Bancroft thật sự nhớ lại về kẻ lang thang đó chỉ là tuổi, đầu tóc và một bề ngoài bẩn thỉu mà thôi.

– Bancroft nói rằng đứa trẻ đến đó khi nào?

– Khoảng mười năm trước, nó khoảng hai mươi tuổi, giờ là ba mươi, phù hợp với tuổi của Gritz. Merino mà Bert Harrison nói đến cũng phù hợp với số tuổi đó. Cả hai đều dễ bị tác động. Merino nói chính hội nghị đã làm hắn hồi tưởng lại những rắc rối trước đây, còn kẻ lang thang kia đã từng quay về trường cũ và cố gắng đào bới quá khứ. Vậy, đó có thể là một người hoặc có nhiều cựu học sinh của trường Corrective đi lang thang, tạo nên bức tranh sống động và chúng đang cố gắng liên minh với nhau. Bất kể là trường hợp nào thì mọi chuyện cũng đã xảy ra. Bancroft gọi những học viên của trường Corrective là những kẻ gây rối, những kẻ đốt nhà. Ông ta không thừa nhận rằng ở đó có những rắc rối mà ông ta không thể kiểm soát nổi. Có lẽ ông ta nói dối.

– Được rồi, Alex. Những thông tin địa phương có thể kiểm tra lại được, Sally sẽ nói chuyện lại với Bancroft để xem có thu thập thêm được chi tiết nào không đã.

– Chúc bà ta may mắn – Tôi nói.

Anh ấy cười và nâng cốc.

– Vậy là ổn. Mong rằng Sally không phải chịu đựng người chồng bất lương của bà ta nữa.

Milo uống một ít bia nhưng không động đến thức ăn. Tôi nhìn vào đĩa của mình, nó được chuẩn bị rất chu đáo nhưng tôi thấy nó giống những tiếng bông băng được rán lên.

Tôi nói:

– Myra Paprock dạy ở trường Corrective trong suốt nửa cuối những năm 60 và giữa những năm 70, do đó nó có thể là khung thời gian chúng ta đang xem xét. Lyle Gritz khoảng mười đến mười một tuổi. Harrison nhớ lại rằng Myra rất trẻ và cũng rất giáo điều, rập khuôn. Có thể cô ấy hơi nặng tay với những sai phạm của bọn trẻ. Và bọn trẻ có cảm giác như chúng đang nhận được “Tình yêu dối trá”. Shipler cũng có thể làm việc ở đó như một bảo vệ của trường và thỉnh thoảng bị cuốn hút vào những gì xảy ra. Hầu hết các diễn giả tại hội nghị cũng là nhân viên hoặc giáo viên của trường. Tôi đã có chính xác những ngày diễn ra hội nghị trong sổ tay ở nhà. Kết thúc ở đây nhé, quay về Los Angeles và kiểm tra lại.

– Anh cứ kiểm tra đi. Tôi phải ở đây một hoặc hai ngày, làm việc với Sally và Bill Steen. Để lại lời nhắn ở bàn làm việc của Sally nhé – Anh nói và đưa tôi tấm danh thiếp của Sally.

– Kẻ sát nhân đang đẩy nhanh tiến trình các vụ án. Các nạn nhân trước cách nhau một năm, giờ chỉ vài tháng với cái chết của Stoumen và Katarina.

– Trừ phi còn những nạn nhân khác mà chúng ta không biết.

– Đúng. Tôi vẫn không thể tìm thấy Harvey Rosenblatt, vợ ông ta đã không gọi lại cho tôi. Liệu bà ấy có thể trở thành quả phụ bất đắc dĩ không? Nhưng tôi vẫn phải cố gắng. Nếu Rosenblatt còn sống, tôi cần phải báo cho ông ta sự nguy hiểm, cũng cần báo cho cả Harrison. Để tôi gọi cho ông ấy ngay bây giờ và kể cho ông nghe về Katarina.

Tôi quay lại buồng điện thoại, quay số Ojai rồi ngước nhìn lời cảnh báo trên máy bán thuốc lá tự động. Không có máy ghi lời nhắn. Tôi hy vọng đó là bản năng tự vệ của ông ta quá cứng rắn. Một con người nhỏ bé sẽ đặt ra mục tiêu cháy bỏng và dễ dàng.

Khi tôi quay ra bàn, Milo vẫn chưa ăn.

– Đi rồi – Tôi nói – Có thể ông ta mới lên đường. Ông ta nói rằng ông ta có vài nơi để đến.

– Tôi sẽ yêu cầu một cảnh sát Ojai bảo vệ ông ta. Còn Becky Basille? Làm thế nào mà anh lôi cô ta vào chuyện này? Hewitt gào lên “Tình yêu dối trá”, kẻ sát nhân thu lời của Hewitt?

– Có thể Hewitt cũng là cựu học sinh của trường Corective. Hoặc kẻ sát nhân đã nhồi nhét thuyết “Tình yêu dối trá” vào đầu Hewitt. Nếu “G” chính là hắn, những tờ ghi chép của Becky ám chỉ rằng có một mối quan hệ thân thiết giữa hắn và Hewitt. Nếu tôi đúng, kẻ giết người không phải là kẻ tâm thần thì hắn sẽ có rất nhiều đồng phạm – những kẻ bị sai khiến, có khả năng điều khiển Hewitt cho Hewitt uống thuốc ngủ, tách Hewitt ra khỏi phương pháp chữa trị, biến anh ta thành kẻ chống đối lại các nhà vật lí trị liệu, vì mối thù của hắn với họ. Thêm vào đó, hắn có lí do mới để ghét Becky vì Hewitt trở nên gắn bó với cô hơn.

Milo bắt đầu dùng dao cắt cá hồi.

– Tôi vẫn đang tìm kiếm Gritz. Hoàn thành bản điều tra về hắn và những đồng minh thứ yếu.

– Hắn nói với những người ở Calcutta là hắn sắp giàu. Lẽ nào lại có động cơ về kinh tế trong những vụ án mạng này?

– Có thể hắn ta chỉ tưởng tượng ra thôi. Những người tâm thần thường như vậy.

Anh ấy nhìn vào đĩa thức ăn của mình và đẩy nó ra.

– Tôi đang chơi trò trẻ con với ai thế này?

– Đứa trẻ trong băng – Tôi nói – Bản ghi nào của Gritz cũng có tiếng trẻ con à?

Anh ấy lắc đầu.

– Âm điệu “Tình yêu dối trá, tình yêu dối trá, xin đừng cho tôi tình yêu dối trá”, giống như âm điệu một đứa trẻ nghiện ngập nói ra. Đó là một phần kế hoạch của hắn. Hắn muốn dùng chính những phương pháp của de Bosch để làm sống lại quá khứ. Chỉ có Chúa mới biết hắn ta còn làm những chuyện gì khác nữa, để cố xoa dịu đi nỗi đau của hắn.

Milo lấy ví ra, rút tiền và đặt lên bàn, cố để cô phục vụ nhìn thấy, nhưng cô ta đang quay lưng lại phía chúng tôi.

– Milo, Becky vẫn có thể là một đầu mối. Có thể cô ấy đã nói cho ai đó về Hewitt và “G”.

– Với ai?

– Một người họ hàng hay bạn bè. Cô ấy có bạn trai chưa?

– Anh muốn nói rằng cô ấy không tự tin à?

– Cô ấy là đầu mối, mà chúng ta đều biết là cô ấy không cẩn thận cho lắm.

– Tôi không biết tí gì về những cậu bạn trai của cô ta. Nhưng tại sao cô ta không tâm sự với một người nào đó ngoài ngành thay vì nói chuyện đó với Jeffers?

– Bởi vì nói với Jeffers có nghĩa là chuyện của Hewitt sẽ bị làm um lên và Becky chỉ có thể nói ra khi cô ấy cảm thấy mình tự tin. Thôi bỏ qua những cái tên. Nhưng cô ấy có thể nói với ai đó để chỉ cho chúng ta hướng điều tra.

– Một người duy nhất trong gia đình cô ấy tôi đã gặp là bà mẹ, và đó cũng là lần duy nhất tôi đến để nghe bà ấy khóc – Anh ấy nói.

– Người mẹ là nơi đáng tin cậy.

Anh ấy nhìn tôi.

– Sau khi gặp chồng của Paprock, anh có sẵn sàng cho một cuộc mạo hiểm mới không, Alex?

– Chúng ta sẽ làm gì?

Milo đẩy thức ăn vòng quanh đĩa rồi hỏi tôi:

– Bà ấy là một người mẹ phúc hậu. Anh sẽ tiếp cận bà ấy bằng cách nào?

– Thẳng thắn và nhanh chóng. Hewitt có một người bạn có thể bị lôi cuốn vào những vụ giết người khác. Một ai đó có tên bắt đầu bằng “G” – Becky đã bao giờ nhắc đến anh ta chưa?

Anh ấy nhìn thấy người phục vụ và vẫy cô ta lại. Cô ta cười và giơ một ngón tay lên, rồi đưa món đặc biệt cho một đôi ở bên kia căn phòng.

– Bà ta sống gần công viên La Brea, gần bảo tàng nghệ thuật Romona hay Rowena, hay một cái tên tương tự. Tôi nghĩ tên bà ta có trong danh bạ. Có thể bà ta đã yêu cầu xóa tên sau vụ án mạng. Nếu không thấy, hãy gọi cho tôi ở số của Sally và tôi sẽ tìm cho anh.

Anh ấy nhìn vào những đĩa thức ăn chưa ai đụng đến, lấy một chiếc tăm trên bàn xỉa răng.

Tôi bảo Milo:

– Nhớ những lời nhắn của anh với Sheriff. Khi nào anh ta định thu băng?

– Hai ngày nữa thôi, trừ khi có việc gì gấp cần phải giải quyết. Chẳng biết chúng ta sẽ biết thêm được gì, nhưng ít ra chúng ta cũng cảm thấy mình làm việc có khoa học.

Tôi hỏi:

– Thế đã có sự tính toán khoa học nào chưa về thời gian đích xác Katarina bị giết?

– Theo phỏng đoán ban đầu của các điều tra viên, cô ấy có thể bị giết từ tám đến hai tư giờ trước khi anh tìm thấy.

– Tám giờ là quá nhiều. Cặn cà phê vẫn còn ẩm. Giá như tôi đến đó sớm hơn một chút thôi, có lẽ tôi đã...

– Thôi đừng tự làm khổ mình nữa – Milo ngả về phía sau – Quên sự tưởng tượng về việc giải cứu ấy đi, Alex.

Tim tôi nhói đau, mắt giật giật, tôi lấy tay xoa xoa mắt và uống nước.

Người phục vụ đi đến nhìn những đĩa thức ăn còn nguyên:

– Chúng tôi có gì sai sót ư?

– Không – Milo nói – Chúng tôi có việc phải đi ngay.

– Tôi có thể gói lại cho các anh.

– Không cần đâu. Cảm ơn cô – Anh ấy trả tiền.

Cô ta nhún vai:

– Thôi được, tôi sẽ không tính tiền vì sự thay đổi này, thưa ông.

– Cứ cầm lấy đi.

Cô ta nở nụ cười rộng như bờ biển.

– Cảm ơn ông. Các ông sẽ dùng bữa sáng bằng bánh trứng chứ?

Milo vỗ vào bụng anh ấy:

– Có lẽ để dịp khác.

– Ông chắc không? Chúng thật sự ngon đấy – Cô ta bám vào tay anh – Thật sự ngon!

– Được rồi. Cô đang vặn tay tôi đấy. Gói cho tôi hai chiếc đem đi.

– Xong ngay. Thưa ngài.

Cô ta chạy vào và vài giây sau quay lại với một chiếc túi giấy in hình một con chó đang cười cùng hàng chữ: “For bowser”. Milo cầm lấy và chúng tôi đi thẳng tới chiếc Seville. Khi lên xe, tôi không thấy Milo ở đó, quay lại thì thấy anh ta đang đứng cạnh một thanh niên gầy gò cởi trần khoảng mười tám tuổi. Cậu ta đang ngồi ngoài vỉa hè trước khách sạn và giữ một tấm biển quảng cáo trên áo có ghi: Làm việc để kiếm ăn. Cậu ta có nước da rám nắng, hai má hóp, còn tóc như một cái tổ quạ nhờn mỡ.

Milo đưa cho cậu ta cái túi. Cậu ta nói gì đó làm anh ấy rất bực, nhưng vẫn rút trong ví đưa cho cậu ta một tờ xanh. Sau đó, anh ngồi vào ghế hành khách và gầm lên:

– Đưa tôi đến chỗ làm.