Chương 23
Suốt chặng đường trở lại Los Angeles, cảnh tượng trong gara cứ ám ảnh tôi. Giao thông tồi tệ, tắc đường khi vừa qua Thousand Oaks buộc tôi phải dừng lại. Thân thể tơi tả của Katarina choán ngập tâm trí tôi. Tôi ngồi nghe tiếng chiếc xe Seville thở nhàn rỗi, nghĩ về sự đau đớn và cái chết, về sự trả thù và về Robin một thân một mình trên Benedict Canynon. Silk, cho dù hắn ta là ai, thì cũng trở thành kẻ chiến thắng rồi.
Cuối cùng, đường cũng được thông. Tôi thoát khỏi đại lộ 105 đến đại lộ 405 và nhanh chóng tới Sunset. Tôi đang trên đường tới thẳng Benedict. Lúc đó chỉ hơn chín giờ ba mươi phút, tôi chợt nhìn thấy hai chấm đỏ ở phía trước mình.
Đó là đèn hậu của một chiếc xe. Chiếc xe dừng lại. Hình như chiếc xe đó đỗ ngay trước con đường hẹp dẫn vào nhà tôi, do khoảng cách quá xa, tôi không thể chắc chắn. Tôi tăng tốc, nhưng trước khi tôi tới, ánh đèn mờ dần và chiếc xe đi khỏi đó, nhanh đến nỗi tôi khó có thể đuổi kịp.
Có lẽ chẳng có chuyện gì. Tôi đang ở giữa ranh giới mỏng manh của sự mơ ngủ và tinh thần cảnh giác. Tim đập thình thịch. Tôi chờ đợi. Mọi thứ vẫn yên tĩnh. Tôi lái xe về phía chiếc cổng màu trắng. Cho tấm thẻ chìa khóa vào khe và lái xe vào con đường trồng toàn cây bách.
Trong nhà vẫn sáng đèn, ga ra đóng cửa. Tôi đến trước cửa, cảm giác thật ngọt ngào. Tôi mở khóa và bước vào, lồng ngực như muốn vỡ tung.
Robin nằm dài trên ghế sô pha trong phòng khách đọc tạp chí thời trang. Con chó đang nằm ngáy, kẹp chân giữa hai chân nàng, đầu nó gối lên chân nàng và mồm hơi há ra.
– Người đẹp và ác quỉ – Tôi nói, giọng hơi yếu.
Robin nhìn lên, nàng cười và dang rộng cánh tay. Con chó mở một mắt ra sau đó lại cúp xuống.
– Em đi mua sắm cả chiều nay à? – Tôi nói và cởi áo khoác – Anh đã cố gọi cho em không biết bao nhiêu lần.
– Ôi, rất nhiều việc lặt vặt... Nhưng có chuyện gì vậy anh?
Tôi kể cho nàng nghe những chuyện ở Shoreline Drive.
– Ôi, không! – Nàng chống hai khuỷu tay để khỏi ngã xuống.
– Anh đã quá kín đáo với em khi một mình đi tới đó.
Tôi ngồi xuống. Nàng bíu chặt lấy tay tôi, tôi kể lại những gì đã chứng kiến, cả những điều Harrison và Bancroft nói. Nàng bụm miệng vì kinh hoàng, mắt nàng thảng thốt.
– Robin, bất cứ kẻ nào gây ra những chuyện này đều không dừng lại. Anh muốn em chuyển tạm đến nơi nào đó.
Nàng ngồi thẳng dậy:
– Gì cơ?
– Chỉ một thời gian ngắn thôi mà. Anh sợ không đủ an toàn để bảo vệ em.
– Chúng ta sẽ đi, vậy anh cũng phải đi, Alex. Làm sao mà hắn có thể biết anh ở đây được?
Nghĩ đến những cái đèn hậu của chiếc xe lúc tối, tôi nói:
– Anh tin chắc là chẳng kẻ nào biết cả, nhưng anh vẫn phải đề phòng. Anh đã nói chuyện với Milo rồi. Em có thể đến chỗ anh ấy. Chỉ có vậy thì mọi chuyện mới dễ dàng hơn một chút.
– Không cần thiết đâu anh.
Con chó đã tỉnh dậy, nó chuyển cái nhìn từ Robin sang tôi. Những nếp nhăn trên trán sâu hơn, y hệt một đứa trẻ đang lo lắng và sợ hãi khi chứng kiến cha mẹ chúng cãi nhau.
– Chỉ tạm thời thôi mà – Tôi năn nỉ.
– Tạm thời? Nếu kẻ đó gây ra mọi chuyện, hắn ta sẽ chờ nhiều năm. Vậy “tạm thời” của anh là bao lâu?
Tôi yên lặng.
– Không, chẳng có cách nào cả, Alex, em sẽ không rời bỏ anh. Cầu cho hắn xuống địa ngục, hắn sẽ không thể làm gì chúng mình.
– Robin, Katarina đang mang thai. Anh thấy rõ hắn đã giết cô ấy dã man thế nào.
– Không – Mắt nàng nhòa lệ – Đừng anh, em không muốn nghe gì về chuyện đó nữa.
– Được rồi, em yêu.
Nàng ngả về phía trước như ngã, ôm chặt lấy vai tôi bằng cả hai tay. Kéo tôi lại gần hơn, nàng ôm thật chặt, như thể vẫn không đủ, má nàng kề sát vào má tôi, và hơi thở của nàng ngay bên tai tôi, nóng hổi và gấp gáp.
– Nào, được rồi. Chúng mình sẽ vượt qua mà – Nàng xiết chặt tôi hơn – Alex, chỉ còn một cách là chúng mình đến sống ở một hành tinh khác.
Con chó nhảy từ trên ghế xuống sàn, ngồi đó và nhìn chằm chằm chúng tôi. Hai lỗ mũi bị ngạt của nó thở phì phò, nhưng cặp mắt rất sáng và nhanh, giống hệt mắt người.
– Spike – Tôi gọi và chìa tay ra – Nó vẫn khoẻ chứ em?
– Vâng.
Tai nó vểnh lên khi nghe thấy nàng nói, nó lại gần thành ghế và cọ lông lên gối nàng. Nàng xoa đầu nó và nó nghếch cằm lên, lấy cái lưỡi âm ẩm liếm dài vào lòng bàn tay nàng.
– Em có thể mang nó bên mình, Robin. Em đã có sự chăm sóc trung thành và tuyệt đối của “một người đàn ông” rồi đấy.
– Bỏ ý nghĩ đó ra khỏi đầu đi, Alex thân yêu – Móng tay nàng chí vào lưng tôi – Dẫu sao, chúng mình cũng sẽ không còn nuôi nó lâu đâu. Sáng nay em nhận được cú điện từ tổ chức tên là French Bulldog Rescue Tổ chức cứu giúp những con chó giống Bun của Pháp. Một bà có giọng nói rất ngọt ngào ở Burbank – anh đã viết thư cho câu lạc bộ quốc gia và họ liên lạc với bà ấy. Bà ấy đang thăm dò chúng mình, nói rằng hầu hết những “đứa trẻ nhỏ đáng yêu” này không bao giờ bị bỏ rơi một cách cố ý. Do đó, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi những người chủ thật sự gọi đến để tìm lại nó.
– Không ai thông báo là đánh mất nó à?
– Không. Nhưng mình cũng đừng hy vọng quá. Bà ta quan hệ rất rộng, bà ta gần như khẳng định là sẽ tìm ra chủ của nó. Bà ta đề nghị đến xem xét và mang nó đi, nhưng em nói chúng mình vẫn chăm sóc nó tới khi nào người chủ thật sự của nó tìm đến.
Con chó nhìn tôi đầy hy vọng. Tôi xoa một tay lên đầu nó và nó rên lên những tiếng khe khẽ, vẻ hài lòng.
– Giờ thì em biết cảm giác của những cha mẹ có con nuôi rồi.
Nàng víu lấy cái cằm mềm mại của nó và thơm. Quần soóc bị kéo lên quá đùi, nàng kéo mạnh xuống và hỏi:
– Anh đã ăn tối chưa?
– Chưa.
– Em đã mua một ít đồ ăn, vì thế chúng mình có thể làm một bữa thịnh soạn, nhưng nếu anh đói, em sẽ làm vài thứ ăn nhanh.
– Đừng lo, anh sẽ làm bánh kẹp.
– Không, để em, Alex. Em cần có việc gì đó để làm. Sau đó chúng mình có thể chơi trò ô chữ ở trên giường, xem tivi một chút, và ai biết được điều gì nữa sẽ xảy ra.
– Ai biết được... Tôi dài giọng rồi kéo nàng về phía mình.
*
Chúng tôi tắt đèn vào quãng nửa đêm. Tôi ngủ rất dễ nhưng lại bị thức giấc, miệng khô đắng như trong người không còn chút nước nào.
Tôi ăn sáng một cách khó nhọc, cho con cún ăn một ít trứng và nói chuyện với Robin cho tới khi nàng đưa nó vào ga–ra.
Robin vừa đi khỏi, tôi gọi cho bác sĩ Shirley Rosenblatt tại Manhatta nhưng không gặp và phải để lại tin nhắn. Tôi nhắc lại với bà ấy rằng tình hình rất khẩn cấp và yêu cầu bà ấy liên lạc lại ngay khi có thể. Khi tôi tắm, cạo râu và thay đồ xong, vẫn không có cú điện nào gọi lại. Tôi gọi cho Jean Jeffers. Chị ấy đã đến một cuộc hẹn ngoài thị trấn và không để lại lời nào cho thư kí về Lyle Gritz. Nhớ lại cảm giác nôn nóng và mong muốn tìm được hắn như thế nào, tôi đoán chị ấy chẳng tìm được gì cả.
Thông tin về Ramona hay Rowena Bassille không có trong danh bạ nhưng lại có một R. Basille ở số 618 phố Nam Hauser, ngay gần công viên LaBrea.
Giọng một phụ nữ đã già trả lời:
– Xin chào.
– Có phải bà Basille không ạ?
– Tôi là Rolanda, ông là ai thế ạ? – Âm sắc tạp nham, một thứ giọng miền Tây mà tôi đã từng lớn lên ở đó.
– Tôi là Alex Delaware. Tôi là bác sĩ tâm lí, tư vấn cho sở cảnh sát Los Angeles.
– Vâng. Bà ta lên giọng.
– Xin lỗi vì đã quấy rầy, bà...
– Có việc gì vậy? Đã xảy ra chuyện gì?
– Không có gì, bà Basille. Liệu tôi có thể hỏi bà vài câu được không?
– Về Becky?
– Về một người có thể Becky biết.
– Ai?
– Một người bạn của Dorsey Hewitt.
Cái tên làm bà ta rên rỉ:
– Bạn nào? Ai? Tôi không hiểu gì cả?
– Một người đàn ông tên là Lyle Gritz...
– Anh ta làm sao? Chuyện gì đã xảy ra?
– Bà đã bao giờ nghe thấy tên anh ta chưa?
– Chưa. Điều này liên quan gì tới Rebecca?
– Không có liên quan trực tiếp, bà Basille, nhưng Gritz có thể bị dính vào một số tội ác khác. Hắn cũng có thể lấy tên là Silk hoặc Merino.
– Loại tội ác nào? Giết người à?
– Đúng thế.
– Tôi không hiểu gì cả. Tại sao lại là bác sĩ tâm lí gọi điện. Anh vừa nói anh là bác sĩ tâm lí. Bác sĩ tâm lí hay tâm thần?
– Bác sĩ tâm lí...
– Nếu có liên quan đến án mạng, sao cảnh sát không gọi đến?
– Đây không phải cuộc điều tra chính thức, nhưng...
Ngừng một chút.
– Được rồi, anh là ai, hả? Một nhà báo lá cải nhếch nhác. Tôi đã vượt qua được chuyện đó rồi, để tôi nói cho anh biết cái mà anh có thể...
– Tôi không phải phóng viên mà là bác sĩ tâm lí. Bà Basille, nếu bà muốn kiểm tra lại, bà có thể gọi cho thám tử Sturgis, Milo Sturgis tại văn phòng thám tử Tây Los Angeles. Ông ấy cho tôi tên của bà.
– Sturgis – Bà ta nhắc lại.
– Ông ấy điều tra vụ của Becky.
– Còn gì nữa đây. Ồ, được, một người rất vĩ đại... ông ta cố gắng để mọi việc tốt đẹp. Nhưng ông ta cho anh biết tôi ở đây à? Anh đang làm gì vậy? Một cuộc nghiên cứu về tâm lí học sao? Muốn biến tôi thành con lợn ngốc nghếch à?
– Không, không phải thế...
– Sau đó là cái gì?
Không còn sự lựa chọn nào khác, tôi nói:
– Sự tham gia của tôi vào việc này không chỉ vì cá nhân tôi. Bà Basille, tôi là một nạn nhân chưa bị sờ đến.
– Một nạ…, của ai, tên Gritch này á?
– Gritz. Lyle Edward Gritz. Hay là Silk hoặc...
– Tôi chưa từng nghe thấy tên nào trong số đó.
– Đã có bằng chứng chứng tỏ việc hắn giết hại rất nhiều nhà vật lí trị liệu tâm lí trong vòng năm năm nay.
– Ôi, không.
– Cái chết gần nhất xảy ra hôm qua, tại Santa Barbara. Một phụ nữ tên là Katarina de Bosch.
– Hôm q... Ôi, lạy chúa tôi! – Giọng bà ấy thay đổi, trầm hơn, dịu dàng hơn và vẫn bối rối – Và anh nghĩ hắn đang tìm kiếm anh?
– Vâng, đúng vậy.
– Tại sao?
– Hắn có thể có chuyện gì đó chống lại các nhà vật lí trị liệu tâm lí. Hắn đã để lại trên hiện trường vụ án dòng chữ: “Tình yêu dối trá”.
Bà ta nói to:
– Đó là điệp khúc mà những kẻ cặn bã gào lên, nhai đi nhai lại.
– Do đó, chúng tôi nghĩ có mối liên hệ nào đó. Tuần trước, tôi nhận được một cuốn băng với những lời lặp đi lặp lại “Tình yêu dối trá” giống những lời gào thét của Hewitt. Không lâu sau đó, tôi nhận được một cú điện thoại kỳ cục và có ai đó vào phá phách nhà tôi.
– Anh đang nói gì vậy? Rằng Rebecca là một phần của chuyện đó?
– Bà Basille. Tôi thật sự không biết.
– Nhưng có thể? Một kẻ nào khác đã bị Becky của tôi cuốn hút...
Một tiếng kêu to đập vào tai tôi, vài giây sau tiếng bà ta nói tiếp:
– Máy điện thoại bị rơi. Anh vẫn còn đó chứ?
– Vâng.
– Anh đang nói gì nhỉ? Tên Gritz này có thể bị lôi cuốn vào việc làm hại con gái tôi?
– Tôi mong sao có thể nói cho bà biết, bà Basille. Gritz và Hewitt là bạn vì thế rất có thể Gritz đã kích động Hewitt. Nhưng không có bằng chứng.
– Tình yêu dối trá – Bà ấy nói – Chẳng ai giải thích cho tôi nó nghĩa là gì?
– Đó là một thuật ngữ về tâm lí học do bác sĩ Andres de Bosch, bố của Katarina de Bosch đưa ra.
– De Bauch à?
– De Bosch. Ông ta là nhà tâm lí học đã điều hành trường học bệnh viện tại Santa Barbara.
Yên lặng.
Tôi nói tiếp:
– Lyle Gritz có thể là bệnh nhân ở đó. Theo những gì tôi biết, Hewitt cũng có thể là bệnh nhân. Rebecca đã từng nhắc đến những chuyện này chưa?
– Không... Cầu chúa trên thiên đàng... Tôi sắp sửa phát ốm.
– Thành thật xin lỗi bà, bà...
– Anh nói tên anh là gì nhỉ?
– Alex Delaware.
– Cho tôi số điện thoại của anh.
Tôi đọc số điện thoại.
– Được rồi. Bây giờ tôi gọi ngay cho Sturgis để kiểm tra về anh.
– Ông ấy đang ở Santa Barbara. Bà có thể cho ông ấy tại sở cảnh sát.
Tôi đi quanh tìm tấm danh thiếp của Sarah Grayson và đọc to số lên.
Bà ta gác máy mà không nói thêm lời nào.
Mười phút sau bà ta gọi lại cho tôi.
– Ông ta không có ở đó. Nhưng tôi đã nói chuyện với một nữ cảnh sát và cô ta nói rằng anh đã nói thật. Vì thế, thôi được, cho tôi xin lỗi vì những gì anh đang phải trải qua. Nào, tôi có thể làm gì giúp anh?
– Becky đã bao giờ nói về công việc của cô ấy chưa? Nói điều gì đó có thể giúp tìm ra Gritz và làm sáng tỏ mọi chuyện?
– Nói chuyện ư? Phải, rồi, nó có nói. Nó yêu hắn ta... Ôi cái bụng của tôi... chắc nó lại giở chứng rồi... tôi nghĩ tôi vẫn ổn nhưng giờ thì phải bỏ máy... hãy để tôi gọi lại cho anh. Không, quên chuyện đó đi, tôi ghét điện thoại. Chuông điện thoại reo và tim tôi bắt đầu đập mạnh, như thể sắp sửa nổ tung. Anh có muốn đến và xem tôi sống thế nào không? Tôi muốn gặp anh, tôi ghét điện thoại.
– Tôi có thể tới đó khi nào?
– À, mà thôi, nơi này chán phèo. Tôi không bao giờ muốn làm một người nội trợ, và bây giờ tôi cũng không có ý định đi làm điều chán ngắt ấy. Tại sao anh không gặp tôi trong công viên Hancock? Không có hàng xóm láng giềng nhòm ngó. Anh biết nó ở đâu chứ?
– Gần những thùng dầu.
– Được rồi, gặp tôi ở trên hè phố số 6, cạnh bảo tàng. Ở đó có bóng râm và vài cái ghế dài. Anh sẽ mặc gì như thế nào nhỉ?
– Quần Jeans và áo sơ mi trắng.
– Được rồi. Tôi sẽ mặc... ồ không, cái này nhàu rồi, phải thay thôi... Tôi sẽ mặc một cái áo màu xanh với viền cổ trắng. Anh chỉ cần tìm một bà già xấu xí với chiếc áo màu xanh và một tính khí dở hơi.
*
Bà ta mặc một chiếc áo màu xanh lá mạ, ngồi dưới một mái nhà lợp rạ được ghép bởi những thân cây, trên một chiếc ghế đối diện với bãi cỏ hình tròn, ngăn cách bảo tàng nghệ thuật của hạt với kho chứa George Page, được xây bằng tiền của Mission Pack. Cuối bãi cỏ là những thùng đen đầy dầu được đặt ở phía trong hàng rào sắt. Phía ngoài hàng rào, những con voi răng mấu bằng thạch cao hướng ra phía đại lộ Wilshire. Dầu chảy qua phần cuối con đường, rỉ một vài chỗ trong công viên. Tôi dẫm vào một chỗ dầu rỉ trong khi mải bước đến chỗ bà Rolanda Basille. Bà ta quay lưng ra phố nhưng tôi có thể nhìn rõ bà ta. Bà ta khoảng sáu mươi lăm tuổi, mặc một cái áo của hãng Peter Pan, cái quần len màu ô liu quá nóng so với thời tiết. Tóc bà ta nhuộm đen như dầu, cắt ngắn đúng mốt, để bờm dài đến chấm lông mày, mặt nhỏ và đầy nếp nhăn. Hai bàn tay bị bệnh viêm khớp khoanh trước ngực, hai chân vắt chéo lên nhau. Bà ta đi giầy tennis màu đỏ và tất trắng. Một cái túi lớn bằng nhựa màu xanh khoác trên vai.
Mặt đất đầy lá khô phát ra tiếng lạo xạo khi tôi đến gần bà ấy. Bà ấy vẫn nhìn chăm chăm về phía bãi cỏ không ngoảnh đầu lại. Ở đó có những đứa trẻ đang chơi đùa, những chấm nhỏ di chuyển trên nền xanh lục tươi, nhưng tôi không chắc là bà ta nhìn chúng.
Những cái cây ngẫu nhiên sắp xếp thành những cái tán rộng che mát cả một vùng, một số cành cây vươn ra ngoài. Hầu như chẳng có người ngồi dưới những tán cây ấy, chỉ có một người đàn ông ngủ dưới một gốc cây với cái túi giấy cạnh đầu, hai người phụ nữ xấp xỉ tuổi bà Rolanda Basille đang chơi ghi ta và hát dưới một tán cây khác.
Tôi đến trước mặt bà Rolanda.
Bà ta hơi nhìn lên và vỗ vỗ vào ghế. Tôi ngồi xuống. Tiếng nhạc từ chỗ hai người chơi ghi–ta vọng đến. Một thể loại dân ca bằng tiếng nước ngoài.
– Chị em nhà Stepne – Bà ấy nói, thè lưỡi ra – Họ ở đây suốt, họ thật khó ưa. Anh đã nhìn ảnh con gái tôi chưa.
– Tôi chỉ thấy trên báo.
– Cái đó không đẹp.
Bà ta mở chiếc túi to, tìm một lát và lấy ra một cái phong bì cỡ trung, đưa cho tôi xem ba bức ảnh màu. Đó là những bức ảnh chân dung chuyên nghiệp, thật sự rất đẹp. Basille ngồi trên một chiếc ghế mây trắng, giữa một ngã ba đường trước một con suối nhỏ, cô mặc một chiếc váy dài màu xanh và đeo một chuỗi ngọc trai. Cô cười rất tươi, để lộ hàm răng trắng đều rất đẹp. Trông cô trẻ trung, xinh xắn, dáng mềm mại, hơi uốn người tạo dáng, những cánh tay mềm, người hơi đậm, chiếc váy dài trễ cổ hở một khoảng ngực; mái tóc màu nâu dài, sáng, cuốn cụp ở phía dưới; ánh mắt toát lên sự thông minh, thoáng chút lo lắng, dường như cô ấy đã ngồi ở đó rất lâu rồi và đang chờ đợi điều gì đó.
– Trông thật đáng yêu – Tôi nói.
– Nó rất đẹp, cả hình thức lẫn tâm hồn.
Bà ta đưa tay ra và tôi trả lại các bức ảnh. Sau khi nhét chúng vào ví, bà ta nói:
– Tôi chỉ muốn anh biết nó là người như thế nào, ngay cả khi những bức ảnh này không làm được điều đó. Nó không thích chụp ảnh. Nó đã rất mũm mĩm từ nhỏ. Khuôn mặt nó lúc nào cũng đẹp.
Tôi gật đầu.
Bà ta tiếp:
– Có một con chim bị thương cách nhà năm dặm, Becky tìm thấy và mang về nhà. Những hộp đựng giầy, thùng bìa hỏng hóc, vớ vẩn, nó luôn cố gắng giữ lại.
– Cả những con côn trùng?
– Tất cả. Những con côn trùng nhỏ, những con rệp mẹ, bất cứ thứ gì, nó cũng đều giữ lại. Từ khi nó còn rất nhỏ, nó đã có ý nghĩ không muốn ai cắt cỏ vì sợ làm cỏ đau.
Bà ấy cố gắng cười nhưng hai môi bắt đầu run run. Bà ấy lấy tay che miệng, sau đó nói:
– Anh có hiểu tôi đang nói gì không?
– Tôi hiểu.
– Nó không bao giờ thay đổi, nó luôn đối xử công bằng với những kẻ bị ruồng bỏ, bất cứ kẻ nào khác thường hoặc bị tổn thương, những người bị thiệt thòi, những đứa trẻ chậm phát triển, những đứa bị sứt môi. Thỉnh thoảng tôi nghĩ nó chính là “lực hấp dẫn đối với kẻ nào định tấn công nó”.
Bà ta lại lục trong túi và lôi ra một chiếc kính râm gọng màu đỏ và đeo vào.
– Tôi có thể hiểu tại sao Becky lại tham gia công tác xã hội – Tôi nói.
– Đúng vậy. Tôi luôn cho rằng nó sẽ làm những việc tương tự như thế, tôi nói với nó rằng làm y tá hay công tác xã hội rất hợp với nó. Nhưng hiển nhiên là nếu anh khuyên ai đó nên làm công việc gì, người ta sẽ đi làm công việc khác. Becky cũng vậy. Vì thế, phải mất một thời gian dài để biết nó muốn gì. Nó không muốn vào đại học, thích đi làm bồi bàn, trợ lí hay thư kí. Những đứa con còn lại của tôi thì lại khác. Khác hoàn toàn. Một đứa con trai làm phẫu thuật chỉnh hình tại Reno và đứa con gái lớn làm việc trong một ngân hàng trên phố Louis – trợ lí phó thống đốc.
– Becky là con út?
Bà ấy gật đầu.
– Nó nhỏ hơn Kathy chín tuổi và nhỏ hơn Carl mười một tuổi. Tôi sinh nó lúc tôi bốn mươi mốt tuổi và bố nó hơn tôi năm tuổi. Ông ta đã bỏ chúng tôi ngay khi Becky vừa chào đời, để tôi cô đơn và khốn khổ với ba đứa nhỏ. Ông ta bị bệnh đái đường và không chịu bỏ rượu. Ông ấy bắt đầu bị liệt hai bàn chân, sau đó mắt không nhìn được. Cuối cùng họ quyết định cắt bỏ chân, ông ấy chỉ còn lại được một tay. Đó là thời gian ông ấy trở thành một kẻ độc thân điên cuồng.
Bà ta lắc đầu.
– Không lâu sau đó, ông ta được chuyển tới Tahoc. Ông ấy mất khi Becky mới hai tuổi. Chúng tôi chẳng biết tin tức gì của ông ấy từ khi ông ấy chuyển tới Tahoc. Bất ngờ chính phủ gửi cho tôi lương cựu chiến binh của ông ấy... anh nghĩ đó có phải là nguyên nhân khiến Becky bị tổn thương không? Không... Mọi người sẽ nghĩ gì về điều này... một người cha đã làm tròn trách nhiệm?
– Becky đã bị tổn thương như thế nào? – Tôi hỏi.
– Nó rất cả tin. Bà ta chạm vào cổ áo, xoa xoa nếp nhăn một cách vô thức. Nó luôn giúp đỡ những người thiệt thòi. Nó luôn tin vào những câu chuyện bịa đặt.
– Những người như thế nào?
– Rất nhiều “chú chim nhỏ” bị tổn thương, những đứa trẻ đáng thương mà nó nghĩ nó có thể giúp đỡ. Nó muốn ổn định thế giới này.
Tay bà ta run run và bà giấu nó dưới cái túi. Chị em nhà Stepne hát to hơn. Bà ta quát:
– Câm mồm đi.
– Những kẻ thiệt thòi đó đã đối xử không công bằng với cô ấy.
– Những kẻ thiệt thòi – Bà ta nói như thể không nghe thấy – Một nhà thơ lớn không có bài thơ nào thể hiện điều đó hay một cảnh sống thiếu thốn. Hàng tá các nhạc công cũng được gọi như vậy, những người đáng thương. Không phải đàn ông. Những cậu bé. Tôi lúc nào cũng rầy la mọi thứ mà nó lựa chọn. Rốt cục, cũng chẳng có tác dụng gì cả, đúng không?
Bà ta bỏ kính và lấy ngón tay quệt nước mắt. Bà ta đeo kính lại và nói:
– Anh không cần phải nghe những điều này, anh cũng đang gặp rắc rối.
Tôi nhìn thấy bóng mình qua đôi mắt kính của bà ấy, méo mó và căng thẳng.
– Anh giống như một kẻ tùy tùng tốt bụng, đã nghe tôi nói những chuyện này. Anh đã bao giờ giữ lại những con rệp chưa?
– Có lẽ hai ba lần gì đó.
Bà ấy cười:
– Tôi cá là hơn, và anh đã đục những cái lỗ ở trên hộp cho những con rệp có thể thở được, đúng không? Tôi chắc là mẹ anh cũng thích chúng, chúng thật là những đồ kì quái trong nhà.
Tôi bật cười. Bà ấy nói tiếp.
– Tôi đúng, phải không? Tôi nên là một nhà tâm lí.
– Những người như thế đòi hỏi phải có trí nhớ chính xác và chắc chắn – Tôi nói.
– Chắc chắn rồi. Ra ngoài để cứu vớt toàn nhân loại. Anh lập gia đình chưa?
– Chưa.
– Một người nào đó có cách nghĩ giống Becky của tôi là thích anh thì anh nên đồng ý và các bạn có thể cùng nhau cứu vớt cả thế giới này. Nhưng nói thật, nó có thể không cùng đi với anh, không có phương pháp tấn công... các bạn cũng chỉ là... được đặt cạnh nhau. Đó là lời nói chân thành. Hãy tin tôi đi.
Bà ấy vỗ vỗ vào đầu gối tôi, nhún vai:
– Tôi lấy làm tiếc vì những chuyện mà anh phải trải qua. Anh phải tự chăm sóc tốt cho mình đấy nhé. Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, mẹ anh chắc sẽ chết mất. Có thể anh ra đi thanh thản, nhưng bà ấy sẽ đau khổ từng ngày từng giờ... anh hiểu ý tôi chứ?
Bàn tay bà ấy cào cào trên đầu gối tôi.
Tôi gật đầu.
– Nếu có chuyện gì xảy ra với anh. Mẹ anh sẽ rất lo lắng. Bà sẽ băn khoăn không biết anh đã phải chịu đựng đau khổ như thế nào. Anh đã nghĩ gì nếu điều đó xảy ra. Mẹ anh sẽ tự hỏi tại sao nó lại xảy đến với con bà mà không phải con một người khác? Anh có hiểu những điều tôi đang nói không?
– Tôi hiểu.
– Vậy hãy cẩn trọng.
– Đó là lí do tôi đến đây.
Bà ấy tháo kính ra. Mắt bà ta đờ đẫn.
– Gritz á? Becky không bao giờ kể một lời nào đến cái tên đó cả. Cả Silk và Merino cũng vậy.
– Cô ấy có bao giờ kể về Hewitt không?
– Tôi cũng không chắc lắm.
Bà ta hình như rất thận trọng. Tôi ngồi yên lặng. Mắt bà ta hơi ướt.
– Nó có nói một lần, khoảng một hay hai tuần trước khi việc đó xảy ra. Nó nói nó chữa trị cho anh ta như một kẻ điên thật sự. Nó nghĩ nó đang giúp anh ta. Nó bảo kẻ ốm yếu và khốn khổ đó thực sự cần sự giúp đỡ của nó. Anh ta bị bệnh thần kinh phân liệt hay cái gì đó, tôi không nghe rõ. Không ai có thể giúp anh ta, nhưng nó nghĩ nó có thể. Anh ta đã bắt đầu tin nó.
– Cô ấy có nói đến tên hắn ta không?
– Không. Nó có thói quen không bao giờ nói đến ai đó mà gọi bằng tên.
Nhớ lại những giấy tờ ghi chép của Becky và những điều cô ấy không nói với Jean, tôi nói:
– Một sự khắt khe.
– Hồi nó còn học phổ thông, các thầy cô của nó luôn nói họ ước tất cả học sinh trong lớp đều như Becky. Thậm chí với những đứa bạn trai cũ, nó cũng luôn thẳng thắn và khép mình. Nó cũng không dùng ma túy. Đó là lý do tại sao chúng không...
Bà ta lại lắc đầu, đeo kính vào và chỉ cho tôi phần sau gáy. Giữa những sợi tóc nhuộm, cổ bà ta bị những chấm nhỏ đã tượt da.
– Tại sao chúng lại không làm gì – Tôi nói
Bà ta không trả lời. Một lúc sau bà ta mới nói:
– Chúng không bám lấy nó nữa, chúng luôn bỏ rơi nó. Anh có thấy điều đó không? Những kẻ sắp li dị thường hay quay về với vợ của chúng. Những kẻ cai rượu sẽ lại tiếp tục uống lại. Nó đã mười lần gặp những kẻ như thế. Anh có hiểu điều đó không?
– Chúng là những kẻ thất thường.
– Đúng vậy. Những kẻ thua thiệt sẽ kết thúc bằng cái chết. Họ gặp toàn những kẻ đã tan vỡ một lần.
– Thế lúc cô ấy chết thì các mối quan hệ của cô ấy như thế nào?
– Tôi không biết. Lần cuối cùng tôi gặp nó là hai ngày trước đó. Nó rẽ qua chỗ tôi để nhờ mang ra hiệu giặt một số đồ. Tôi hỏi nó về các mối quan hệ của nó nhưng nó không trả lời. Điều đó có nghĩa là nó đã bị ai đó cuốn hút và nó không muốn tôi rày la nó khi tôi biết điều đó. Tôi rất thất vọng về nó. Chúng tôi cũng chẳng nói gì nhiều. Làm sao tôi có thể biết đó là lần cuối cùng tôi gặp nó!.
Bà ta cúi xuống và khóc nức nở.
Tôi chạm vào một bên vai bà. Ngay lập tức bà ta ngồi thẳng dậy.
– Thôi như vậy là quá đủ rồi. Tôi chán cảnh ủ rũ lắm rồi. Chính vì thế tôi đã không tham gia vào nhóm người do anh bạn Sturgis của anh giới thiệu. Suốt ngày họ than thân trách phận, mà tôi có gây ra điều gì dại dột cho ai đâu.
Tôi bắt đầu suy nghĩ và tưởng tượng. Chính sự hấp dẫn của Beckey với những kẻ thua thiệt càng khẳng định thêm sự ngờ vực của tôi sau khi xem những ghi chép của Beckey. Tôi cười và nói:
– Nói chuyện với bà thú vị thật.
– Anh cũng vậy. Tôi có phải trả tiền không?
– Ồ, không. Một giờ đầu tiên miễn phí.
– Anh nhìn này. Đẹp trai không? Caddy đấy. Anh ta trông có vẻ hài hước, thông minh... Anh cũng thế, phải không?
– Tôi cũng tạm được.
– Khiêm tốn quá. Tôi nghĩ anh có thể làm tốt đấy. Đó cũng chính là điều tôi muốn cho Becky. Tôi đã bảo nó đừng lãng phí thời gian làm những việc không đâu, hãy tập trung vào học để lấy mấy cái bằng rồi mở một văn phòng chữa bệnh ở Beverly Hills mà kiếm tiền. Nhưng nó không nghe tôi. Nó bảo nó muốn làm một việc quan trọng hơn. Nó muốn giúp những người thực sự cần nó. Bà ta lại lắc đầu. Cứu những con rệp ư – Bà ấy nói nhỏ đến nỗi tôi phải căng tai mới nghe được – Nó nghĩ rằng nó đang đối mặt với những thứ làm hại củ khoai tây mà không biết rằng một con bọ cạp đã chui được vào trong tải khoai tây.