← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3 Anna

Hai hình ảnh mờ mịt của T.J nhảy múa trước H mặt tôi, tôi chớp mắt đến khi chúng nhập vào thành một. Mặt thằng bé có một vết cắt, mắt trái thì sưng vù đến độ không mở ra nổi.

“Chúng ta đang ở đâu thế này?”, tôi hỏi. Giọng tôi lạc hẳn đi và miệng đầy vị muối.

“Em không biết. Một hòn đảo nào đó”.

“Thế còn Mick thì sao?”, tôi hỏi.

T.J lắc đầu. “Phần còn lại của máy bay đã chìm rất nhanh”.

“Chị chẳng nhớ gì cả”.

“Chị đã ngất đi trên biển, khi không thể đánh thức chị dậy em đã nghĩ là chị chết rồi”.

Đầu tôi đau như búa bổ. Tôi sờ tay lên trán, chạm phải một cục u to đùng. Một bên mặt của tôi dinh dính. “Chị bị chảy máu à?”

T.J cúi xuống, chải tóc tôi bằng mấy ngón tay để tìm chỗ chảy máu. Tôi đau phát khóc khi nó tìm thấy.

“Xin lỗi”, nó nói. “Một vết cắt khá sâu đấy. Cũng không còn chảy máu nhiều nữa. Lúc đang lênh đênh trên biển chị chảy máu nhiều lắm”.

Nỗi sợ hãi xâm chiếm cơ thể tôi. “Có cá mập không?”

“Em cũng không biết. Em không nhìn thấy con nào, nhưng em cũng lo là sẽ có”.

Hít một hơi sâu, tôi cố gắng ngồi dậy. Mặt biển trước mắt tôi quay cuồng. Đặt hai tay trên nền cát, tôi cố ngồi im cho đến khi cơn chóng mặt tồi tệ nhất qua đi. “Chúng ta đến đây bằng cách nào thế?”, tôi hỏi.

“Em vòng tay qua áo phao của chị và chúng ta cứ trôi theo cơn thủy triều cho đến khi vào bờ. Sau đó em kéo chị lên bờ cát”.

Nhận thấy những gì cậu bé vừa làm đã thực sự cứu sống tôi khiến tôi lặng đi trong giây lát. Tôi lặng lẽ nhìn mặt nước hồi lâu. Tự dưng tôi nghĩ rằng nếu thằng bé bỏ mặc tôi hoặc nếu lũ cá mập kéo đến hoặc nếu không có hòn đảo này thì chuyện gì sẽ xảy ra cơ chứ. “Cảm ơn em, T.J”.

“Không có gì”, nó nói, chỉ nhìn vào mắt tôi vài giây trước khi quay mặt đi chỗ khác.

“Em có đau lắm không?”, tôi hỏi.

“Em ổn. Em nghĩ là đã đập mặt vào cái ghế phía trước mình”.

Tôi cố gắng đứng lên nhưng lại loạng choạng ngã xuống, một cơn chóng mặt làm tôi xây xẩm. T.J đỡ tôi đứng dậy, lần này thì tôi đứng được trên đôi chân của mình. Tôi mở khóa áo phao, để nó rơi xuống bãi cát.

Quay lưng lại phía biển, tôi hướng tầm mắt nhìn vào hòn đảo. Hòn đảo trông không khác mấy những hình ảnh tôi hay thấy trên Internet, chỉ thiếu mỗi một khách sạn hạng sang và những khu nghỉ dưỡng cao cấp mà thôi. Làn cát trắng tinh khôi như đường xào xạo dưới bàn chân trần của tôi, làm tôi chợt nhận ra không biết đôi giày của mình đã văng đi đường nào. Đường bờ biển cát trắng đã được thay thế bằng những bụi hoa và cây nhiệt đới, rồi những rặng cây cao vút đứng sát bên nhau tạo thành những vòm lá đan xen màu xanh biếc kết thúc tầm mắt của tôi. Mặt trời rực rỡ trên cao chiếu ánh nắng gay gắt xuống hòn đảo. Từng cơn gió biển thoang thoảng không giúp gì cho việc giảm thân nhiệt đang ngày càng lên cao của tôi khi từng giọt mồ hôi thi nhau tuôn đầy trên mặt và quần áo cứ dính chặt vào làn da nhớp nháp.

“Chị phải ngồi xuống một lát đã”. Dạ dày tôi sôi lên, tôi sắp nôn đến nơi. T.J ngồi xuống cạnh tôi và khi cơn buồn nôn qua đi tôi nói, “Đừng lo. Chắc chắn họ sẽ biết chúng ta bị rơi máy bay và sẽ sớm tìm kiếm thôi”.

“Chị có biết mình đang ở đâu không?”, nó hỏi.

“Không hề”.

Tôi dùng ngón tay vẽ trên nền cát. “Những hòn đảo tập trung thành chuỗi gồm hai mươi sáu đảo san hô trải dài từ bắc xuống nam. Đây là nơi chúng ta định đến”. Tôi chỉ tay vào một đám biểu tượng vừa vẽ. “Còn đây là Malé, nơi chúng ta khởi hành. Chắc giờ mình đang ở đâu đó quãng giữa này, trừ khi những đợt thủy triều đẩy chúng ta dạt hẳn sang đông hoặc tây. Chị còn chẳng rõ Mick có đi đúng hướng, hay thậm chí chiếc thủy phi cơ có được lập trình bay theo đường đã định sẵn hoặc được kiểm soát qua sóng rađa hay không”.

“Bố mẹ em chắc sẽ phát hoảng lên mất”.

“Ừ”. Bố mẹ T.J chắc chắn sẽ ra sức gọi vào di động của tôi, nhưng chắc giờ này nó đã nằm dưới đáy đại dương rồi.

Mình có nên nhóm một ngọn lửa cầu cứu không? Khi bị lạc mọi người đều làm thế đúng không? Nhóm lửa lớn lên để mọi người có thể phát hiện ra nơi mình đang bị lạc?

Tôi không hề biết cách làm sao để nhóm lửa. Kỹ năng sinh tồn của tôi chỉ dừng ở những kiến thức học được trên tivi và trong sách. Cả tôi và T.J đều không đeo kính, không thì chúng tôi đã có thể dùng kính hội tụ ánh nắng mặt trời để tạo lửa rồi. Chúng tôi cũng chẳng hề có lấy một viên đá lửa hay miếng thép nào. Chỉ còn hi vọng vào lực ma sát mà thôi, liệu cứ cọ hai que củi vào nhau thì có lên lửa không? Có lẽ chúng tôi cũng chưa cần phải lo nhóm lửa. Họ chắc chắn sẽ nhìn thấy chúng tôi nếu như bay thấp và nếu chúng tôi ở ngay sát bãi biển.

Chúng tôi cố viết chữ SOS. Đầu tiên là dùng chân di trên cát, nhưng nông như thế thì tôi sợ rằng từ trên máy bay sẽ không thấy nổi. Đoạn chúng tôi đi ngắt lá để xếp, nhưng gió biển thổi tung chúng đi trước khi chữ SOS kịp hiện ra. Cũng chẳng có hòn đá nào đủ to để giữ lá khỏi bay cả, chỉ toàn những hòn sỏi và những mảnh san hô nhỏ. Đi đi lại lại khiến chúng tôi càng nóng hơn, vết thương trên đầu tôi càng đau đớn dữ dội. Chúng tôi đành bỏ cuộc và ngồi bệt xuống cát.

Mặt tôi cháy nắng bỏng rát, còn tay và chân của T.J cũng trở nên đỏ ửng. Chỉ một lát sau chúng tôi đành phải rời khỏi bờ biển để nghỉ ngơi dưới bóng râm của cây dừa. Những quả dừa rơi đầy trên mặt đất, chúng tôi biết chắc bên trong chứa ăm ắp nước. Chúng tôi thi nhau đập dừa vào thân cây nhưng không tài nào làm nứt được quả dừa.

Mồ hôi túa đầy trên mặt khiến tôi phải túm hết tóc lại búi ngược. Lưỡi sưng phồng và miệng khô khốc khiến tôi không tài nào nuốt được.

“Em sẽ đi xung quanh xem sao”, T.J bảo. “Chắc sẽ có nước ở quanh đây”. Thằng bé đi một lát là quay lại ngay chỗ gốc dừa, tay cầm theo một thứ gì đó.

“Em không tìm thấy nước nhưng tìm thấy thứ này”. Nó to bằng quả bưởi, vỏ có rất nhiều gai lởm chởm màu xanh.

“Cái gì thế?”, tôi hỏi.

“Em chịu, nhưng chắc là sẽ có nước ở bên trong, giống như quả dừa ý”.

T.J dùng móng tay bóc vỏ. Bất kể là loại quả gì thì lũ sâu bọ cũng đã mở tiệc trước chúng tôi.

Thằng bé vứt ngay xuống đất và đá nó ra thật xa. “Em tìm thấy quả này dưới một cái cây”, T.J nói. “Có rất nhiều quả ở trên cây nhưng cao quá em không hái được. Nếu đứng lên vai em, chắc chị sẽ chọc được một quả. Chị có đi được không?”

Tôi gật đầu, “Nếu đi chậm thì được”.

Khi đến nơi, T.J nắm tay tôi và giúp tôi trèo lên vai nó. Tôi cao một mét bảy, nặng hơn năm mươi tư cân. T.J cao hơn tôi ít nhất mười xen ti mét và nặng hơn tôi gần mười bốn cân, nhưng thằng bé cũng chao đảo khi phải cố gắng giữ cho tôi đứng thẳng. Tôi cố với lên càng cao càng tốt, vươn tay về phía chùm quả. Tôi không tài nào nắm được chúng nên đành dùng tay đấm thật mạnh. Hai lần đầu chẳng ăn thua, nhưng tôi cố đấm mạnh hơn khiến một quả rơi xuống. T.J hạ tôi xuống, tôi nhặt ngay thứ quả đó lên.

“Em vẫn không biết đây là quả gì”, thằng bé nói, sau khi tôi đưa cho nó.

“Có khi là quả bánh mì cũng nên”.

“Quả gì cơ?”

“Đấy là một loại quả có vị như bánh mì”.

T.J bóc vỏ, và mùi thơm tỏa ra khiến tôi nghĩ đến quả ổi. Chúng tôi chia đôi, thi nhau hút hết nước bên trong quả để làm dịu cơn khát. Chúng tôi nhai và nuốt phần thịt quả. Cảm giác dai dai của nhựa quả làm tôi nghĩ nó chưa chín hết, nhưng cả hai vẫn ăn ngon lành.

“Em chẳng thấy vị bánh mì gì cả”, T.J nói.

“Nếu như chúng ta nướng lên thì có thể sẽ giống hơn”.

Sau khi ăn xong, tôi lại leo lên vai T.J, hái thêm hai quả nữa để ăn luôn. Sau đó chúng tôi lững thững đi về phía cây dừa, ngồi xuống dưới gốc cây và tiếp tục chờ đợi.

Đến chiều muộn, bầu trời bất chợt đổ mưa tầm tã mà không có một dấu hiệu báo trước. Chúng tôi chui ra khỏi bóng cây dừa, ngửa mặt lên trời, há to miệng, nhưng cơn mưa chỉ kéo dài tầm mười phút.

“Bây giờ đang là mùa mưa”, tôi nói. “Có lẽ trời sẽ mưa hàng ngày, vài lần một ngày cũng nên”. Chúng tôi chẳng có vật dụng gì để trữ nước mưa cả, nên những giọt mưa rơi được vào miệng tôi chỉ càng làm tôi khát thêm.

“Những người tìm kiếm đâu rồi?”, T.J hỏi khi mặt trời bắt đầu lặn. Giọng thằng bé chứa đầy thất vọng, cũng chẳng khác gì tâm trạng của tôi.

“Chị không biết”. Tôi không thể hiểu nổi tại sao máy bay tìm kiếm vẫn chưa đến. “Chắc ngày mai họ sẽ tìm thấy chúng ta thôi”.

Chúng tôi lại hết ra bãi biển, nằm sõng xoài trên bờ cát, đầu gối lên hai chiếc áo phao. Không khí dịu mát cùng làn gió biển khiến tôi run rẩy. Vòng hai tay ôm lấy người và cuộn tròn như trái bóng, tôi lắng nghe tiếng sóng du dương vỗ vào rặng san hô.

Chúng tôi nghe thấy tiếng động mà chưa kịp định thần xem đó là tiếng gì. Tiếng vỗ cánh tràn ngập không gian, ngay sau đó là bóng của hàng trăm, thậm chí hàng ngàn con dơi. Chúng che khuất cả ánh trăng khiến tôi rùng mình nghĩ đến việc chúng treo lơ lửng đâu đó ngay trên đầu chúng tôi khi chúng tôi đi hái quả bánh mì.

T.J ngồi bật dậy, “Em chưa bao giờ nhìn thấy nhiều dơi đến thế”.

Chúng tôi sững người nhìn lũ dơi một lúc trước khi chúng bay đi săn mồi. Vài phút sau, T.J lại ngủ. Tôi nhìn đăm đăm lên bầu trời, biết rằng sẽ chẳng ai đi tìm chúng tôi giữa đêm như thế này đâu. Chắc phải đến sáng mai mọi người mới tiếp tục tìm kiếm. Tôi hình dung ra bố mẹ của T.J đang quẫn trí đợi trời sáng. Cứ nghĩ đến việc gia đình tôi phải nhận tin dữ là tôi lại chảy nước mắt.

Tôi nghĩ đến chị gái Sarah và câu chuyện mà chúng tôi mới nói với nhau vài tháng trước. Chúng tôi đã cùng ăn tối ở nhà hàng Mexico, và khi người bồi bàn mang đồ uống ra, tôi đã uống một ngụm magarita(*) rồi nói, “Em đã nhận công việc gia sư mùa hè mà hôm trước em kể với chị. Em sẽ dạy thằng bé bị ung thư đó”. Tôi đặt ly đồ uống xuống, xúc một ít sốt salsa(*) vào miếng bánh giòn tortilla(*) rồi bỏ tọt vào mồm.

“Cái vụ dạy học mà em sẽ được đi du lịch với gia đình người ta ấy hả?”, chị ấy hỏi.

“Vâng”.

“Em đi cũng lâu đấy nhỉ. Thế John bảo sao?”

“John và em lại nói về chuyện kết hôn. Nhưng lần này em nói với anh ấy là em muốn có con”. Tôi nhún vai. “Rồi tự nhiên em nghĩ, sao không chia tay quách cho rồi”.

“Ôi, Anna à”, Sarah kêu lên.

Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không nghĩ nhiều về việc có con. Tôi rất thích thú với việc làm dì của hai đứa trẻ nhà Sarah - Chloe hai tuổi và Joe năm tuổi. Rồi tất cả mọi người tôi biết bắt đầu khích tướng tôi, khiến tôi đột nhiên nhận ra tôi muốn có đứa con của riêng mình. Cơn sốt thèm con cộng với việc đồng hồ sinh học đang tích tắc không ngừng khiến tôi thấy kinh ngạc với bản thân. Tôi cứ nghĩ việc muốn sinh con sẽ đến thật từ từ chậm rãi, nhưng không, đột nhiên một ngày cảm giác này xâm chiếm toàn bộ tâm trí tôi.

“Em không thể cứ sống thế này được, Sarah ạ”, tôi nói tiếp, “Làm sao John có thể chăm con được nếu như anh ấy còn không muốn kết hôn?” Tôi lắc đầu. “Sao với những người phụ nữ khác thì dễ dàng đến thế. Họ gặp một ai đó, yêu người đó, rồi kết hôn. Trong khoảng một đến hai năm sau là họ bắt đầu một gia đình rồi. Đơn giản đúng không? Khi em và John cùng bàn bạc về tương lai, câu chuyện của bọn em lãng mạn cứ như thể giao dịch bất động sản, với những màn cãi vã nhiều không kém”. Tôi với lấy giấy ăn chấm mắt.

“Chị rất tiếc, Anna. Thẳng thắn mà nói chị cũng không hiểu tại sao các em lại dùng dằng lâu như vậy. Bảy năm là thừa để John biết chính xác nó muốn gì chứ”.

“Tám rồi, Sarah a. Đã tám năm”. Tôi lại nhấc ly cốc tai lên, uống cạn trong hai ngụm.

“Ồ, vậy là chị đã nhớ thiếu một năm”. Người bồi bàn đến hỏi liệu chúng tôi có muốn uống thêm một ly nữa không.

“Cứ thấy cạn thì anh rót thêm vào cho tôi”. Sarah đáp. “Thế cuộc nói chuyện kết thúc thế nào?”

“Em nói với John rằng em cần đi đâu đó trong mùa hè này, và em sẽ dùng thời gian ở một mình để suy nghĩ kỹ xem thực sự thì em muốn gì”.

“Thế nó bảo sao?”

“Vẫn như mọi khi thôi. John nói anh ấy yêu em, nhưng anh ấy vẫn chưa sẵn sàng. Anh ấy lúc nào cũng thẳng thắn với em nhưng em nghĩ đó là lần đầu tiên John nhận ra quyền quyết định không chỉ ở phía anh ấy”.

“Em đã nói với mẹ về việc này chưa?”, Sarah hỏi.

“Em nói rồi. Mẹ bảo em hãy tự hỏi bản thân xem cuộc sống của em sẽ tốt đẹp hơn nếu có anh ấy hay là không có anh ấy”.

Sarah và tôi thật may mắn vì mẹ chúng tôi luôn biết cách đưa ra những lời khuyên vừa đơn giản lại vừa thiết thực. Bà lúc nào cũng ở phía trung lập - không bao giờ phán xét. Thật là một điều bất thường so với đa phần các bậc cha mẹ của bạn bè tôi.