← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6 T.J

Ngày thứ tư

Khi mặt trời lên cao, tôi gần như không thể nhấc đầu lên khỏi bãi cát. Hai cái đệm ghế trên máy bay đã bị sóng đánh dạt vào bờ, một thứ gì đó màu xanh khiến tôi chú ý. Tôi lăn về phía Anna, lay hết sức để đánh thức chị ấy dậy. Chị ấy nhìn tôi với đôi mắt trũng sâu, đôi môi chị ấy nứt nẻ và chảy máu.

“Cái gì kìa?”, tôi chỉ tay về phía thứ màu xanh đang trôi nổi nhưng ngay cả việc cố giơ tay lên cũng là quá sức đối với tôi, nên cánh tay lại rơi xuống bãi cát.

“Đâu cơ?”

“Kia kìa. Ngay cạnh mấy cái đệm ghế”.

“Chị không biết”, chị ấy đáp.

Tôi nhấc cao đầu dậy, nheo mắt dưới ánh nắng chói chang. Nhìn quen quen và đột nhiên tôi nhận ra nó là thứ gì. “Đấy là ba lô của em. Chị Anna, đấy là cái ba lô của em”.

Tôi loạng choạng đứng dậy, cố sức đi ra mép biển, kéo cái ba lô vào. Khi quay lại, tôi quỳ cạnh chị Anna, mở khóa ba lô, và lôi ra chai nước mà chị ấy đã đưa cho tôi ở sân bay Malé.

Chị ấy ngồi dậy. “Ôi Chúa ơi”.

Tôi mở nắp, chúng tôi chia nhau uống chai nước, cố gắng không uống quá nhanh. Có khoảng gần một lít, cả hai đã uống cạn mà tôi không đã khát chút nào.

Chị Anna cầm chai nước rỗng: “Nếu mình lấy một cái lá làm phễu thì sẽ hứng được nước mưa vào trong chai”.

Chúng tôi bước những bước run rẩy, yếu ớt về phía cây bánh mì và hái một cái lá to từ những cành thấp. Chị Anna xé cho vừa, cuộn tròn lại nhét trong miệng chai. Có bốn quả bánh mì mới rụng trên nền đất nên chúng tôi đem cả ra bờ biển rồi chén sạch.

Tôi lôi hết đồ ra khỏi ba lô. Cái mũ lưỡi trai Chicago Cubs đã ướt sũng nhưng tôi mặc kệ, vẫn đội lên đầu. Có một cái áo nỉ có mũ màu ghi, hai cái áo phông, hai cái quần soóc, quần bò, quần lót và tất, một chiếc bàn chải và một tuýp kem đánh răng, và máy nghe nhạc của tôi. Tôi vớngay lấy bàn chải và kem đánh răng. Miệng tôi đang có vị gớm không thể nào tả nổi. Tôi mở nắp tuýp kem đánh răng, bóp một ít ra bàn chải của tôi và đưa cho chị Anna. “Chị có thể dùng chung bàn chải với em nếu không ngại”.

Chị ấy cười: “Chị không ngại đâu, T.J ạ. Nhưng em đánh trước đi, nó là của em mà”.

Tôi đánh răng ngay lập tức, rồi xả sạch bàn chải dưới biển và đưa lại cho chị Anna. Khi đã xong xuôi, chị ấy rửa lại, đem trả tôi. “Cảm ơn em nhé”.

Chúng tôi cùng ngồi đợi trời mưa, và khi mưa xuống vào lúc chiều sớm, chúng tôi đã hứng được đầy bình nước. Tôi đưa cho chị Anna trước, chị ấy uống hết nửa chai, đoạn đưa lại cho tôi. Sau khi tu một hơi hết sạch chai nước, chúng tôi đặt cái phễu lá lên, và chai nước lại đầy lần nữa. Chị Anna và tôi uống cạn chai lần thứ hai. Chúng tôi vẫn còn cần rất nhiều nước, hơn thế này nhiều, nhưng tôi bắt đầu nghĩ có lẽ mình sẽ không chết.

Chúng tôi biết cách hứng nước, chúng tôi có quả bánh mì, và chúng tôi biết cách nhóm lửa. Giờ thì chỉ cần tìm chỗ trú mưa để giữ cho lửa khỏi tàn thôi.

Chị Anna muốn dựng lều trên bãi biển vì lũ chuột làm chị ấy khiếp vía. Chúng tôi bẻ hai cành cây chữ Y rồi chôn gốc xuống cát, đặt cành cây dài nhất tìm được lên giữa hai cành chữ Y. Sau đó chúng tôi cắm rất nhiều cành để làm điểm tựa hai bên cho hai cành lớn. Lá cây bánh mì được trải làm nền, chỉ chừa một vòng tròn nhỏ để chúng tôi đốt lửa. Chị Anna nhặt những viên sỏi nhỏ xếp vòng xung quanh chỗ đốt lửa. Như thế sẽ làm trong lều đầy khói, nhưng ít nhất chúng tôi cũng không sợ bị lũ muỗi làm thịt.

Chúng tôi quyết định đợi đến sáng mới nhóm lửa. Bây giờ chúng tôi đã có lều nên có thể nhặt củi đặt trong lều, chờ đến khi khô.

Trời lại mưa, lần thứ ba chai nước được đầy; chưa bao giờ tôi uống thứ gì ngon tuyệt cú mèo đến thế.

Khi mặt trời lặn, chúng tôi lôi hai tấm đệm ghế, áo pháo và ba lô của tôi vào trong lều.

“Chúc em ngủ ngon, T.J”. Chị Anna nói, nằm gối đầu lên một tấm đệm ghế, ngọn lửa bập bùng ở giữa chúng tôi.

“Ngủ ngon, chị Anna”.