← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 49 Anna

Cô thợ làm tóc của tôi, Joanne, bước vào phòng khách nhà chị Sarah.

“Có đầy phóng viên ở dưới tầng”, cô ấy nói. “Tôi nghĩ là họ chụp ảnh tôi nữa đấy”. Joanne cởi bỏ áo khoác và ôm tôi. “Chào mừng về nhà, Anna. Những câu chuyện như của cô khiến tôi tin vào phép màu đấy”.

“Tôi cũng thế, Joanne”.

“Cô muốn cắt tóc cho Anna ở đâu?”, chị Sarah hỏi.

Tôi vừa mới tắm và tóc vẫn còn đang ướt, nên Joanne bảo tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu trong bếp.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”, cô ấy hỏi khi chăm chú xem xét đuôi tóc của tôi.

“T.J đã đốt nó khi tóc tôi dài quá”.

“Cô đang nói đùa nhỉ?”

“Không hề. Lúc đó anh ấy cứ lo là sẽ đốt cháy cả đầu tôi”.

“Cô muốn tôi cắt ngắn chừng nào?”

Tóc tôi đang dài đến giữa lưng. “Tầm chục phân. Và tôi muốn để mái dài được không?”

“Được chứ”.

Trong lúc cắt tóc, Joanne liên tục hỏi tôi về hòn đảo. Tôi kể cho cô ấy và chị Sarah nghe việc con dơi đã mắc kẹt trong tóc mình.

“Nó cắn em à?”, chị Sarah hoảng sợ. “Và T.J đã đâm chết nó?”

“Vâng. Cuối cùng thì mọi thứ cũng ổn. May mà nó không bị dại”.

Joanne sấy khô tóc tôi rồi dùng máy là làm thẳng tóc. Cô ấy đưa một chiếc gương cầm tay cho tôi soi. Tóc tôi nhìn đã khỏe khoắn hơn rất nhiều với phần đuôi tóc được cắt bằng.

“Ồ, khá hơn hẳn”.

Chị Sarah cố gửi tiền nhưng Joanne không chịu nhận. Tôi đành cảm ơn cô ấy vì đã đến tận nhà để cắt cho tôi.

“Ít nhất đó là điều tôi có thể làm cho cô, Anna ạ”. Cô ấy ôm hôn tôi. Sau khi Joanne rời đi, tôi nói với chị Sarah. “Nếu mình có thể ra khỏi nhà mà không bị phát hiện thì tốt quá, em muốn đến mấy chỗ”.

“Được thôi”, chị Sarah nói. “Chị sẽ gọi một chiếc taxi”.

Đám phóng viên gào thét tên tôi khi thấy chúng tôi bước khỏi cửa. Bọn họ đứng đợi ở bậc thềm nên chúng tôi cố gắng lao qua đám đông, nhanh chóng chui vào cửa xe taxi đang đợi sẵn.

“Em ước gì nhà chị có cửa sau”.

“Nếu thế thì họ cũng sẽ bao vây cả cửa sau thôi. Lũ kền kền săn tin chết tiệt”, chị Sarah chửi thề.

Chị Sarah đưa địa chỉ cho tài xế và chúng tôi đi về hướng nghĩa trang Graceland.

“Anh đợi chúng tôi một chút nhé”, chị Sarah bảo.

Một vài bông tuyết trắng tô điểm cho nền trời xám xịt. Tôi run rẩy, nhưng chị Sarah có vẻ đã quá quen với cái lạnh, nên thậm chí còn chẳng buồn cài khuy áo khoác. Chị ấy dẫn tôi đến mộ của bố mẹ tôi, Josephine và George Emerson, được đặt nằm cạnh nhau.

Tôi quỳ xuống trước phiến đá, tay lần theo từng nét khắc tên bố mẹ. “Con đã trở về rồi này”, tôi thì thầm. Chị Sarah đưa cho tôi một tờ giấy ăn để tôi lau nước mắt.

Tôi nhớ lại hình ảnh bố tôi, với cái mũ nực cười mà lúc nào ông cũng đội đi câu, mải mê dạy tôi cách làm sạch cá. Tôi còn nhớ như in bố vẫn thường đổ đầy máng nước dành cho chim ruồi, say sưa ngắm nhìn những con chim bé nhỏ ấy túm tụm giữa không trung để uống nước. Tôi nghĩ đến mẹ và tình yêu mà mẹ dành cho khu vườn bé nhỏ, dành cho căn nhà và dành cho những đứa cháu của bà. Những buổi tâm sự về lớp học của mình với bà vào mỗi bữa sáng muộn ngày Chủ nhật sẽ không còn nữa. Mẹ sẽ chẳng bao giờ có thể đưa ra lời khuyên giúp tôi được, và tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nghe thấy giọng bố mẹ. Tôi khóc tức tưởi, để mặc nỗi đau vỡ òa. Chị Sarah kiên nhẫn đứng đợi, dành cho tôi khoảng thời gian cần thiết. Khi nước mắt ngừng rơi, tôi đứng lên.

“Mình có thể đi rồi”.

Chị Sarah choàng tay qua người tôi, chúng tôi cùng đi về phía chiếc taxi. Chị ấy đưa cho tài xế một địa chỉ khác, và chúng tôi cùng đến nhà bố mẹ anh David để đón bọn trẻ.

Joe và Chloe ngừng chơi khi thấy chúng tôi bước vào phòng. Có lẽ đối với bọn trẻ tôi như một hồn ma. Chị Sarah vẫn thường xuyên nhắc lại những kỷ niệm giữa tôi và chúng, nhưng người dì mà chúng nghĩ đã chết lại đang đứng sờ sờ nơi phòng khách. Tôi quỳ xuống cạnh chúng, nhẹ nhàng nói: “Dì nhớ hai cháu lắm!”.

Joe bước đến trước. Tôi ôm thằng bé thật chặt. “Để dì xem cháu nào”, tôi nói, và kéo thằng bé ra trước mặt.

“Cháu đang thay răng dì ạ”, nó khoe và há miệng cho tôi xem những khoảng lợi trống.

“Chắc cháu làm cho cô tiên răng bận rộn lắm đây”.

Chloe nhẹ nhàng lại gần tôi, thì thầm: “Cháu cũng rụng mấy cái rồi dì ạ”. Nói rồi con bé há to miệng để tôi xem.

“Chúa ơi, chắc mẹ các cháu phải xay nhỏ thức ăn ra cho các cháu phải không? Cả hai đứa đều móm thế này cơ”.

“Dì Anna ơi, dì sẽ ở cùng nhà với bọn cháu ạ?”, Chloe hỏi.

“Dì sẽ ở cùng hai cháu một thời gian”.

“Tối nay dì sẽ cho cháu đi ngủ chứ ạ?”, con bé hỏi.

“Không, anh muốn dì cho anh đi ngủ tối nay cơ”, Joe cãi.

“Thế dì sẽ cho cả hai đứa đi ngủ nhé?”, tôi ôm chặt chúng vào lòng, nước mắt chực trào ra.

“Hai đứa sẵn sàng về nhà chưa nào?”, chị Sarah hỏi.

“Rồi ạ”.

“Thế thì lại thơm bà và đi thôi”.

Đêm hôm đó, sau khi tôi đã cho cả hai đứa đi ngủ, chị Sarah rót hai ly rượu vang đỏ. Điện thoại chị ấy đổ chuông và chị ấy đưa cho tôi.

“Chào em. Em sao rồi?”, T.J hỏi.

“Em ổn. Hôm nay chị Sarah và em đã đi thăm nghĩa trang”.

“Chắc em buồn lắm?”

“Vâng, nhưng em vẫn muốn đi. Bây giờ thì em ổn hơn một chút rồi. Em sẽ còn quay lại để thăm bố mẹ. Hôm nay anh đã làm gì?”

“Anh đã cắt tóc. Có khi em không nhận ra anh đâu”.

“Em sẽ nhớ cái đuôi ngựa của anh đấy”.

T.J cười phá lên. “Anh thì không”.

“Em vừa cho bọn trẻ đi ngủ. Mất đến hai tiếng vì em phải đọc cho chúng nghe tất cả những truyện mà chúng nó có. Chị Sarah mới rót chút vang đỏ cho em còn Stefani đang trên đường ghé qua. Thế anh thì sao? Anh có kế hoạch gì không?”

“Anh định ra ngoài với Ben nếu như bọn anh trốn được đám phóng viên”.

“Ben thế nào?”

“Vẫn nói luyên thuyên suốt”.

“Anh đã đi gặp bác sĩ chưa?”

“Ngày mai anh đi”.

“Em hi vọng anh ổn”.

“Chắc chắn là anh sẽ ổn mà. Thế em đã đi chưa?”

“Mai em cũng đi. Sau đó đến chiều là gặp nha sĩ”.

“Anh cũng thế. Em nhớ lúc anh tự tháo niềng răng không?”

“Em quên mất rồi”.

“Anh sẽ gặp em vào giao thừa nhé. Anna, anh yêu em”.

“Em cũng yêu anh. Chúc buổi tối vui vẻ”.