← Quay lại trang sách

- 3 -

5.

Cuối năm Nhâm Dần, bấy giờ Ông đang công tác tại Kỳ Dương; lúc mọi người đang sửa soạn ngày tết, nhớ nhà, Ông làm ba bài thơ gửi Tử Do: Quĩ tuế, Biệt tuế và Thủ tuế. Đây trích một bài. Phong tuc ở đất Tây Thục, quê của ông, cuối năm người ta tặng đồ ăn cho nhau gọi là “quĩ tuế”; mang rượu và thức ăn tặng nhau thì gọi là “biệt tuế”; kể từ đêm trừ tịch cho đến rạng ngày nguyên đán mà không ngủ, gọi là “thủ tuế”, thức đêm để canh chừng một năm cũ rắp qua và một năm mới sắp đến.

Thủ pháp già dặn và lời thơ điềm đạm, tạo cho thành một khí vị rất cổ kính. Cái đó không những phản ảnh một nỗi nhớ, hoài vọng quê hương, mà còn phản ảnh cái ray rứt kỳ lạ của ngày tháng trôi đi biền biệt. Cảnh đưa đón cuối năm, coi cũng có vẻ tấp nập, nhưng không che dấu nổi cái lạnh nhạt: nhà quan thì vắng bóng những người bạn cũ, mà làng xóm thì nhộn nhịp chờ đón những ngày mới sẽ đến. Tình dù có, cũng bằng không. mấy câu thơ cuối trong bài “Quĩ tuế”

Quan cư cố nhân thiểu

Lý hạng giai tiết quá

Diệc dục cử hương phong

Độc xướng vô nhân họa

Nhà quan người thưa bóng

Thôn ấp rộn ngày vui

Quê cũ tình dẫu đượm

Tình riêng nói với ai

Năm cũ sắp qua đi qua, như một con rắn đang chui vào lỗ, làm sao bắt nó lại? Nắm lấy đuôi, cũng bằng vô dụng. ngày tháng trôi đi như con rắn trườn đi; cái hoài vọng ở đó quả khắc nghiệt và độc hại.

BIỆT TUẾ

Cố nhân thích thiên lý

Lâm biệt phượng trì trì

Nhân hành do khả phục

Tuế hành na khả truy

Văn tuế an sở chi

Viễn tại thiên nhất nha

Dĩ trục đông lưu thủy

Phó hải qui vô thì

Đông lân tửu sơ thục

Tây xá trệ diệc phì

Thả vị nhất nhật hoan

Ủy thử cùng niên bi

Vật sai cựu tuế biệt

Hành dữ tân niên từ

Khứ khứ vật hồi cố

Hoàn quân lão dữ suy

别岁

故人适千里,

临别尚迟迟。

人行犹可复,

岁行那可追。

问岁安所之,

远在天一涯。

已逐东流水,

赴海归无时。

东邻酒初熟,

西舍彘亦肥。

且为一日欢,

慰此穷年悲。

勿嗟旧岁别,

行与新岁辞。

去去勿回顾,

还君老与衰。

Cố nhân lên đường đi xa

Lúc chia tay vẫn còn bịn rịn

Người đi còn mong có ngày trở lại;

Năm tháng ra đi, làm sao đuổi theo kịp?

Hỏi thử, “năm” đi đâu?

Đi xa đến một ven trời nào?

Hay đã theo dòng nước chảy xuôi về đông,

Đổ vào biển và không bao giờ trở lại?

Xóm đông, rượu vừa chín;

Nhà mé tây, lợn nái cũng vừa mập thêm ra

Hãy cứ vui cho hết trọn một ngày

Để bù lại trọn một năm đầy sầu héo.

Đừng quên giã từ một năm cũ,

Và hãy để cho năm cũ giã từ năm mới.

Bảo nó hãy đi đi,

Đừng có quay đầu lại.

Gởi trả lại nó tuổi già và sức yếu kém.

6.

LÂU QUÁN[11]

Điểu thảo viên hô trú bế môn

Tịch liêu thùy thức Cổ hoàng tôn[12]

Thanh ngưu[13] cửu dĩ từ viên ách

Bạch hạc lai thời phỏng tử tôn

Sơn cận sóc phong xuy tích tuyết

Thiên hàn lạc nhật đạm cô thôn

Đạo nhân ưng quái du nhân chúng

Cấp tận giai tiền tỉnh thủy hồn

摟 觀

鳥 噪 猿 呼 晝 閉 門 ,

寂 寥 誰 識 古 皇 尊 。

青 牛 久 已 辭 轅 軛 ,

白 鶴 時 來 訪 子 孫 。

山 近 朔 風 吹 積 雪 ,

天 寒 落 日 淡 孤 村 。

道 人 應 怪 遊 人 眾 ,

汲 盡 階 前 井 水 渾 。

Ông tự dẫn: “Từ Thanh Bình trấn, chơi tại các nơi: Lâu quán, Ngũ quận, Đại tần, Diên sinh, Tiên du. Vừa đi vừa về hết 4 ngày, làm được 11 bài thơ gửi xá đệ Tử Do”

Khí vị của thơ là hoài cổ, phảng phất âm hưởng thời Đường; đặc biệt là nơi hai câu 5-6.

Chim gào vượn hú; ban ngày vẫn đóng cửa.

Đìu hiu vắng vẻ, ai biết ngài Cổ hoàng tôn đi đâu?

Con trâu xanh của ngài, từ lâu đã cởi bỏ cái ách, cái gọng;

Và bây giờ, con hạc trắng bay đến hỏi thăm con cháu.

Núi gần đó, gió bấc thổi tung những đống tuyết.

Trời lạnh, mặt trời ngã bóng nhạt trên xóm vắng.

Có lẽ đạo nhân lấy làm lạ, sao du khách đông thế!

Họ uống sạch hết cả một giếng nước phía trước sân.

7.

THỌ KINH ĐÀI[14]

Kiếm vũ hữu thần thông thảo thánh[15]

Hải sơn vô sự tác cầm công

Thử đài nhất lãm Tần xuyên[16] tiểu

Bất đãi truyền kinh ý dĩ không

授 經臺

剑舞有神通草聖,

海山無事化琴工

此台一览秦川小

不待傳 經 意已空

Những ngọn cỏ với dáng dấp cao kỳ như Thánh, khi đong đưa, trông như những ngọn thần kiếm đang vũ lộng.

Núi và sông, nhàn rỗi vô sự, tự nhiên trở thành những tay thợ đàn.

Chỉ một lần nhìn thấy đài này rồi, cả một dãy Tần xuyên thành ra nhỏ bé.

Không phải đợi nghe được lời kinh, mà ý đã là không.

8.

THIỀN THƯỢNG TIỂU THI

Oa minh thanh thảo bạc

Thiền tháo thùy dương phố

Ngô hành diệc ngẫu nhiên

Cập thử tân quá vũ

船 上小 詩

蛙 鳴 青 草 泊 ,

蟬 噪 垂 楊 浦 。

吾 行 亦 偶 然 ,

及 此 新 過 雨 。

Ếch kêu bên thanh thảo

Ve khóc bãi thùy dương

Ta đi cùng ngẫu nhĩ

Đến đó mưa qua đường.

[1] TẤN HUỆ Tấn Huệ đế, làm vua từ 290 -300, bị đầu độc mà chết. Sửa miếu lão Tử, là cốt ý muốn tìm học phép trường sinh. Rồi trường sinh và bất đắc kỳ tử: nghìn năm vẫn một nỗi đời

[2] TẦN HOÀNG Tần Thủy Hoàng, mộ phép trường sinh của Đạo gia. Nghe đồi ngoài khơi Đông hải có đảo Bồnt Lai của tiên, có thuốc trường sinh; cho đóng thuyền và sai bọn An Kỳ Sinh đi kiếm. Nhưng họ đi không về. Và cơ nghiệp đế vương của Tần Thủy hoàng cũng không lâu.

[3] ĐAN SA, BẠCH TRUẬT, các loại dược thảo làm thuốc luyện thuật trường sinh của đạo sĩ.

[4] CANH TANG. Canh Tang Sở, được nói đến trong thiên “Canh Tang Sở”. Nam hoa kinh của Trang Tử; ông là đệ tử đắc đạo của Lão Tử

[5] KỲ DƯƠNG, tên huyện ở phía đông huyện Phượng Tường. Ngày 20 tháng 9 năm Nhâm Dần, trời đổ tuyết nhẹ. Ông nhớ Tử Do, làm thơ

[6] ỐC LÔ THÂM, nhà tranh hun hút. Kỷ Hiểu Lam phê: ba chữ đó (tuyền thần). Ở đây bóng dáng Ông ẩn hiện trong cái không khí u trầm, phảng phất tâm trạng mùa thu tóc trắng. trời lạnh, tiếng chày nghe như rộn rã, gấp rút, xua đuổi cái lạnh đi xa.

[7] ĐIÊU CỪU, Áo lạnh làm bằng lông con điêu. Tử điểu Thiều Chữu: Điêu là một loài chuột to như con rái cá, đuôi to lông rậm dài hơn một tấc, sắc vàng và đen, sinh ở xứ rét, da nó làm áo mặc rất ấm, nên rất quí báu.

[8] GIANG THƯỢNG ĐỒNG CHÂU… Nhắc lại những ngày hai anh em cùng dong thuyền du lãm và làm thơ.

[9] TRỊNH TÂY PHÂN MÃ: Năm trước, hai anh em rẽ ngựa chia tay ngoài cửa tây thành Trịnh Châu.

[10] ĐÔNG SONG ĐỘC DỊCH: ngồi đọc kinh Dịch ở cánh cửa sổ dưới mái đông. Chỗ đó tỏ ý chờ đợi, và đọc Dịch tỏ chí lớn. Ở đây chỉ việc đang hoài bão chí lớn (Quản Ninh và Hoa Hâm cùng ngồi đọc sách. Xe ngựa đi ngang trước cửa, Hoa Hâm bỏ sách chạy ra xem. Từ đó Quản Ninh xẻ chiếu, dứt tình bạn vĩnh viễn)

[11] Lâu quán, xem chú dẫn ở trên

[12] Cổ hoàng tôn, chỉ Lão Tử (của Đạo gia). Ba chữ này làm cho cả bài thơ có tiết điệu và phong vận tiêu sái riêng của Ông.

[13] Thanh ngưu, con trâu xanh. Tương truyền Lão Tử cưỡi con trâu xanh ra quan ngoại, sau khi viết để lại bộ “Đạo đức kinh” rồi đi mất.

[14] THỌ KINH ĐÀI, đài trao kinh. Ông tự chú: “Đó là một ngọn núi trong dãy Nam sơn chứ không phải là một cái đài được dựng lên”

[15] Thảo thánh, Thánh cỏ hay cỏ thánh; mô tả những ngọn cỏ đong đưa theo gió một cách tuyệt diệu. Nhưng cũng chính từ cái Thảo thánh này làm cho bài thơ trầm trọng ra.

[16] Tần xuyên, một dãy đất Thiểm tây.