Trời thu cao cây lá ngủ mơ hồ (1072-1079) -
LỜI DẪN
Trời mùa Thu, là trời cho nỗi sầu Riêng Biệt của Thơ. Trời Thu thuờng quạnh ráo, nen cao vọi không cùng. Càng cao, càng trong, càng tĩnh lặng trong điệu buồn thiên cổ. Cũng ở chỗ đó mà trời Thu đẹp với cốt các diễm lệ kiêu kỳ. Diễm lệ kiêu kỳ như Nàng Tây Tử.
Tuy nhiên, trời Thu cũng thường có mưa gió, cũng có mùa nước lũ. Vậy thì, buồn tĩnh lặng của vòm trời nhưng cũng là nỗi buồn xôn xao của mặt đất. Tây Hồ và Tây Tử, hoặc xôn xao với mưa gió và xiêm y; hay tư lự khi quạnh ráo hay lột hết trang phục, nét thanh tân tú lệ vẫn là cốt cách tài hoa:
Dục bả Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm trang nùng diễm tổng tương nghi
Trong ngọn gió thu, bàng bạc có những cuộc giao tình. Tình của Thiên nhiên bủa rộng bao la và tình của những tao nhân tri ngộ. Ở đây Lịch sử hoá thân nơi mùa thu và tóc trắng. Cuộc lịch nghiệm nghe ra những thống thiết nguyên sơ.
I.
Mắt người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm
(HOÀI KHANH)
Năm Hi ninh thứ 5, nhâm tý (1072), Ông 37 tuổi, bấy giờ ra giữ chức thông phán tại Hàng châu. Trước đó, năm ất tỵ (1065), Ông được triệu về kinh sư, làm việc tại sử quán. Cho đến năm 36 tuổi, tân hợi (1071), lúc đang giữ chức Giám quan cáo viện; nhân việc Vương An Thạch muốn sửa đổi thể lệ thi cử, Thần tông đưa ra cho Lưỡng chế và Tam quán nghị sự. ông dâng lên Thần tông ba điểm, khiến đảng Vương An Thạch bất mãn, nên tìm cớ vu tấu những lỗi lầm của Ông. Ông không một lời biện hộ, xin đi ngoại nhiệm để tránh. Do đó được cử đi làm thông phán tại Hàng châu. Lúc mới đến được hàng châu, Ông làm hai bài thơ tuyệt cú gửi Tử Do, lời co 1 đôi chút than trách pha lẫn vẻ tràolộng. Đại để như 2 câu:
Thánh triều khoan đại hứa toàn thân
Suy bịnh tồi đồi tự ý nhân
Ông nói đến bịnh hoạn của mình và làm như có vẻ sợ thiên hạ
Những bài thơ Ông làm kể từ năm 36 tuổi về sau, phong vận không thay đổi, nhưng tình tự hình như đã biến cách rất nhiều. Rồi ta sẽ thấy, càng già dặn phong trần, tình quê hương của Ông càng thắm thiết. Thơ Ông như là những đồng vọng từ phương trời diệu vợi vủa quê hương. Đó là một thứ tình cảm hoài vọng thoạt trông có vẻ dung dị, bình thường, nhưng cảng đọc thơ Ông, càng thấy cái tình đó mở ra một trời thơ bát ngát
Văn Trưởng lão, một nhà sư đồng hương với Ông, hình như là hiện thân cụ thể của một cõi nào đó trong thơ Ông. Cho nên, những bài thơ Ông làm tặng nhà sư này đều từ một cảm hứng tự nhiên và rất bình thường, nhưng cũng từ đó, thơ bỗng chuyển thành âm hưởng kỳ lạ, vọng tới một khát vọng u trầm nào đó. Cõi thơ có thể là nơi trường mộng của đêm dài sinh tử, mà cũng chính ở đó là cõi Hư Không tịch mặc, với một màu xanh thẳm nhưng xa xôi không cùng tận.
Ba bài thơ trích ở dưới đây, Ông làm rải rác trong các thời gian khác nhau. Đọc chung một lần, sẽ thấy cốt cách của Ông, và đó là cốt cách cho suốt cả thời gian Ông làm thông phán tại Hàng châu.
Bài thứ nhất, sau khi đến Hàng châu một năm, trên đường đi Nhuận châu, Ông ghé thăm. Sáu năm sau, Ông đến thăm lần nữa, bấy giờ Văn trưởng lão bịnh. Mười năm sau, từ Hàn lâm học sĩ, Ông ra làm thái thú Hàng Châu, bấy giờ Văn đã tịch
BÀI THỨ NHẤT
秀州報本禪院
鄉僧文長老方丈
TÚ CHÂU[1] BÁO BẢN THIỀN VIỆN
HƯƠNG TĂNG VĂN TRƯỞNG LÃO PHƯƠNG TRƯỢNG
Vạn lý gia sơn nhất mộng trung
Ngô âm[2] tiệm dĩ bến nhi đồng
Mỗi phùng Thục tẩu[3] đàm chung nhật
Tiện giác Nga mi[4] thúy tảo không
Sư dĩ vong ngôn chân hữu đạo
Ngã trừ sưu cú bách vô công
Minh niên thái dược Thiên thai[5] khứ
Cánh dục đề thi mãn Triết đông[6]
萬里家山一夢中,
吳音漸已變兒童。
每逢蜀叟談終日,
便覺峨眉翠掃空。
師已忘言真有道,
我除搜句百無功。
明年採藥天台去,
更欲題詩滿浙東。
Quê hương diệu vợi tưởng chừng như trong một giấc mộng.
Bấy giờ, giọng của ta đã dần dần bập bẹ như giọng trẻ nít
Nhưng mỗi lần gặp cụ Thục thì vẫn còn bàn bạc suốc cả một ngày.
Rồi bỗng thấy ra ngọn núi Nga Mi xanh mướt quét bầu trời
Sư đã quên lời, quả tình là sư đã có Đạo
Tôi thì ngoài việc tìm câu nối chữ, hoàn toàn vô công.
Sang năm sẽ vào núi Thiên thai hái thuốc để cầu Đạo
Những vẫn còn muốn đề thơ đầy cả Triết đông
BÀI HAI:
DẠ CHÍ VĨNH LẠC VĂN TRƯỞNG LÃO VIỆN
Dạ văn[7] Ba tẩu[8] ngọa hoang đồn[9]
Lai đả tam canh nguyệt hạ môn
Vãng sự[10] quá niên như tạc nhật
Thử thân vị tử đắc trùng luân
Lão phi hoài thổ tình tương đắc
Bịnh bất khai đường đạo ích tôn
Duy hữu cô thê cựu thời hạc
Cử đầu kiến khách tợ trường ngôn
愁聞巴叟臥荒村,
來打三更月下門。
往事過年如昨日,
此身未死得重論。
老非懷土情相得,
病不開堂道益尊。
惟有孤棲舊時鶴,
舉頭見客似長言。
Ban đêm, Ông đến Vĩnh Lạc, thăm Văn trưởng lão. Bấy giờ trưởng lão ngọa bịnh không tiếp khách. Ông làm thơ tặng. Từ và ý của bài thơ cũng bình thường. Nhưng nếu đã đọc lại bài thơ Ông tặng Văn trưởng lão ở trên, và sẽ đọc một bài khác sau này nữa, ta sẽ thấy nơi Ông, tình thơ và tình quê hương là hai mối tình khắng khít. Tình quê hương thì thấp thoáng như những bóng hình trong mộng. Tình thơ thì hiu hắt như đồng vọng không lời của hư không.
Chừng đêm, hay cụ Ba thục ngọa bịnh nơi xóm vắng;
Canh ba đến gõ cửa dưới trăng
Chuyện qua năm trước, trông như vừa hôm qua;
May nhờ cái thân này chưa chết nên được cùng ngài chuyện trò nữa.
Cụ tuổi già mà không phải là hạng bo bo (khép kín miệnt) cho nên tình lại càng tương đắc;
Nhưng lúc này cụ bịnh, không khai đường, không tiếp khách hay giảng đạo, thì cái đạo của cụ lại càng thêm cao. (Ông muốn nói, đến thăm, dù không được tiếp chuyện mà vẫn không có ý trách).
Chỉ có con hạc tự năm nào vẫn đứng lẻ loi ở đó.
Ngẩng đầu nhìn khách vẻ như đã nói rất nhiều.
BÀI BA:
過 永 樂 文 長 老 已 卒
QUÁ VĨNH LẠC VĂN TRƯỞNG LÃO DĨ TỐT
Sơ kinh hạc sấu bất khả thức
Tuyền giác vân qui vô xứ tầm
Tam quá môn gian lão bịnh tử
Nhất đàn chỉ khoảnh khứ lai kim
Tồn vong quân kiến hồn vô lệ
Hương tỉnh[11] nan vong thượng hữu tâm
Dục hướng Tiền đường phỏng Viên Trạch[12]
Cát Hồng[13] xuyên bạn đãi thu thâm
初 驚 鶴 瘦 不 可 識
旋 覺 雲 歸 無 處 尋
三 過 門 間 老 病 死 一 彈 指 頃 去 來 今
存 亡 慣 見 渾 無 淚
鄉 井 難 忘 尚 有 心
欲 向 錢 塘 訪 圓 澤
葛 洪 川 畔 待 秋 深
Ban đầu, sửng sốt vì cánh hạc đã hao gầy mà không hay.
Nhưng vừa tỉnh cơn sửng sốt, thì cụm mây trời đã bay về nơi không vết tích.
Người đời có ba cửa ải: già, bịnh và chế (mà ngài đã đi qua hết cả ba).
Cuộc đời thoảng trong một cái búng tay là đủ cả cái đã qua, cái đang đó và cái sẽ đến (bây giờ ngài trong một thoáng đó mà đã là thiên thu)
Chuyện mất còn nhìn đã quen, nên nước mắt ráo quạnh;
Nhưng cái tình hương lý khó nguôi được trong lòng.
Tôi muốn đến Tiền đường hỏi thăm Viên Trạch.
Tiên Cát Hồng đứng bên bờ suối đợi cái thu già.
2.
湖上飲
HỒ THƯỢNG ẨM
(I)
Triêu hi nghinh khách diễm trùng cương
Vãn vũ lưu nhân nhập túy hương
Thử ú tự giai quân bất hội
Nhất bôi đương chúc thủy tiên vương[14]
朝曦迎客艷重岡
晚 雨留人入醉鄉
此意自佳君不會
一杯當屬水仙王
(II)
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bả Tây hồ[15] tỉ Tây Tử[16]
Đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
水光瀲灩晴方好
山色空濛雨亦奇
欲把西湖比西子
淡妝濃抹總相宜
Nguyên đề: “Ẩm Hồ thượng sơ tình hậu vũ nhị thủ”. Uống rượu trên tây hồ, vừa tạnh sau cơn mưa, 2 bài.
Bút pháp trong bài vô cùng độc đáo, nên thường được truyền tụng. Khi trời mưa, hồ được bao phủ trong lớp bụi mờ như nàng Tây Thi khoác lên mình lớp áo lụa mỏng. Lúc trời tạnh ráo, cảnh hồ lộ liễu như nàng Tây Thi đẹp với vẻ trong ngọc trăng ngà. Có thể thấy cái tài hoa lãng mạn của Ông trong lối thơ ngoạn cảnh như bài này.
(Bài I)
Nắng mai đón khách rải vẻ tươi thắm trên những sườn núi chập chùng
Buổi chiều, cơn mưa cầm chân khách, rồi đưa khách vào làng say
Tình ý đó bộc lộ một cách nồng nàn mà tự nhiên cho những người ngoạn cảnh.
Vậy hãy nâng một chén mời ngài Thủy tiên vương.
(Bài II)
Mặt nước sáng lóng lánh, mưa vừa tạnh trông càng đẹp
Sắc núi quạnh ráo, mưa lại càng làm cho trông lạ ra.
Có thể đem Tây hồ mà sánh với nàng Tây Tử
Dù trang điểm sơ sài, hay rửa sạch hết phấn son, cả hai đều diễm lệ
3
DU TÂY BỒ ĐỀ TỰ
Lộ chuyển sơn yêu vị túc di
Thủy thanh thạch sấu tiện năng ký
Bạch vân tự chiếm đông tây lãnh
Minh nguyệt thùy phân thượng hạ trì
Hắc tất hoàng lương sơ thục hậu
Chu cam lục quất bán kiềm thì
Nhân sinh thử lạc tu thiên phó
Mạc khiến nhi lang thủ thứ tri
遊西菩寺
路转山腰足未移
水清石瘦便能奇
白雲自占东西嶺
明月谁分上下池
黑黍黄粟初熟候
朱柑绿橘半甜時
人生此樂须天付
莫遣兒曹取次知
Kỷ Hiểu Lam, nhà bình thơ Đông Pha khá nổi tiếng, nói, nội một bài này đã đủ mở ra thì phái Kiếm nam.
Kiếm nam là đất Tứ xuyên, phong thổ đó đã lôi cuốn được tay thi bá một thời: Tống Lục Du. Rồi tên đó trở thành tập sách bất hủ của Lục Du.
Niên hiệu Hi ninh thứ 7 (1074), theo lời chú của ông, ngày 27 tháng 8, ông cùng Mao Quan Bảo và Úy Phương Quân Vũ đi chơi ở Minh Trí viện trên núi Tây bồ; tương truyền thơ đề khắc vào đá nay vẫn còn (?). Chùa Tây bồ (đề) cách huyện Tiềm (?) 25 dặm.
Bài thơ tả những phong thổ và nhân tình. Cảnh trí thơ mộng với những con đường uốn lượn quanh co qua eo núi, với những dòng nước trong, những tảng đá gầy ngộ nghĩnh, những cánh đồng nức mùi lúa chín, những khu vườn đầy cam quít. Không cần ngụ tình mà tình vẫn đẹp, đó cũng là chỗ độc đáo trong lối thơ ngoạn cảnh của Ông.
Dịch nghĩa. _ Đường đã chuyển quanh eo núi mà chân chưa dời bước.
Nước trong, đá gầy, càng trông lạ.
Mây trắng chiếm trọn một giải từ ngọn núi đông sang tây.
Trăng sáng, như chia ao ra làm trên và dưới.
Lúa hắc thử, thóc hoàng lương vừa đến độ chín
Cam đỏ quít xanh đang nửa mùa ngọt
Cái vui đó của cuộc nhân sinh phải nói là của trời cho.
Đừng để lại cho con cháu coi thường điều ấy. (Có lẽ ông ngụ ý chê tân pháp của Vương An Thạch; cái thanh bình giả tạo của người không sao hơn nổi cái vui có sẵn của trời cho)