← Quay lại trang sách

- 2 - -

4.

Những bài thơ cảm hứng từ nhạc, ít khi được phô diễn trực tiếp. Âm thanh phát ra từ cung bậc của nhạc, vượt ra ngoài sự rung động bình thường; nó rung từ một chiều sâu bất tận. Do đó, tiếng nhạc khi kích động dòng cảm hứng của thơ, không còn là những tiếng có thể nghe bằng lỗ tai. Các thi sĩ Trung Hoa cũng thường làm các bài thơ gợi hứng từ nhạc, mà được truyền tụng nhiều nhất có lẽ là bài “Cầm sắt” của Lý Thương Ẩn, với các câu độc đáo:

Trang Chu hiểu mộng mê hồ điệp

Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên

Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ

Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.

Khúc đâu đầm ấm dương hòa

Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh

Khúc đâu êm ái xuân tình

Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ quyên

Trong sao châu dọ duềnh quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông

Một bài khác của Lý Hạ với những âm hưởng kỳ dị: Nghe Lý Bằng đàn Không hầu. Đàn này là một loại nhạc khí được chế từ đời Hán, có gốc ở rợ Hồ; hình gãy và dài, có 23 dây. Lý Bằng là tay đàn trong đám nhạc công của Đường Huyền Tôn. Những câu tiêu biểu trong bài thơ này của Lý Hạ:

Côn sơn ngọc toái, phượng hoàng khiếu

Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu

Thập nhị môn tiền dung lãnh quang

Nhị thập tam ty động Tử hoàng

Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ

Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ

(…..)

Lộ cước tà phi thấp hàn thố

Tiếng đàn như tiếng ngọc rạn vỡ trên Côn sơn, quê hương của các loại ngọc. Tiếng đàn như tiếng phượng hoàng réo rắt. Long lanh như phù dung khóc sương sớm. Như hương lan vừa hé nụ. Mười hai cổng thành Trường an như đẫm ánh sáng mờ lạnh lẽo. Hai mươi ba sợi tơ đàn ngân tiếng vang dội đến chín cung trời. Chỗ Nữ Oa luyện đá vá trời, tiếng đàn nghe đá vỡ, trời rung, tuôn mưa thu xuống…. Tiếng đàn như sương mù lảng vảng dưới chân; như sương mù đẫm ướt vầng trăng lạnh.

Nhạc mà nghe đến chỗ đó là đã đến mức thượng thừa. Nhưng vì lời thơ không nói thẳng vào lời nhạc được, mà luôn luôn phải thác lời vào những cái không phải là nhạc, cho nên, dễ trở thành sáo.

Một bài thơ khác của ông, gợi hứng từ cuộc nghe đàn tranh tại chùa Cam lộ, cũng chỉ phô diễn gián tiếp cảm hứng về nhạc:

Giang phi xuất thính vụ vũ sầu

Bạch lãng phiên không động phù ngọc

Hoán thủ ngô gia song phượng tào

Khiển tác Tam giáp cô viên hào

Ở đây, tiếng nhạc lên khơi vơi cho bầu trời như thu mình trong lớp bụi mưa mù. Từng tiếng nhạc bềnh bồng như từng hạt ngọc lóng lánh trên lớp sóng. Đôi cánh phượng múa, và con vượn lẻ loi kêu gào giữa sườn núi vắng.

Chỗ tận cùng của nhạc là những đồng vọng không lời, mà lời thơ lại cảm hứng từ đồng vọng đó; nghe đã khó mà nghe qua lời thơ lại càng khó.

Bài thơ của ông được trích dưới đây cũng nằm trong chỗ khó này. Nó chỉ nói cái cảnh chung quanh chỗ tấu nhạc, mà không nói thẳng tiếng nhạc. Nhưng nghe được từ chỗ đó, thì thấy tình tự tài hoa của ông. Dĩ nhiên, không thể bàn cho thấu đáo nổi. Trừ phi muốn nói lai rai mà chơi.

THÍNH HIỀN SƯ CẦM

Đại huyền xuân ôn hòa thả bình

Tiểu huyền liêm chiết lượng dĩ thanh

Bình sinh vị thức cung dữ giốc

Đản văn ngưu minh ảnh trung

Trĩ đang mộc môn tiền bác trác

Thùy khấu môn sơn tăng vị nhàn

Quân vật sân

Qui gia thả mịch thiên hộc thủy

Tịnh tẩy tùng lai tranh địch nhĩ

聽賢師琴

大 絃 春 溫 和 且 平

小 絃 廉 折 亮 以 清

平 生 未 識 宮 與 角

但 聞 牛 鳴 盎 中

雉 登 木 門 前 剝啄

誰 叩 門 山 僧 未 閑

君 勿 嗔

歸 家 且 覓 千 斛 水

淨 洗 從 前 箏 笛 耳

Sư Hiền là ai thì không rõ, nhưng tài chơi đàn của sư có lẽ khá tuyệt vời. Nghe sư đàn, ông có cảm tưởng những tiếng nhạc được nghe trước đây chỉ như tiếng trâu rống trong ảng sành hay tiếng chim sẻ mổ cánh cửa gỗ; rửa sach cái lỗ tai đó, cũng phải mất hết hằng nghìn thùng nước.

Tiết điệu thơ bắt nhịp với cảm hứng thơ, tạo cho bài thơ có phong vận tiêu sái đặc biệt.

* * *

Giây lớn tỏa hơi ấm mùa xuân, vừa thong thả vừa nhịp nhàng.

Giây nhỏ nghe thanh thót, gãy gọn, mà trong sáng

Bình sinh, tôi chưa biết cung và giốc là gì

Chỉ nghe tiếng trâu rống trong ảng sành

Hoặc con chim sẻ đậu trước cửa gỗ, mổ và rỉa

Rồi có ai đến gõ cửa, thầy không còn rảnh nữa

Ngài đừng giận!

Về nhà, hãy kiếm một nghìn thùng nước,

Rửa sạch cái lỗ tai vướng những tiếng tranh tiếng sáo trước kia.

5.

HỌA TỬ DO TỐNG XUÂN

子由送椿

Mộng lý thanh xuân khả đắc truy

Dục tương thi cú bạn dư huy

Tửu lan bịnh khách duy tư thụy

Mật thục hoàng phong diệc lại phi

Thược dược anh đào cu tảo địa

Bính ti thiền sắp tưỡng vong ki

Bằng quân tá thủ pháp giới quán

Nhất tẩy nhân gian vạn sự phi

夢裏青春可得追

欲將詩句絆餘暉

酒闌病客惟思睡

蜜熟黃蜂亦懶飛

芍葯櫻桃俱掃地

鬢絲禪榻兩忘機

憑君借取 法界觀

一洗人間萬事非

Bài họa thơ Tống xuân của Tử Do

Bấy giờ là cuối mùa xuân năm ất mão (1075), Ông 40 tuổi, đã đổi sang làm quan ở Mật chây. Bài trích là một trong bốn bài họa gởi cho Tử Do. Ông với Tử Do, ngoài tình anh em, còn có mối giao tình thi tứ rất đậm đà, nên những bài thơ qua lại mang nỗi ngậm ngùi khôn tả.

Trong thời này, Ông phải ra đi một cách bất đắc dĩ, để tránh tai họa; ẩn tình đó còn thấy rõ ở bài khác: vị ưng hồi thủ yểm lung tù, chưa dám quay đầu, vì còn sợ tù đày giam hãm.

Suốt tám năm đi thông thú các nơi: Hàng châu, Mật châu, rồi Từ châu, thơ Ông phần nhiều bị gò bó, rất ít bài có phong vận tài hoa cố hữu. Những bài thơ làm để thù tạc thì không đáng kể. Chúng vẫn hay về âm vận thanh tao, bút pháp điêu luyện, nhưng vẫn chỉ là thù tạc. Những bài khác, thường vương cái sầu héo, hiu hắt, của một người lữ khách bất đắc dĩ:

Thanh xuân thấp thoáng mộng dài

Muốn đem thi tứ dệt lời tà huy

Tuổi thanh xuân chỉ còn tìm thấy thấp thoáng trong giấc mộng.

Nên chỉ muốn mượn câu thơ kết dệt cái ánh tà huy còn sót lại của một đời người.

Rượu đã tàn, người mệt mỏi, chỉ tưởng đến giấc ngủ cho xong.

Mật đã chín, mà con ong vàng lại biếng bay.

Thược dược và anh đào rải đầy mặt đất.

Mái tóc bạc trắng và chiếc giường thiền, cả hai cùng lỡ cả.

Chi bằng mượn môn Pháp giới quán của nhà Phật,

Để một lần rửa sách hết vạn sự trong nhân gian, tất cả là không cả.

8.

Năm đinh tị (1077), Ông 44 tuổi, từ Mật châu đổi sang Hà trung phủ, rồi đến tháng 4 năm đó lại đổi sang Từ châu. Trước khi đi, ông làm bài thơ lưu biệt này:

LƯU BIỆT THÍCH CA VIỆN

Xuân phong tiểu việc khước lai thì

Bích gian duy kiến sứ quân thi

Ưng vấn sứ quân hà xứ khứ

Bằng hoa thuyết dữ xuân phong tri

Niên niên tuế tuế hà cùng dĩ

Hoa tợ kim niên nhân lão hỉ

Khứ niên Thôi Hộ khước trùng lai

Tiền độ Lưu Lang tại thiên lý

留別釋迦院

春 風 小 院 卻 來 時

壁 間 惟 見 使 君 詩

應 問 使 君 何 處 去

憑 花 說 與 春 風 知

年 年 歲 歲 何 窮 已

花 似 今 年 人 老 喜

去 年 崔 護 若 重 來

前 度 劉 郎 在 千 里

Nếu ngọn gió mùa xuân đi tới nơi chùa nhỏ,

Hẳn là chỉ thấy bài thơ của sứ quân đề trên vắc.

Có lẽ sẽ hỏi sứ quân đi đâu

Nhờ hoa nói cho ngọn gió biết

Năm này rồi năm khác, bao giờ cùng tận nổi;

Nhưng hoa vẫn còn như là hoa năm nay,

Mà người thì đã cằn cỗi ra rồi.

Nếu chàng Thôi Hộ năm xưa có trở lại lần nữa,

Thì chàng Lưu đã đi ngoài xa diệu vợi

Từ đầu đến cuối, ông hoàn toàn mượn ý cổ nhân. Nhưng vẫn giữ được bản sắc. So hai câu 5 và 6 của ông với hai câu Lưu Hi Di đời Đường:

Niên niên tuế tuế hoa tương tợ

Tuế tuế niên niên nhân bất đồng

Trong hai câu của Lưu Hi Di, những điệp ngữ muốn bắt theo cái nhịp vận hành, đi và đến rồi đi của tuế nguyệt, cùng cái đi mất của tuổi người. Nhưng lời còn pha nhiều vẻ tục.

Ông cũng dùng các điệp ngữ đó, nhưng cốt cách của chúng, cứ so lại sẽ thấy. Đem tài hoa mà trộn vào tục, thì cái tục trở thành thanh tao kỳ lạ!

9

ĐỘC MẠNH GIAO THI

(I)

Dạ độc Mạnh Giao thi

Tế tự như ngưu mao

Hàn đăng chiếu hôn hoa

Giai xứ nhất thời tao

Cô phương[17] trạc hoang uế

Khổ ngữ dư thi tao[18]

Thủy thanh thạch tạc tạc

Thoan kích bất thọ cao

Sơ như thực tiểu ngư

Sở đắc bất thường lao

Hựu tợ chử bành việt[19]

Cánh nhật trì không ngao

Yếu đương đấu Tăng thanh

Vị túc đường Hàn hào

Nhân sinh như triêu lộ

Nhật dạ hỏa tiêu cao

Hà khổ tương lưỡng nhĩ

Thính thử hàn trùng hào

Bất như thả trí chi

Ẩm ngã ngọc sắc giao.

(II)

Ngã tắng Mạnh Giao thi

Phục tác Mạnh Giao ngữ

Cơ trường tự minh hoán

Không bích chuyển cơ thử

Thì tùng phế phủ xuất

Xuất triếp sầu phế phủ

Hữu như Hoàng hà ngư

Xuất cao dĩ tự chử

Thượng ái đồng đấu ca[20]

Bỉ lý phả cận cổ

Đào cung xạ áp bãi

Độc tốc[21] đoản thoa vũ

Bất ưu đạp thuyền phiên

Đạp lãng bất đạp thổ[22]

Ngô cơ sương tuyết bạch

Xích cước hoán bạch trữ

Giá dữ đạp lãng nhi

Bất thức li biệt khổ

Ca quân giang hồ khúc

Cảm ngã trường cơ lữ

讀 孟 郊 詩

細字 如 牛 毛

寒燈 照 昏 花

佳處一時 遭

孤 芳 擢 荒 穢

苦 語 餘 詩 騷

水 清 石 鑿 鑿

湍 激 不 受 篙

初 如 食 小 魚

所 得 不 償 勞

又 似 煮 彭 蚎

竟 日 持 空 螯

要 當 鬥 僧 清

未 足 當 韓 豪

人 生 如 朝 露

日 夜 火 消 膏

何 苦 將 兩 耳

聽 此 寒 蟲 號

不 如 且 置 之

飲 我 玉 色 醪

(II)

我 憎 孟 郊 詩

復 作 孟 郊 語

飢 腸 自 鳴 喚

空 壁 轉 飢 鼠

詩 從 肺 腑 出

出 輒 愁 肺 腑

有 如 黃 河 魚

出 膏 以 自 煮

尚 愛 銅 斗 歌

鄙 俚 頗 近 古

桃 弓 射 鴨 罷

獨 速 短 蓑 舞

不 憂 踏 船 翻

踏 浪 不 踏 土

吳 姬 霜 雪 白

赤 腳 浣 白 紵

嫁 與 踏 浪 兒

不 識 離 別 苦

歌 君 江 湖 曲

感 我 長 羈 旅 。

Mạnh Giao, tự Đông Dã (751-814), người Lạc dương, ẩn cư Tung sơn, gần 50 tuổi mới đến Trường An thi tiến sĩ. Năm Trinh nguyên 12 (795), đậu tiến sĩ; năm sau được tuyển ra làm Phiêu dương úy. Tính cô độc đơn bạc; thơ thì khúc mắc, khắc khổ, bài nào cũng trầm buồn cùng độ; chúng như ẩn khuất một tâm sự nào đó mà lời không nói hết. Hàn Dũ rất thích thơ ông, kết bạn rất thân thiết. Mất năm 64 tuổi.

Hai bài trích ở trên, Đông Pha làm theo lối thơ khúc mắc của Mạnh Giao, gọi là thể thơ Đông dã. Kỷ Hiểu Lam phê rằng, thể đó, dù Hàn Dũ và Phàn Tông Sư đời Đường rất thích, nhưng chưa chắc đã làm nổi. Những Đông Pha cậy cái hùng tài quán triệt của mình nên không ngại.

Lối thơ này không cần giàu âm vận như các bài luật thi. Hai bài của Đông Pha rất giàu hình ảnh, mà hình ảnh nào cũng độc đáo, được gói trong các tiết nhịp khúc mắc, rất trầm buồn. Buồn một cách cô đơn kỳ lạ.

(I)

Đêm đọc thơ Mạnh Giao

Chữ nhỏ như lông trâu

Đèn nhạt rọi hoa tối

Cái hay lại gặp nhau

Khơi vơi giủ cấu bợn

Khúc mắc thơ héo sầu

Nước trong đá vằng vặc

Bọt xoáy không chịu sào

Mới như ăn cá nhỏ

Cái được chẳng thấm đâu

Lại như bắt còng nấu

Trọn ngày ôm cua sao?

Có thể đọ Tăng thanh

Chưa thể đọ Hàn hào

Đời người như sương sớm

Sáng tối lửa cạn dầu

Sao khổ hai tai vễnh

Nghe sâu lạnh lẽo kêu?

Chi bằng bỏ quách đi

Mời uống chén rượu ngầu.

(II)

Ta ghét thơ Mạnh Giao

Lại làm thể Đông dã

Bụng đói sôi sục reo

Chuột đói lần vách đá

Thơ từ phế phủ ra

Lại gây sầu phế phủ

Tựa như cá Hoàng hà

Phun dầu tự nấu nó

Còn ham đồng đấu ca

Quê kệch mường tượng cổ

Cung đào bắn con vịt

Lênh đênh múa áo lá

Không sợ đạp lệch thuyền

Đạp sóng chê đất thó

Vợ tớ sương tuyết trắng

Chân trần giặt vải lụa

Làm vợ gã rong chơi

Không màng li biệt khổ

Hát khúc chàng giang hồ

Rầu ta mãi cô lữ