- 3 - -
10
THỨ VẬN TĂNG TIỀM[23] KIẾN TẶNG
Đạo nhân hung trung thủy kính thanh
Vạn tượng khởi diệt vô đào hình
Độc y cổ tự chủng thu cúc
Yến bạn tao nhân xan lạc anh
Nhân gian để xứ hữu nam bắc
Phân phân hồng nhạn hà tằng minh
Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh
Kim nhật ngẫu xuất vị cầu pháp
Dục dữ tuệ kiếm gia long hình
Vân nam tân ma sơn thủy xuất
Sương tì bất tiển nhi đồng kinh
Công hầu dục thức bất khả đắc
Cố tri ỷ thị vô khuynh thành
Thu phong xuy mộng quá Hoài thủy
Tưởng kiến quật dữu thùy không đình
Cố nhân các tại thiên nhất giác
Tương vọng lạc lạc như thần tinh
Bành thành lão thú hà túc cố
Táo lâm tang dã tương yêu nghinh
Thiên sơn bất đạn hoang điếm viễn
Lưỡng cước dục sấn như nhu khinh
Đa sinh ỷ ngữ ma bất tận
Thượng hữu uyển chuyển thi nhân tình
Viên ngâm hạc lệ bản vô ý
Bất tri hạ hữu hành nhân hành
Không giai dạ vũ tự thanh tuyệt
Thùy sử yểm ức đề cô quỳnh
Ngã dục tiên sơn chuyết dao thảo
Khuynh khuông tọa thán hà thời doanh
Bạc thơ tiên phố tận điền ủy
Chử minh thiêu lật nghi tiêu chinh
Khất thủ ma ni chiếu trược thủy
Cọng khan lạc nguyệt kim bồn doanh
次韻僧潛見贈
道 人 胸 中 水 鏡 清
萬 象 起 滅 無 逃 形
獨 依 古 寺 種 秋 菊
要 伴 騷 人 餐 落 英
人 問 底 處 有 南 北
紛 紛 鴻 雁 何 曾 冥
閉 門 坐 穴 一 禪 榻
頭 上 歲 月 空 崢 嶸
今 年 偶 出 為 求 法
欲 與 慧 劍 加 礱 硎
雲 衲 新 磨 山 水 出
霜 髭 不 剪 兒 童 驚
公 侯 欲 識 不 可 得
故 知 倚 市 無 傾 城
秋 風 吹 夢 過 淮 水
想 見 橘 柚 垂 空 庭
故 人 各 在 天 一 角
相 望 落 落 如 晨 星
彭 城 老 守 何 足 顧
棗 林 桑 野 相 邀 迎
千 山 不 憚 荒 店 遠
兩 腳 欲 趁 飛 猱 輕
多 生 綺 語 磨 不 盡
尚 有 宛 轉 詩 人 情
猿 吟 鶴 唳 本 無 意
不 知 下 有 行 人 行
空 階 夜 雨 自 清 絕
誰 使 掩 抑 啼 孤 惸
我 欲 仙 山 掇 瑤 草
傾 筐 坐 歎 何 時 盈
簿 書 鞭 扑 晝 填 委
煮 茗 燒 栗 宜 宵 征
乞 取 摩 尼 照 濁 水
共 看 落 月 金 盆 傾
Bi này vốn là một bài họa, do thơ của Đào Tiềm tặng Ông. Nói là họa, nhưng bút pháp và chương pháp của thơ rất ung dung. Đó là chỗ điêu luyện của người làm thơ. Cốt cách và đời sống của Đạo TIềm được tả trong những nét rất linh hoạt. Ngay ở hai câu đầu, lời thơ và tứ thơ đã đi ngay vào chỗ độc đáo bằng biết nhịp và hình ảnh sống động. Thỉnh thoảng trong thơ đột nhiên nổi lên với những hình ảnh rất đẹp được gói trong lời và tứ kỳ diệu. Đại để các câu:
Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh
Khép cửa hang sâu một giường thiền
Trên đầu năm tháng trôi chênh vênh
Năm tháng là tuổi già, là mùa thu và tóc trắng, là những hoài vọng xa xôi của nhà thơ. Hoài vọng đó là hình ảnh hiu hắt khép kín cửa trong hang sâu giữa núi rừng xa vắng, và thầm lặng trôi qua trên đầu nhà sư cô quạnh. Cho nên, tấm lòng của sư như một mặt nước trong ngần, bao nhiêu chìm nổi thiên hình vạn trạng của cõi đời hiện rõ lên trong đó.
Rồi khi sư thả bộ rong chơi, màu áo còn pha màu sương khói của núi rừng. Sư mang cái tình đạo đó kết duyên với tình thơ của khách thơ, như ngọn gió mùa thu thổi những phương trời viễn mộng đến làng thơ, thì tình thơ bỗng ngọt ngào như cam quít đang mùa chín đỏ; một thứ ngọt ngào trầm lặng:
Thu phong xuy mộng quá Hoài thủy
Tưởng kiến quật dữu thùy không đình
Gió thu đưa mộng qua Hoài thủy
Này cam nọ quít rũ sân buồn
Khách làng thơ lại muốn bỏ qua những ngày bươn bả, để cùng sư, trong những đêm dài xa xôi, đốt củi nấu trà, ngồi xem bóng trăng nghiêng xuống đáy cốc. Tình thơ sống động, nhưng xa xôi và đơn bạc.
Tấm lòng nhà đạo như nước phẳng;
Rọi bóng chìm nổi của cõi đời.
Chùa xưa lẻ bóng trồng thu cúc
Bạn với làng thơ thưởng chút tài
Cõi nhân gian có chia đường nam nẻo bắc
Mà cánh hồng cánh nhạn vẫn đơn độc lẻ loi
Trên đầu năm tháng trôi chênh vênh
Nay hứng dậy tìm duyên cùng khách tục
Muốn đem kiếm tuệ miệt mài thêm
Áo mây vừa khoác vương màu non nước
Râu sương không cạo trẻ thấy mà kinh
Công hầu muốn quen, quen chẳng được
Mới biết nơi chợ không kẻ khuynh thành
Gió thu thổi mộng qua Hoài Thủy
Tưởng thấy cam quít rũ sân buồn
Bè bạn mỗi người riêng một cõi,
Trông nhau lác đác như sao mai
Người bận việc quan thôi khỏi nói
Rừng táo nương dâu mong đợi nhau
Đường xa quán lẻ không đáng ngại,
Gót vượn nhẹ nhàng bước như bay.
Lời đẹp mấy đời còn dệt mãi,
Tình thơ uyển chuyển còn nhau đây,
Vượn gào hạc réo thế là thế,
Nào biết người đi qua dưới này
Thềm vắng, mưa đêm, buồn da diết,
Nghẹn ngào cô quạnh khóc ai đây?
Tôi muốn núi tiên bứt cỏ dao,
Nghiêng giỏ ngồi than, đầy được sao?
Chép sách, đánh roi, đã làm hết,
Nấu trà đốt củi hẹn đêm nào.
Xin hạt ma ni soi nước đục,
Cùng đợi đáy cốc trăng lao xao.
[1] TÚ CHÂU, một dãy đất chạy dài từ huyện Gia Hưng tỉnh Triết Giang đến huyện Tùng Giang tỉnh Giang Tô
[2] NGÔ ÂM, hay THANH GIANG, điệu nhạc Thanh thương khúc, thịnh hành tại các vùng Giang Nam, đất Ngô, qua các điệu dân dao. Đến đời Đường, điệu ca biến đổi về sau ít truyền tụng.
Ngô âm cũng chỉ cho giọng nói vùng đất Ngô trung nằm ở đông bộ tỉnh Giang tô và tây bộ tỉnh Triết giang.
Ngô âm ở đây có nghĩa bình thường: giọng nói của TỚ; lối nói thông thường của người đất Thục.
[3] THỤC TẨU, cụ giả đất Thục, chỉ cho Văn trưởng lão, cùng quê với Ông ở đất Thục.
[4] NGA MI, núi Nga Mi, hai ngọn đối nhau như hai nét lông mày. Nhà Phật gọi là núi Quang Minh. Đạo gia gọi là Hư linh động thiên; hoặc Linh Lăng thái điện thiên. Núi ở phía Tây nam huyện Nga mi tỉnh Tứ Xuyên. Tại tây bắc huyện giáp tỉnh Hà Nam cũng thấy một ngọn mà ông cho là giống với Nga Mi ở quê ông nên đặt tên là Tiểu Nga Mi, trên đó có đền thờ Tam Tô (ba cha con Ông)
[5] THIÊN THAI, ngọn núi phía bắc huyện Thiên thai tỉnh Triết Giang. Tương truyền, đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc mà gặp tiên.
[6] TRIẾT ĐÔNG, đông nam bộ trong tỉnh Triết Giang
[7] DẠ VĂN, có chỗ chép SẦU VĂN
[8] BA TẨU, cũng như Thục tẩu, do chữ Ba thục (xem chú thích bài trước)
[9] HOANG ĐỒN, có chỗ chép HOANG THÔN
[10] VÃNG SỰ: hai câu 3 và 4, có lẽ ông muốn nhắc đến chuyện năm tân hợi, xích mích đảng Vương An Thạch, suýt vong mạng. Nay đi tìm lại người cố cựu, thấy lại tình quê hương vẫn đậm đà. Nhưng tình đó không nói thành lời được. Chỉ có “ Con Oanh học nói trên cành mỉa mai” thôi ư?
[11] HƯƠNG TỈNH, giếng làng, chỉ cho tình hương lý
[12] VIÊN TRẠCH, tăng đời Đường; bạn là Lý Thiện Nguyện ba lần chứng kiến sự tái sinh của sư. Lần chót, do hẹn gặp nhau tại chùa Thiên Trúc, vào đêm trăng thu, Thiện Nguyên y hẹn, vừa đến cổng chùa, bỗng thấy một mục đồng ngồi trên lưng trâu ca:
Tam sinh thạch tượng cựu linh hồn
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân
Tàm quĩ tình nhân viễn tương phỏng
Thử thân tuy dị tánh thường tồn
[13] CÁT HỒNG, người đời Tấn, tự xưng Tiểu Cát tiên ông; thích phép đạo dưỡng của thần tiên; nghe đồn Giao chỉ có nhiều đan sa, dẫn con cháu đến núi La phù luyện đan, khi đan thành thì thi thể đã rã. Ở đây ngụ ý người không sao thoát khỏi cái chết.
[14] THỦY TIÊN VƯƠNG, Ông tựchú: trên hồ có miếu Thủy Tiên vương
[15] TÂY HỒ, có tám nơi tất cả, mà trong bài này chỉ cho Tây hồ thành tây huyện Hàng châu tỉnh Triết giang. Hồ này còn có những tên khác: hồ TIỀN ĐƯỜNG, hồ MINH THÁNH, hồ KIM NGƯU. Nhân câu thơ của Ông: “Dục bả “Tây hồ tỉ Tây Tử”, nên cũng được gọi là hồ Tây Tử. Ba mặt là núi vây quanh; nam và bắc có hai ngọn núi cao đối nhau, trong hồ có các con đê Tô, Bạch, chia nước hồ ra làm HỒ TRONG và HỒ NGOÀI và HỒ SAU. Bốn mùa phong vật tốt tươi, với 10 cảnh trí nên thơ và nổi danh.
[16] TÂY TỬ, tức Tây Thi
[17] CÔ PHƯƠNG, cao vọi một mình, tuyệt hẳn thói tục.
Thơ Hàn Dũ:
Dị chất kỵ xử quần
Cô phương nan ký lâm
(chất riêng không cùng bọn. Cao vọi khó ở rừng)
Thơ Chu Hy:
Long đông điêu bách hủy
Giang hải lệ cô phương
(Trời lạnh cây cỏ úa. Sông biển một mình trôi.)
[18] THI TAO, nỗi sầu héo của thơ. Thơ buồn khổ
[19] BÀNH VIỆT, có lẽ con còng, loại cua nhỏ
[20] ĐỒNG ĐẤU CA. Chữ trong thơ Mạnh Giao
Đồng đấu ẩm giang tửu
Thủ phách đồng đấu ca
(Đấu đồng uống rượu sông, tay vỗ đấu đồng ca)
[21] ĐẠP THUYỀN, ĐỘC TỐC. Thơ Mạnh Giao:
Cước đạp tiểu thuyền đầu
Độc tốc vô quyển sa
(Gót đạp đầu thuyền nhỏ, lênh đênh không bến cỏ.)
[22] ĐẠP LÃNG, ĐẠP THỔ. Chữ trong thơ Mạnh Giao:
Nùng thị đạp lãng nhi
Mỗi đạp thanh lãng du
Tiếu y hương cống lang
Đạp thổ xưng phong lưu.
(Ta là người sóng xanh, cưỡi sóng mà rong chơi. Cười y gã hương cống, dẫm đất gọi phong lưu.)
[23] TĂNG TIỀM: Tăng Đạo Tiềm ở Tiền Đường, hiệu Sam Liêu Tử, trơ vơ như sao Hôm hoàng hôn, là bạn thơ rất thân với Đông Pha.