CHƯƠNG III - 1 - III. TRỜI ÓNG Ả BẠC TƯỜNG RÊU LỮ THỨ-(1080-1085)-
LỜI DẪN
Trên đoạn đường Lữ Thứ, lịch sử bỗng đổ dồn lên Đất Trích. Đó là vùng đất hoành hành của mưa rừng gió núi, của Thiên Nhiên tàn bạo. Tạo hóa thì hung hăng, mà tạo vật thì bé bỏng. Giữa những đêm giông bão dị thường, giữa lúc đèn mờ khuya khoắt, con chuột đói mò ra đi kiếm ăn. Hoặc trong đám hoa rừng cỏ dại, chướng khí sơn lam, nhánh hải đường với nụ son bé bỏng cũng mang cốt cách thanh cao ra mà chen chúc.
Cuộc lịch nghiệm nơi vùng đất Trích tàn bạo với nỗ lực phấn đấu kỳ cùng, trước thảm họa của Tử sinh trường mộng, ở đây cũng đã sẵn sàng vạch sẵn lối gai rừng để nghe đồng vọng của Lô sơn chân diện mục. Trong khi đó, thảm họa lịch sử theo nước lũ Trường Giang đổ vào Xích Bích. Thế thì, tại chỗ này, Lịch sử đã mang tài hoa của nó tụ về trong tinh thể Đông Pha. Và từ đó, Đông Pha cư sĩ bước ngay vào dòng Lịch sử Chung của một dân tộc, làm cha già tóc trắng cho Một dân tộc.
Những bàithơ sau đây, không có những bài về Lô sơn hay đồng Lô sơn, hay mang âm hưởng ẩn hiện nào đó của Lô sơn chân diện mục, cũng không có những bài xuôi giòng Đại giang Đông khứ, trên mặt sông Xích bích. Hai chỗ đó là tinh thể và cách điệu tài hoa của ông. Một đằng là Lô sơn ẩn hiện giữa mây trắng sương mù ôm ấp những khát vọng sâu thẳm nhất của con người. Một đằng là nước lũ của một giang sơn như họa cuộn anh hùng hào kiệt một thời theo thảm hoạc lịch sử đổ dồn vào biển rộng mù khơi. Nhưng đấy là những tinh thể kết tụ trong phương trời viễn mộng. Nếu nơi đây chúng ta nghe được tận cùng những phấn đấu gian khổ của tồn sinh, những phẫn nộ và những ngậm ngùi cay đắng của tồn sinh, thì phương trời viễn mộng kia tức khắc sẽ mở ra.
I
Năm 1078, tháng 7, đổi sang Hồ châu, ông dâng biểu tạ về triều. Bị sàm tấu, phải ngồi tù. Án từ không nhất quyết. Thần tông mến tài, miễn tội tử. Lại nhờ em ông, Tử Do xin đổi chức quan chuộc tội cho ông. Tháng 12 năm đó ông ra khỏi ngục.
Khi ở trong ngục, ông làm 2 bài thơ, nhờ cai ngục gởi cho Tử Do. Thơ tự trách và có vẻ tuyệt vọng, vì ông tưởng là không thoát khỏi án tử hình.
Đại khái:
Thị xứ thanh sơn khả mai cốt
Tha niên dạ vũ độc thương thần
Dữ quan thế thế vi huynh đệ
Hựu kết lai sinh vị liễu nhân
Nơi này non xanh có thể chôn xương được. Sang năm mưa đêm chỉ riêng hồn mình lạnh lẽo. Ước nguyện cùng nhau (ông và Tử Do) đời đời làm anh em; lại kết duyên nợ đời vĩnh viễn của văn chương.
Ông được tha, giáng chức làm đoàn luyện phó sứ, bị đày đi quản thúc ở Hoàng châu.
Tháng giêng năm canh thân 1079, ông lên đường. Tử Do từ Nam đô đến gặp ông tại Trần, ở lại cùng ông ba ngày, rồi chia tau. Ông làm bài thơ chia tay. Đại khái:
Biệt lai vị nhất niên
Lạc tận kiêu khí phù
Mới cách nhau chưa đầy một năm, cái kiêu khí đã tan hết. và ông tự trách;
Chí ngôn tuy cửu phục
Phóng tâm bất tự thâu
Đã học lời của Thánh Hiền từ bao lâu nằm lòng rồi, nhưng vẫn phóng tâm bừa bãi, gây tai vạ.
Ngày 18 tháng giêng năm đó, trên đường đi ngang Thai châu gặp tuyết, ông làm 2 bài thơ cho Tử Do, lại nói:
Vãn tuế ích khả tu
Phạm tuyết phương nam bôn
Càng già lại càng thêm thẹn; đội tuyết mà phải chạy sang nam!
Ngang Tân tức, gặp người đồng hương lập nghiệp ở đó, ông tặng bài thơ thất ngôn cổ thi:
Trần ai ngã diệc thất thâu thân
Thử hành tắng đắng vưu khả bỉ
Ông nói, mình cũng sa chân vào chốn trần ai, lưu lạc tha phương; nhưng cái đi đó gian nan quá tệ.
Các nơi đi ngang qua, ông vẫn làm thơ, vẫn ngoạn cảnh; nhưng lời thơ đượm nỗi buồn phiền u ẩn. Khi chơi chùa Tịnh cư, nơi này trước kia Trí Khải gặp Huệ Tư đại sư mà đắc đạo, rồi về núi Thiên Thai trụ trì, lập ra Phật giáo Thiên Thai tông; ông làm thơ có những câu:
Bất ngộ tục duyên tại
Thất thân đạp nguy cơ
Chưa tỏ ngộ đạo lý, tục duyên còn nặng; để cho sa chân vào bước nguy cơ.
Và những câu khác:
Khể thủ lưỡng túc tôn
Cử đầu song thế huy
Linh sơn hội vị tán
Bát bộ do quang huy
Cúi đầu lạy đức Như Lai; cất đầu dậy lau đôi hàng lệ. Tưởng như trên hội Linh Sơn ngày nào như lai giảng kinh Pháp hoa nói đạo lý thượng thừa, bây giờ vẫn còn đó, tám bộ chúng vẫn rực rỡ
Lời thơ tuy không cao ngạo mà đảm lược hùng tâm vẫn còn. Cõi thơ của ông vì vậy mà mênh mông heo hút; lời thơ của ông là cả giọng chí thành. Sầu khổ thì có, mà sầu hận thô lỗ thì không. Đó là một điểm nhỏ trong cái phong vận tao nhã và cao kỳ và bao la của ông.
Rồi đến Hoàng Châu, ngủ đêm tại chùa Thiền trí. Cảnh chùa hoang lương. Hình ảnh trong thơ hiện ra một màu hiu hắt. Một ngọn đèn tàn leo lét trên bàn Phật; một con chuột đói bò ra kiếm ăn,; mưa đêm đổ xuống hàng tre; và một bài thơ cổ sót lại trong trí nhớ. Khách phong trần lưu lạc gặp cảnh thơ đó có thể rũ sạch được những oan tình u ẩn nghìn đời.
Phật đăng tiệm ám cơ thử xuất
Sơn vũ hốt lai tu trúc minh
Tri thị hà nhân cựu thi cú
Dĩ ưng tri ngã thử thời tình.
Ông tự viết lời dẫn: “: Lúc thiếu niên, có lần tôi đi ngang qua một thôn viện, thấy trên vách có thơ:
Dạ lương nghi hữu vũ
Viện tĩnh tợ vô tăng
Đêm lạnh chừng mưa gió
Chùa vắng như không sư.
“Không biết thơ của ai. Ban đêm, ngủ lại chùa Thiền Trí, Hoàng Châu. Sư trong chùa đều vắng hết. Nửa đêm trời mưa. Ngẫu nhiên nhớ bài thơ đó, nên làm một bài tuyệt cú.”
Bấy giờ ông vừa ở tù ra, bị đày tới Hoàng Châu. Lời thơ có vẻ mông lung, cay đắng.
Ngày 1, tháng 2, tới Hoàng Châu. Gia đình Ông ở cả tại Nam Đô, chỉ một mình Tử Mại, con trai lớn của Ông, đến với Ông. Khi mới đến Hoàng Châu, ông làm bài thơ dưới đây:
Tự tiếu bình sinh vị khẩu mang
Lão lai sự nghiệp chuyển hoang đường
Trường giang nhiễu quách tri ngư mĩ
Hảo trúc liên sơn giác duẫn hương
Trục khách bất phương viên ngoạI trí
Thi nhân lệ tác thủy tào lang
Chỉ tâm vô bổ ti hào sự
Thượng phi quan gia áp tửu nang
Cười ta bình sinh miệng nói nhăng
Già rồi sự nghiệp càng hoang đường
Trường giang vỗ bến cho cá béo
Tre rậm đầy non thơm mùi măng
Khách lang bạt khỏi phiền viên ngoại
Lệ nhà thơ ghi sổ tang bồng
Chỉ thẹn không nên chuyện gì hết
Uổng thay dốc túi rượu nhà quan
(Ông tự chú cho câu chót: Quan kiểm hiệu có lệ nếu ai làm được nhiều việc thì thưởng một bình rượu khi về. Ở đây, ý muốn nói, Ông tới là bận rộn người ta phải tốn công ghi danh vào sổ bạ)