- 2 - -
2.
HẢI ĐƯỜNG
Giang thành địa chướng phồn thảo mộc
Chỉ hữu danh hoa khổ ưu độc
yển nhiên nhất tiếu trúc ly gian
Đào lý mạn sơn tổng thô tục
Dã tri tạo vật hữu thâm ý
Cố khiển giai nhân tại không cốc
Tự nhiên phú quí xuất thiên tư
Bất đãi kim bàn tiến hoa ốc
Chu thần đắc tửu vựng sinh kiểm
Thúy tụ quyển sa hồng ánh nhục
Lâm thâm vụ án hiểu quang trì
Nhật noãn phong khinh xuân thụy túc
Vũ trung hữu lệ diệc thê thương
Nguyệt hạ vô nhân cánh thanh thục
Tiên sinh bão thực vô nhất sự
Tán bộ tiêu dao tự môn phúc
Bất vấn nhân gia dữ tăng xá
Trụ trượng xao môn khán tu trúc
Hốt phùng tuyệt diễm chiếu suy hủ
Thán tức vô tín khải bịnh mục
lậu bang hà xứ đắc thử hoa
Vô nãi hiếu sự đi Tây Thục
Thốn căn thiến lý bất dị đáo
Hàm tử phi lai định hồng hộc
Thiên nha lưu lạc cu khả niệm
Vị ẩm nhất tôn ca thử khúc
Minh triêu tửu tĩnh quá độc lai
Tuyết lạc phân phân na nhẫn xúc
海棠
江城地瘴蕃草木
只有名花苦幽独
嫣然一笑竹篱间
桃李满山总粗俗
也知造物有深意
故遣佳人在空谷
自然富贵出天姿
不待金盘荐华屋
朱唇得酒晕生脸
翠袖卷纱红映肉
林深雾暗晓光迟
日暖风轻春睡足
雨中有泪亦凄怆
月下无人更清淑
先生食饱无一事
散步逍遥自扪腹
不问人家与僧舍
拄杖敲门看修竹
忽逢绝艳照衰朽
叹息无言揩病目
陋邦何处得此花
无乃好事移西蜀
寸根千里不易到
衔子飞来定鸿鹄
天涯流落俱可念
为饮一樽歌此曲
明朝酒醒还独来
雪落纷纷哪忍触
Ông cư ngụ tại chùa Định Huệ. Phía đông chùa, hoa tạp đầy núi, giữa đó chen một cây hải đường. Thổ nhân không biết là quí. Nhân đó, làm bài thơ vịnh hải đường.
Thơ ngụ ẩn tình. Cốt cách trang nhã của hải đường gây nên nơi ông một cảm hứng tuyệt diệu. Lối thơ này, thường dễ trở thành một đề tài sáo, giả tạo và khoa trương. Kiểu cách của nó là sao cho đạt đến mức nói riêng vật mà tình ẩn, nói tiêng tình mà vật hiện. Nhưng còn phải đợi bàn tay tài hoa phổ vào mới thành tuyệt diệu. Vật trở thành cao quí trong tình ẩn, và người cũng trở thành tao nhã nơi vật hiện.. Cái đó là do phong tư tú lệ của tao nhân; tay phàm tùc khó mà vươn tới mức. Nó hệ ở chỗ tương ứng của thanh khí lẽ hằng. Cho nên, tiết nhịp của bài thơ không cần sôi nổi lãng mạn mà nguồn cảm hứng rung động sâu xa như là bất tận. Chỗ đó, Kỷ Hiểu Lam phê rằng: “Hoàn toàn nói về hải đường, nhưng tự ngụ ý phong tư tú lệ của mình. Bắt đầu hứng khởi thì thâm trầm vi nhiệm. Nửa chừng thì nở rộ tươi sáng. Lối thơ đó nếu không thực sự là Đông Pha thì không ai làm nổi. Đông Pha nếu không hứng khởi trong một lúc, vị tất đã làm nổi”
Đất giang thành nhiều chướng khí nên nhiều cây cỏ hoang dại.
Chỉ có một loại danh hoa, cây hải đường, mọc chen lấn giữa đó, nằm lẻ loi buồn tẻ.
Một khi nó nhởn nhơ hé nụ nơi hàng dậu,
Thì tất cả đào, lý khắp một vùng núi này thảy là thô tục
Thế nên mới biết tạo vật có thâm ý,
Nên khiến cho loài hoa quý đó lánh mình nơi hang hốc vắng vẻ.
Cái cốt cách cao sang của nó vốn là trời cho tự nhiên vậy,
Không phải đợi có mâm vàng dâng vào cửa nhà sang cả mới thành quí.
Nụ hồng tươi như say men rượu ửng lên đôi má,
Tàn lá như cánh tay áo màu xanh thẳm vén lên giải lụa để lộ thịt da ánh hồng.
Sa mù phủ mờ cả khu rừng dày chằng chịt nên nắng mai lên trễ,
Mặt trời ấm, gió nhẹ, giấc ngủ mùa xuân rất thoải mái.
Lúc mưa, trong cơn mưa những giọt nước đọng long lanh trông cũng khá sầu muộn;
Lúc có trăng, dưới trăng vắng bóng người, trông lại càng yểu điệu cao sang.
Tiên sinh ăn một bữa no, không một việc làm,
Ông thả bước tiêu dao, tự sờ tay vào bụng của mình.
Không cần hỏi đó là nhà của người tục hay của sư tăng.
Chống gậy đến gõ cửa xem hàng tre đứng thẳng
Bỗng gặp một vẻ tuyệt diễm bừng lên giữa hàng giậu đổ nát.
Ông than thở không nói một lời, nhướng con mắt mờ kém lên:
Đất quê này sao lại có thứ hoa này?
Há không phải do người hiếu sự mang nó từ đất Tây thục đến?
Nhưng tấc rễ ngắn của nó không dễ gì mang đi xa xôi như vậy nổi.
Có lẽ chim hồng hay chim hộc ngậm hạt của nó mang đến đây.
Cũng đáng ngậm ngùi cho nó lưu lạc tận ven trời xa xôi này;
Nên vì thay nó mà uống một chén và ca một khúc ca đó.
Sáng hôm sau, tỉnh rượu lại, đến đây một mình,
Thấy tuyết bay phơi phới, tưởng chừng như không nỡ đụng đến nó.
3.
Bấy giờ khoảng cuối tháng 2 hay đầu tháng 3 gì đó. Ông đến Hoàng châu trên dưới đã một tháng. Sau cơn mưa tạnh, ông thả bộ đến dưới đình Tứ vọng, bên trên hồ cá, rồi từ gò đông phía trước chùa càn Minh trở về, làm hai bài thơ luật năm chữ. Mùa hải đường đã qua, đang đợi mùa mai năm tới. Cảnh chiều, tiếng ếch nhái sau cơn mưa, tiếng chim trong nắng ngả về chiều, bóng người vắng vẻ. Cũng là một nỗi niềm tâm sự nào đó của tuổi ông.
(I)
Vũ quá phù bình hợp
Oa thanh mãn tứ lân
Hải đường chân nhất mộng
Mai tử dục thường tân
Trụ tượng nhân khiêu thái
Thu thiên bất kiến nhân
Ân cần mộc thược dược
Độc tự điện dư xuân
(II)
Cao đình cửu dĩ phế
Hạ hữu chủng ngư đường.
Mộ sắc thiên sơn nhập
Xuân phong bách thảo hương
Thị kiều nhân tịch tịch
Cổ tự trúc thương thương
Quán hạc hà lai xứ
Hào minh mãn tịch dương
雨 過 浮 萍 合
蛙 聲 滿 四 鄰
海 棠 真 一 夢
梅 子 欲 嘗 新
拄 杖 閑 挑 菜
鞦 韆 不 見 人
殷 勤 木 芍 藥
獨 自 殿 餘 春
高亭久已廢
下有種魚塘
暮色千山入
春風百草香
市橋人寂寂
古寺竹蒼蒼
鸛鶴來何處
號鳴滿夕陽
Mưa qua bèo kết tụ
Ếch kêu dậy xóm làng
Hải đườngqua cơn mộng
Còn đợi mùa mai sang
gậy thọc chơi rau cỏ
Người không, vắng bóng tường
Chăm chỉ cây thược dược
Một mình riêmg một xuân
Đình cao phế mấy độ
Phía dưới có ngư đường
Bóng chiều chen bóng núi
Gió thoảng bay ngàn hương
Cầu chợ người thưa thớt
Chùa xưa tre xanh xanh
Cò vạc từ đâu đến
Kêu réo dậy tà dương
4.
Ngụ tại chùa Định Huệ được 3 tháng; tháng 5, ông dời sang Lâm cao đình (phía nam huyện Hoàng cương tỉnh Hồ bắc, bắc ngạn sông trường giang. Cũng gọi là lâm cao quán)
Tử Do lược ký: Từ đình nhìn ra, nam bắc chừng trăm dặm, ban ngày ghe thuyền lui tới phía trước, ban đêm nghe tiếng như ngư long kêu gào ở phía dưới; phía tây trông thấy các ngọn núi huyện Vũ dương; gò đống nhấp nhô, cây cối hàng hàng, khói bốc cuồn cuộn, rải rác nhà ngư phủ, tiều phu, đếm được đầu ngón tay.
Ông đến Lâm cao đình, dựng nhà ở, đặt tên là nhà Tuyết, vì làm trong mùa đại tuyết; đọc Chiến quốc sách, và làm bài thơ dưới đây:
Ngã sinh thiên địa gian
Nhất nghị ký đại má
Khu khu dục hữu hành
Bất cứu phong luân tả.
Tuy vận tẩu nhân nghĩa
Vị miễn vi hàng ngạ
Kiếm mễ hữu nguy xuy
Châm chiên vô ổn tọa
Khởi vô giai sơn thủy
Tá nhãn phong vũ quá
Qui điền bất đãi lão
Dũng quyết phàm kỷ cá
Hạnh tư phế khí dư
Bì mã giải yên đà
Toàn gia cổ giang dịch
Tuyệt cảnh thiên vi phá
Cơ bần tương thừa trừ
Vị kiến khả điếu hạ
Đạm nhiên vô ưu lạc
Khổ ngữ bất thành ta
我生天地間,
一蟻寄大磨。
區區欲右行,
不救風輪左。
雖云走仁義,
未免違寒餓。
劍米有危炊,
針氈無穩坐。
豈無佳山水,
借眼風雨過。
歸田不待老,
永訣凡幾個。
幸玆廢棄餘,
疲馬解鞍馱。
全家占江驛,
絕境天為破。
飢貧相乘除,
未見可弔賀。
澹然無憂樂,
苦語不成些
Ta sinh trong trời đất
Như kiến bò cối đá
Nhắm hữu khu khu đi
Không kể gió xoay tả
Nói chạy theo nhân nghĩa
Chưa khỏi chuyện cơm áo.
Gạo như gươm, thổi rát mặt
Áo như kim chích ngồi không yên
Há không non nước đẹp
Ghé mắt mưa gió qua
Về ruộng nõ đợi già
Sức lực còn đôi chút
May nhờ đất phế thải
Ngựa cùng thảo yên cương
Lấy bến sông làm nhà
Trời dọn cho tuyệt cảnh
Đói rách thừa trừ nhau
Khỏi chia buồn chia vui
Vừa vừa không cực sướng
Nói chi đến chuyện khổ