Chương 17 BỊ CHÔN SỐNG
Trên Ngọn Cây, một làn gió hay một tia nắng thôi cũng đủ cuốn tuyết đi. Nhưng dưới Cành La, tuyết bám chặt như một con sâu róm to bự và trắng phau, nó chỉ chịu bỏ đi khi mùa xuân trở lại.
Lúc đầu Tobie tức điên lên.
Mọi chuyện chấm dứt thế này đây! Cậu đã thoát khỏi bao ác hiểm trên đời này, cuối cùng lại phải chịu chết một cách lãng nhách vì cái thảm tuyết này sao. Cậu đạp mạnh vào cánh cửa băng rắn đanh.
Sau vài cú đạp, chân thì đau mà cửa không suy suyển gì. Cậu khuỵu gối, tin rằng mình thế là đã hết hy vọng, chỉ còn lại cảm giác tức giận và đau khổ.
- Bình tĩnh, Tobie. Hãy bình tĩnh…
Cậu chỉ biết nhắc đi nhắc lại câu đó nhưng hy vọng cứ tan biến dần. Không còn bầu trời sao ở trên kia luôn giúp cậu bình tĩnh và tỉnh táo, chỉ có các bức tường và trần hang lạnh ngắt. Không thể trụ được suốt bốn tháng với duy nhất một túi thức ăn. Cậu sẽ kết thúc giống như một cành nhỏ trụi lá rồi rụng xuống. Tobie ngồi thất thần như vậy một lúc lâu. Dẫu sao cũng không buồn bực đến mức phải ngừng tranh đấu.
Nếu không nghĩ đến cha mẹ rất có thể cậu sẽ không bao giờ gượng dậy được. Suốt cả mùa thu, cậu mong chờ họ, như một đứa trẻ ngồi thu lu trên dãy ghế dành cho trẻ lạc.
Bất chợt, cậu hình dung ra một cảnh tượng. Một lán gỗ nhỏ sát cạnh khu hội chợ bị bỏ hoang. Giấy tờ cũ vương vãi dưới đất. Khung cảnh hoang tàn. Trước lán treo một tấm biển: văn phòng cha mẹ lạc. Vào đến bên trong, nếu nhìn kĩ, có thể thấy qua tấm kính nhòe hơi nước hai ông bà Sim và Maïa đang ngồi trên chiếc ghế đẩu, hai tay xếp bằng lên gối. Dường như họ đã nhẫn nại chờ đợi như vậy từ mấy thế kỉ nay rồi.
Tobie hiểu ngay rằng cậu chẳng có gì để mong đợi cả: chính cậu mới là người được mong đợi nhất.
Họ hằng trông mong ở cậu.
Ngay tức thì, dù không thêm một phần nghìn ly nào, cậu cũng cảm thấy mình thật cao lớn.
Cậu từ từ đứng dậy như người nhập được phép lạ.
Đúng là tình thế thật nguy kịch nhưng ít nhất là cậu cũng nhận thức được điều đó. “Biết chiều trời nước đời chẳng khó”, bà Alnorell thường nói vậy với lão thủ quỹ Peloux để lão lo giùm bà chất đầy kho báu ngày càng kếch xù.
Ít nhất một lần trong đời Tobie đã nghe theo lời khuyên của bà già Radegonde. Cậu tìm cách định liệu.
Đầu tiên, cậu ngồi bệt xuống đất, cởi tất ra. Cậu hơ khô nó gần lửa. May sao lửa vẫn còn cháy. Cậu có thể tìm thấy củi bằng cách đào xuống nền và nhổ lấy dằm gỗ. Cậu còn lại bảy que diêm. Cậu để cái hộp quý giá đó sang một bên. Cũng may mà lửa không bốc khói. Chắc chắn trong thân cây phải có vài cái khe để khói thoát ra và đưa không khí vào. Tobie vẫn hít thở được tốt.
Không khí, nhiệt độ, ánh sáng… Cậu chỉ còn thiếu một chút lương thực nữa thôi.
Cậu dỡ trong túi ra từng món đồ ăn. Cả thảy hơn trăm món.
Tobie nhẩm tính những ngày còn lại từ giờ đến mồng một tháng Tư. Một trăm hai mươi ngày. Như vậy là suốt bốn tháng trời, cậu chi được ăn mỗi ngày một món. Một quả trứng, một cái bánh quy, một góc mỡ lá hun khói, hay một chiếc lá địa y…
Tobie nhăn mặt. Như vậy thì vừa xoẳn. Có thật vừa đủ không đây? Tốt hơn hết ta cứ nói thẳng ra là Tobie đang lâm vào cảnh hết sức bi đát: cái chết cầm chắc trong cảnh chịu đựng ghê gớm.
Nuôi một đứa trẻ mười ba tuổi bằng một quả trứng mỗi ngày còn kinh khủng hơn cả việc đưa cho đội bóng gồm mười một con bọ đầu dài một quả bóng gỗ rỗng trong một cuộc thi đấu nhảy ô. Bọn chúng sẽ lập tức nuốt chửng quả bóng còn trọng tài khôn hồn thì phòng xa cho bộ đùi của mình.
Tobie ngồi nhìn đôi tất đang hong khô gần ngọn lửa. Cậu nhìn lên tường thấy bông phong lan đang nhảy múa dưới ánh lửa. Cậu đưa mắt nhìn xuống nền hang, nhìn thấy nhúm mốc hung đỏ còn sót lại. Cậu nhíu mày, đứng dậy và lại gần đống mốc.
Nhúm mốc đã nhân đôi.
Ngày hôm qua, cậu vẽ một vòng tròn bằng than trên nền đất. Đấy là bảng màu của cậu bé, trên đó cậu rải nhúm mốc ra để thử màu. Thế mà bây giờ vệt mốc đã ăn rộng ra mép vòng tròn. Chính xác là nó đã gấp đôi.
Tobie gí tay vào đám mốc. Cậu giơ lên nhìn, thấy kinh kinh. Nó giống như một thứ bột nhầy nhầy. Cậu bé không để phí một giây, cho tay vào mồm. Cậu nhấm thử một lúc lâu và phải công nhận là không đến nỗi quá dở. Vị của nấm mục. Cậu chấm bằng hai ngón tay rồi chấm đầy thêm ngón cái nữa, sau đó quay lại bên đống lửa.
Tobie không kém phần tự hào về bản thân. Giống như tất cả các cơ thể sống, nấm mốc không ngừng phát triển, vậy là cậu sẽ có một nguồn dự trữ thức ăn tươi vô hạn (nếu có thể coi nấm mốc là đồ tươi). Với một mẩu thịt hay một quả trứng kèm vào, và lấy tuyết tan làm nước uống, thế cũng thành một bữa ăn cho mỗi ngày.
Nhưng đến đây, Tobie vấp phải khái niệm ngày. Ngày là thế nào khi người ta sống trong một cái hang tối đen? Làm sao biết được giờ giấc khi không có ánh mặt trời? Bà ngoại cậu có một cái đồng hồ mỗi giờ trôi qua lại đổ chuông báo. Cả Đại Thụ chỉ có chừng hai đến ba cái như vậy. Người dân chủ yếu dựa vào mặt trời hoặc độ sáng. Nhưng ở đây, trong cái hốc này thì làm sao biết được giờ? Liệu trong cái hang này con có một dấu hiệu nào bị thời gian chi phối không nhỉ? Cậu suy nghĩ mãi.
Tobie chỉ tay lên bụng. Cậu đã tìm ra.
Dạ dày cậu vốn có độ chính xác của đồng hồ.
Khi đói, nó sẽ réo lên ầm ĩ chẳng kém gì đồng hồ quả lắc. Đầu tiên cậu tính là mình sẽ phải phân bố thời gian theo nhịp đói. Có vẻ như rất chuẩn xác. Một lần đói bụng, hai lần đói bụng, ba lần… May thay, cậu không dừng ở đấy.
Bởi Tobie chỉ đủ đồ ăn cho một trăm hai mươi ngày chứ đâu phải cho một trăm hai mươi lần đói bụng. Nếu cơn đói xuất hiện sau mười hai tiếng thì chỗ thức ăn đó chỉ đến tháng Hai là hết, đó sẽ là ngày ăn mặn cuối cùng trước tuần chay. Và mùa chay sẽ bắt đầu đầy khổ ải với chế độ dinh dưỡng trăm phần trăm nấm mốc cho đến tận tháng Tư. Cậu phải thoát khỏi cái nạn này. Không, cậu không thể chỉ nghe theo cái dạ dày báo đói.
Cậu tiếp tục suy nghĩ.
Nhất tịnh cậu phải tính được giờ. Có cái gì trong hốc này biến đổi theo thời gian nhỉ?
Mắt cậu liếc sang đám mốc khi nãy. Cậu ngoác miệng cười. Nó không những nuôi sống cậu mà còn là đồng hồ cho cậu xem giờ.
Tobie vạch thêm một vòng tròn thứ hai bên ngoài vòng tròn cậu vẽ từ hôm trước. Trong vòng hai mươi tư tiếng, thứ bột màu hung lan từ vòng này sang vòng khác. Cậu chỉ việc rút bỏ phần nằm ngoài vòng nhỏ. Khi nấm mốc chạm đến vòng thứ hai nghĩa là hai mươi tư tiếng đã trôi qua và lúc đó cậu có thể chén bữa thứ hai. Lượng bột mốc lấy ra mỗi ngày cũng đủ để cậu nuôi sống bản thân.
Và mùa đông của Tobie đã mở ra như vậy. Không khí, nước, nhiệt độ, ánh sáng, thức ăn và ý thức về thời gian. Vậy là cũng đủ đề cầm cự trong bốn tháng. Mấy ngày đầu cậu bé rất phấn chấn. Mình đã thoát nạn. Mình sẽ sống. Mình sẽ lại được thấy ánh sáng ban ngày.
Nhưng khi ăn mừng ngày thứ ba bằng mẩu bánh mì cứng với một đĩa nấm mốc và nhẩm tính hãy còn một trăm mười bảy ngày nữa, cậu hiểu ngay rằng người ta không chỉ sống bằng không khí, nước, nhiệt độ, ánh sáng, thức ăn và ý thức về thời gian.
Vậy cậu bé còn than phiền gì nữa đây? Người ta còn sống bằng gì ngoài những cái đó ra?
Chúng ta còn sống bằng những thứ khác.
Đó là kết luận của Tobie.
Chúng ta còn sống bằng những thứ khác.
Hai ngày tiếp theo diễn ra theo cách tương tự: Tobie tìm kiếm thứ khác đó. Nhưng không có lấy một tí mẩu rẻo nào để ra được cái thứ khác đó trong vòm hang này. Không có lấy một con côn trùng ngồ ngộ nào để đuổi bắt xung quanh đống củi. Rồi cậu lại nhớ ra đám mốc. Cậu hy vọng lát nữa sẽ làm được thứ khác đó từ nấm mốc vì nấm cũng sống như cậu, cũng lớn lên như cậu. Có thể nó cũng có một linh hồn đâu đó nằm giữa đám mốc.
Nhưng sau khi đã nói chuyện với nó vài tiếng đồng hồ bằng cái giọng thân tình như của người bạn lâu năm, cậu tự nhủ cứ cái kiểu nói chuyện này thì chỉ một tuần là cậu hóa điên. Cậu hét toáng lên trong hang:
- Tobie! Không được nói chuyện với đám nấm mốc này nữa! Tobie!
Giọng cậu vang vọng khắp hang. Cậu cảm thấy trấn tĩnh hơn nhiều. Tuy nhiên, cậu lại quay ra nói vài câu ngắn gọn xin lỗi đám mốc rằng mình không làm gì xấu với nó cả, rằng nó giúp đỡ cậu rất nhiều, chỉ có điều cậu sẽ không nói chuyện với nó nữa.
Tobie đào sâu thêm chút nữa vào thân gỗ và lôi ra vài dằm gỗ nhỏ để khêu lửa bùng lên, rồi cậu ngồi xuống.
Cậu nhớ đến ông Pol Colleen.
Pol Colleen là một ông già điên. Người ta miêu tả ông như vậy trong khi ông không già cũng chẳng điên. Có những từ nghe vậy mà chẳng nói lên điều gì cả: những người bị gọi là “thiểu năng trí tuệ” trái lại thường có đầu óc rất phức tạp, những kẻ “đại-ma mãnh” thì rất có thể là những người vừa nhỏ thó vừa ngu ngốc.
Ông Pol Colleen chỉ có duy nhất một điểm hết sức độc đáo: ông sống một mình. Một mình một cách ngon lành. Ông sống trong một nhánh cây tận cùng của tận cùng Cành La, phía mặt trời mọc. Ông uống những giọt sương và ăn giòi trong khu trại nhỏ của lũ mòng ngay gần nhà. Tobie mới chỉ đến đó đúng một lần. Ông Colleen ngoái lại mỉm cười với cậu bé mà không hề trách mắng cậu đã tự tiện đến đây, thế nhưng ông cũng không nói với cậu bé câu nào. Tobie quan sát cuộc sống của ông. Trông ông có vẻ hạnh phúc.
Ông ngồi viết bên một cái bàn nhỏ. Ông viết không ngơi tay. Mỗi năm một lần, ông đến lấy giấy ở nhà Asseldor, họ rất vui lòng biếu không giấy cho ông. Ông cũng tự tay chế ra mực trắng bằng cách nghiền những con giòi non vì màu giấy đã chuyển màu xám sẫm. Ông viết ra những bản thảo viết tay dài giống như bầu trời mùa hạ sau cơn giông.
Ông Pol Colleen viết từ sáng đến tối.
Một ngày mùa xuân, khi lệnh cấm viết và cấm sử dụng giấy ban hành thì cũng là lúc ông biến mất.
Tobie đang ngắm bông hoa cậu vẽ trên tường.
Cậu cũng phải có một tác phẩm. Như ông Pol Colleen.
Ngoài không khí, nước và những thứ linh tinh khác, cậu cần một tác phẩm. Cậu tạo ra một bảng màu mới trong góc hang, để vào đó một nắm bột mốc trích từ khẩu phần ăn. Kể từ hôm đó, Tobie dồn tâm trí cho tác phẩm của mình.
Trên các bức tường trong hang, cậu bắt đầu họa ra thế giới quen thuộc của mình.
Cậu vẽ bức tranh về Đại Thụ.
Bức tranh được dựng nên giống như một cửa kính hình hoa hồng xung quanh bông lan. Có hàng chục cảnh tượng, phong cảnh, chân dung chồng chéo hay xếp đè lên nhau. Không có một không gian địa lý chính xác như bản đồ mà đó là không gian tưởng tượng của Tobie. Khi vẽ Đại Thụ, cậu họa nên chính mình trong khung kính màu rộng lớn của kỷ niệm.
Khi đến gần, ta sẽ nhìn thấy các nhân vật cả quen lẫn lạ, những loài côn trùng cả có thực lẫn tưởng tượng. Ta sẽ nhận ra cậu bé Nils và cha, thấy ông bà Sim, Maïa và tất cả những người khác, thấy Rolok cưỡi trên lưng ốc sên, thấy chị em nhà Asseldor bước ra khỏi ao Mụ trong những chiếc váy trắng. Ta cũng nhìn thấy khán phòng của Hội đồng, lúc nhúc như ở miệng hố, đầy những con bọ đầu dài đeo cà vạt. Có cả rừng, cả những cành cây chan hòa ánh sáng lẫn những cành tối thui, có Limeur và Torn biến thành người vắt sữa ấu trùng, còn thấy cả một con ấu trùng giống Jo Mitch lạ thường… Ở một góc, chân dung của Léo Blue được dựng nên với hai bộ mặt, một tươi cười, một nhăn nhó. Trên cao trải ra những phong cảnh được vẽ hết sức chân thực, ấy là một phiên bản hoàn hảo ngôi nhà Chỏm Cây của gia đình Lolness khi xưa, có cả khu vườn và phía cuối vườn là cành rỗng.
Ngày qua ngày, bức tranh trải rộng trên khắp vách hang, màu đỏ được vẽ nên từ nấm mốc, màu đen từ than. Mỗi khi hoàn thành một chi tiết tranh, Tobie hơ ngọn đuốc lại gần để cố định màu và không cho nấm mốc lem ra ngoài nét vẽ.
Bức tranh ấy có cả ngày vui lẫn những ngày buồn. Ban đêm, Tobie không ngủ mơ nữa. Những giấc mơ của cậu đã hiển hiện trên vách hang, trong ánh lửa.
Có một cảnh mà Tobie vẽ lại trong nước mắt. Cậu phải mất mấy ngày mới hoàn thành được. Cảnh đó diễn ra trong phòng khách nhỏ cực kỳ sạch sẽ của ngài Zef Clarac, công chứng viên trên Ngọn Cây. Cậu vẽ lại khung cảnh đó với một sự chính xác đến từng chi tiết nhỏ.
Chính cảnh này đã định đoạt số phận của Tobie. Nhưng để hiểu được bức vẽ này chúng ta phải lùi về quá khứ và kể lại toàn bộ tai họa xảy đến với gia đình Lolness.
Toàn bộ.
Chúng ta hãy còn nhớ những tình huống kịch tính xảy ra khi Rolok Mặt Choắt mang bức thư của Hội đồng đến nhà Lolness. Ba tuần sau đó lại có tiếp một bức thư khác đến tay vợ chồng Lolness. Thư được nhét qua khe cửa vào một buổi sáng. Phong bì có màu đen. Tobie cẩn thận mang lại cho cha như cầm một vật dễ vỡ.
Ông Sim Lolness để nó trên bàn làm việc. Ông gọi vợ đến. Từ khi sống ở Cành La, vì tình thế bắt buộc, ông đã học cách lao động bằng đôi bàn tay. Bây giờ ông đã trở nên rất khéo léo. Vì vậy ông vừa mới chế ra một đôi kính mới, mắt kính làm bằng cánh ruồi. Một việc rất kỳ công mà ông buộc phải làm sau khi ngồi lên làm gãy nát cái kính cũ.
Đôi kính mới hãy còn chưa khô, lúc này ông đang phải làm việc bằng chiếc kính lúp to khiến ông nhức hết cả mắt. Nên ông nhờ vợ mở phong bì và đọc bức thư.
Khi vừa đọc qua dòng đầu tiên, bà Maïa lặng đi vài giây rồi òa lên khóc.
Hai bố con lo lắng không hiểu có chuyện gì. Lại thêm bi kịch nào rơi xuống đầu họ nữa đây? Mỗi người hình dung ra một thảm kịch tệ hại nhất. Vì bà Maïa không tài nào đọc to lên được nên ông Sim đưa thư cho con trai. Nhìn qua nội dung thư là Tobie cảm thấy yên lòng ngay. Không có gì nghiêm trọng cả. Cậu thản nhiên thả rơi bức thư.
Giáo sư bắt đầu sốt ruột trước điệu bộ trái ngược của hai mẹ con. Ông ra lệnh:
- Đọc thư lên cho bố nghe nào!
Tobie lập tức thông tin vắn tắt: bà ngoại Alnorell vừa chết. Bà Radegonde không còn trên cõi đời này nữa.
Ông Sim trút một tiếng thở phào. Tưởng gì… hóa ra chỉ là vậy. Ông hôn lên trán vợ một cái như thể bà vừa đánh mất cái đê khâu, rồi ông đi ra vườn.
Tobie lại ngồi gần mẹ. Cậu thấy mình thật vụng về. Cậu bé muốn an ủi mẹ nhưng không biết phải nói gì.
Nếu mở miệng, cậu sẽ nói một câu đại loại như “không sao đâu mẹ, bà cũng già rồi” hay “mẹ đừng lo, bà cũng ngốc nghếch lắm”… May sao cậu biết tự kiềm chế. Cậu ngồi im lặng bên mẹ một lúc lâu.
Ngày hôm đó, trong khi ngồi nhìn mẹ, Tobie hiểu ra một điều, khi người ta khóc ai đó cũng là khóc cho những gì người đó không bao giờ đem lại cho ta.
Bà Maïa khóc người mẹ mà bà thực sự chưa có bao giờ.
Chắc chắn một điều là từ nay về sau, bà không còn cơ hội có được một người mẹ lý tưởng.
Chính vì lẽ đó mà bà khóc nức nở.
Cứ như thể cho đến phút chót, người ta vẫn nuôi hy vọng sẽ nhận được một cử chỉ hay một câu nói bù đắp lại tất cả những tháng ngày trước đây. Như thể cái chết này đã vĩnh viễn giết đi cử chỉ chưa từng làm hay câu nói chưa từng thốt lên.
Tobie nghĩ rằng đấy là hệ quả cuối cùng chứng tỏ sự tàn nhẫn của bà ngoại cho đến lúc chết, kiểu như: “Khi tao còn trên đời, tao làm cho mày khổ sở, và khi tao ra đi, tao cũng làm vậy!”
Cái đó gọi là “hệ quả kép Radegonde”: ngay cả khi đã chết rồi, bà vẫn làm đau người khác.
Sáng hôm sau, bà Maïa thu xếp hành lý.