Chương 4
Buổi sáng ngày 25 tháng 8 bắt đầu thật rạng rỡ, không một bóng mây. Một buổi sáng rất quyến rũ, ngay cả một kẻ mắc cái bệnh lười nhác kinh niên cũng dậy sớm.
Rất nhiều người ở Khách sạn Hải Tặc dậy sớm sáng hôm đó.
Lúc tám giờ Linda ngồi trước bàn phấn, lật úp một quyển sách nhỏ bìa da thật dày, lóng ngóng mở ra rồi nhìn mặt mình trong gương. Môi cô bé mím chặt và con ngươi trong mắt cô thu nhỏ lại.
“Mình sẽ làm thế thôi…” cô bé thì thào.
Cởi bộ pyjama ra, Linda mặc áo tắm vào. Nó nhanh tay khoác lên mình cái áo choàng và buộc dây đôi giày vải đế bện thừng đang mang trên chân.
Nó ra khỏi phòng rồi đi dọc theo hành lang. Cuối hành lang đó cánh cửa mở ra ban công dẫn tới một cầu thang ở bên ngoài xuống thẳng các tảng đá bên dưới khách sạn. Có một cái thang nhỏ bằng sắt gắn chặt vào tảng đá dẫn xuống nước được nhiều khách trọ dùng khi muốn ngâm mình trước bữa điểm tâm vì đỡ mất thời gian hơn đi xuống bãi tắm chính.
Khi Linda bắt đầu đi xuống từ ban-công thì gặp bố đang đi lên.
“Con dậy sớm quá, đi ngâm mình à?” ông bố hỏi.
Linda gật đầu. Hai cha con đi ngang qua nhau.
Tuy nhiên thay vì tiếp tục leo xuống tảng đá, Linda lại đi vòng qua khách sạn, tới tận lối mòn dẫn xuống con đường đắp cao nối khách sạn với đất liền. Thủy triểu đang lên và con đường ấy bị ngập nước, nhưng chiếc thuyền chở khách trọ được buộc vào một cầu tàu nhỏ. Lúc đó người phụ trách việc ấy vắng mặt. Linda lên thuyền, tháo dây buộc rồi tự mình chèo qua.
Nó buộc chặt chiếc thuyền ở bờ bên kia, đi bộ lên con dốc qua gara của khách sạn rồi đi tiếp tới tận cửa hàng bách hóa.
Bà chủ tiệm vừa mới hạ cửa chớp xuống và đang bận quét sàn nhà. Bà có vẻ kinh ngạc khi trông thấy Linda:
“Này cháu, dậy sớm thật đấy.”
Linda cho tay vào túi áo choàng tắm, lấy ra một mớ tiền. Nó tiến tới để mua hàng.
Christine Redfern đang đứng trong phòng Linda khi cô bé về tới.
“Ôi, cháu đây rồi,” Christine kêu lên. “Cô cứ tưởng cháu vẫn chưa thức dậy chứ.”
“Không, cháu vừa đi tắm biển ạ,” cô bé nói.
Để ý thấy cái gói trên tay Linda, Christine ngạc nhiên nói: “Bưu điện hôm nay đến sớm thật.”
Linda đỏ mặt, luống cuống. Nó vốn có tính hay bồn chồn lo lắng nên gói hàng tuột khỏi tay. Sợi dây mỏng mảnh bị đứt và một số món trong gói lăn ra sàn nhà.
Christine kêu lên:
“Cháu mua nến làm gì thế?”
Nhưng để cho cô bé bớt buồn, Christine không đợi trả lời mà nói tiếp trong khi giúp nhặt lên mấy cây nến lên khỏi sàn nhà:
“Cô vào để hỏi cháu sáng nay có muốn cùng cô đến Vũng Hải Âu không. Cô muốn phác họa ở đấy.”
Linda sốt sắng nhận lời.
Vài ngày vừa rồi nó đã hơn một lần tháp tùng Christine đi vẽ phác họa rồi. Christine vẽ cũng không chuyên gì, nhưng chắc cô vẽ là để tôn lại niềm kiêu hãnh từ khi chồng cô giờ đây dành hết thời gian để đi với Arlena Marshall.
Thời gian qua, Linda Marshall mỗi ngày một rầu rĩ và cáu kỉnh hơn. Cô bé thích đi với Christine vì cô ấy mải mê công việc nên rất ít nói. Linda cảm thấy như vậy cũng tốt, gần như ở một mình và thật kỳ lạ là nó khao khát kiểu bầu bạn đó. Có một mối đồng cảm sâu sắc giữa nó và người phụ nữ ấy, có lẽ do cả hai căm ghét một người.
Christine nói: “Cô sẽ chơi quần vợt lúc mười hai giờ, vì thế chúng ta nên khởi hành sớm. Mười giờ rưỡi được không?”
“Được ạ. Cháu sẽ chuẩn bị sẵn sàng. Gặp cô trong sảnh nhé.”
Vừa rảo bước ra khỏi phòng ăn sau một bữa điểm tâm rất muộn, Rosamund Darnley bị Linda đụng phải khi cô bé chạy nhanh xuống cầu thang.
“Ôi, xin lỗi cô Darnley.”
Rosamund nói: “Buổi sáng thật đẹp trời, phải không cháu? Hầu như không tin được sau một ngày như hôm qua.”
“Cháu biết ạ. Cháu sắp đi với cô Redfern đến Vũng Hải Âu. Hẹn gặp cô ấy lúc mười giờ rưỡi. Chắc muộn mất rồi.”
“Chưa đâu, chỉ mới mười giờ hai mươi lăm thôi.”
“Ôi! May quá.”
Cô bé thở hổn hển và Rosamund tò mò hỏi:
“Cháu không sốt đó chứ, Linda?”
Mắt cô bé sáng rực và có hai mảng màu ửng đỏ trên đôi má.
“Ô, không đâu. Cháu không sốt đâu ạ.”
Rosamund mỉm cười.
“Thật là một ngày quá đẹp nên cô thức dậy để đi dùng điểm tâm. Cô thường ăn sáng trên giường. Nhưng hôm nay cô đi xuống đối mặt với món trứng và thịt lợn muối xông khói như một người đàn ông.”
“Cháu biết - sau ngày hôm qua quá tuyệt vời. Buổi sáng Vũng Hải Âu tuyệt lắm. Cháu sẽ bôi rất nhiều dầu để da chuyển sang màu nâu rõ rệt ạ.”
“Phải, Vũng Hải Âu thật tuyệt vào buổi sáng. Và yên tĩnh hơn bãi biển ở đây.”
Linda nói, hơi bẽn lẽn: “Cô cũng đến nhé!”
Rosamund lắc đầu. “Sáng nay không được. Cô bận việc khác rồi.”
Christine Redfern đi xuống cầu thang. Cô mặc bộ pyjama đi biển mềm mại rộng thùng thình, có tay áo dài và ống quần rộng bằng chất liệu màu xanh lá với họa tiết màu vàng.
Rosamund cố lắm mới không buột miệng nói với Christine rằng màu vàng và xanh lá cây là hai màu hết sức không thích hợp với nước da đẹp hơi xanh xao của cô ta.
Vẫn luôn bực mình khi thấy người ta không có ý thức về quần áo đang mặc, Rosamund thầm nghĩ:
“Nếu mình giúp cô nàng chọn trang phục thì chắc tay chồng kia phải bật dậy mà ngắm. Arlena thì dù ngốc nghếch nhưng lại biết cách ăn mặc lắm. Cô vợ khốn khổ này thì trông y hệt như rau diếp héo.”
Cô nói thành lời: “Đi chơi vui vẻ nhé! Tôi ra Gành Nắng đọc sách.”
Hercule Poirot ăn sáng trong phòng như thường lệ, với cà phê và mấy miếng bánh mì.
Thế nhưng vẻ đẹp của buổi sáng lại kéo ông ra khỏi khách sạn sớm hơn thường lệ. Ông xuống bãi tắm lúc mười giờ, sớm hơn thường lệ ít nhất nửa tiếng đồng hồ. Bãi tắm trống vắng, chỉ có một người.
Người đó là Arlena Marshall.
Mặc áo tắm màu trắng, đầu đội cái nón Trung Hoa, cô ta đang cố đưa cái bè gỗ màu trắng xuống nước. Poirot lịch thiệp tới giúp, đôi giày da trắng mềm mượt như nhung chìm dưới nước.
Cô ta cám ơn ông với một cái liếc xéo. Ngay khi đang đẩy bè ra xa, cô ta gọi:
“Ông Poirot ơi!”
Poirot lao tới mép nước: “Gì vậy, thưa cô?”
“Giúp tôi một việc, được không?”
“Việc gì cũng được.”
Cô ta mỉm cười với ông, thì thào:
“Đừng cho bất cứ ai biết tôi ở đâu nhé!” Cô ta ngước mắt có ý khẩn cầu. “Ai cũng theo dõi xem tôi đi đâu. Tôi chỉ muốn đi một mình chí ít một lần này thôi.”
Cô ta chèo đi thật mạnh tay.
Poirot đi lên bãi biển. Ông lẩm bẩm tự nhủ:
“Ah ca, jamais . Mình không tin chuyện đó đâu, par exemple .”
Ông chẳng tin chuyện Arlena Stuart, gọi theo nghệ danh của cô ta, trong đời mình lại có lúc muốn ở một mình.
Hercule Poirot là người rành rẽ sự đời nên biết thừa. Chắc chắn Arlena Marshall đang có hẹn và Poirot biết rất rõ hẹn với ai.
Hay ông tưởng là mình biết rõ, nhưng ông lại phát hiện ngay tại đó mình đã sai lầm.
Bởi vì ngay khi cô ta dập dềnh vòng qua mũi đất của vịnh và mất dạng thì chồng cô ta – Kenneth Marshall – theo sát sau lưng Patrick Redfern từ khách sạn rảo bước xuống bãi biển.
Marshall gật đầu chào thám tử. “Chào ông Poirot. Có thấy vợ tôi ở đâu quanh đây không?”
Câu trả lời của Poirot rất ngoại giao.
“Vậy là bà nhà dậy sớm quá nhỉ?”
“Cô ấy không có trong phòng.” Anh ta ngước nhìn trời. “Một ngày thật đẹp. Tôi sê tắm ngay tức thì. Sáng nay phải đánh máy rất nhiều.”
Patrick Redfern, ít cởi mở hơn, hết ngó lên rồi lại nhìn xuống bãi biển. Anh ta ngồi xuống gần Poirot và chuẩn bị sẵn sàng để đợi nhân tình tới.
“Cô nhà đâu rồi?” Poirot hỏi. “Cô ấy cũng dậy sớm hay sao?”
“Christine á? Ôi, vợ tôi đi vẽ rồi. Dạo này cô ấy lại mê vẽ.” Anh ta đáp có vẻ sốt ruột, tâm trí rõ ràng để ở đâu đâu.
Thời gian qua đi, anh ta để lộ ra một cách quá thô thiển chuyện mình đang nóng lòng đợi Arlena đến. Mỗi lần nghe có tiếng bước chân, anh ta lại hăm hở quay đầu lại xem ai đang từ khách sạn đi xuống.
Thất vọng cứ tiếp nối thất vọng.
Trước tiên là vợ chồng nhà Gardener với đầy đủ đồ đan len và sách, rồi sau đó cô Brewster tới nơi.
Vẫn siêng năng như từ trước tới giờ, bà Gardener ngồi vào cái ghế của mình, bắt đầu vừa nhanh nhẹn đan len vừa nói chuyện:
“Này ông Poirot! Sáng nay bãi biển vắng thật đấy. Mọi người đâu cả rồi?”
Poirot trả lời rằng hai gia đình Masterman và Cowan, cả đám người trẻ tuổi, đã lên thuyền buồm đi chơi cả ngày.
“Vì sao không nghe tiếng họ cười và gọi nhau ơi ới ở quanh đây lại thấy hoàn toàn khác hẳn nhỉ? Và chỉ có một người xuống tắm là đại úy Marshall.”
Marshall lúc này đã bơi xong. Anh vừa đi lên bãi biển vừa vung vẩy cái khăn tắm.
“Sáng nay dưới biển khá tốt,” anh nói. “Thật không may tôi có rất nhiều việc phải làm. Phải bắt tay vào việc thôi.”
“À, như thế thật quá tệ nhỉ, đại úy Marshall? Vào một ngày đẹp trời như thế này nữa. Ôi chao, chẳng phải hôm qua quá khủng khiếp hay sao? Tôi đã nói với ông nhà tôi nếu thời tiết cứ tiếp tục như thế, chúng tôi phải rời khỏi đây thôi. Thật là chán khi thấy sương mù khắp nơi trên đảo. Khiến ta có một cảm giác thật quái đản, nhưng tôi vẫn luôn ngờ vực khí trời mãi từ khi còn bé. Đôi khi tôi vẫn cảm thấy phải hét lên, hét lên mãi mới được. Và tất nhiên cha tôi rất bực mình chẳng chịu nổi. Nhưng mẹ tôi là một phụ nữ đáng yêu và bà nói với cha tôi: Sinclair à, nếu con bé cảm thấy như thế thì cứ để cho nó làm như thế. La hét là cách nó bày tỏ ý kiến của nó. Và tất nhiên là cha tôi đồng ý. Ông hết lòng yêu quý mẹ tôi và làm mọi việc bà bảo. Họ là một cặp đôi hoàn hảo đáng yêu, chắc chắn ông Gardener cũng đồng ý với tôi. Họ là một đôi vợ chồng đặc biệt rất hiếm có, phải vậy không Odell?”
“Phải, em yêu à,” ông chồng đáp.
“Còn con gái ông sáng nay đâu rồi, đại úy Marshall?”
“Linda à? Tôi không biết. Chắc nó đang đi loanh quanh đâu đấy trên đảo.”
“Ông biết đó, đại úy Marshall à, tôi trông con bé ấy có hơi tiều tụy. Nó cần được bồi dưỡng và đối xử hết sức cảm thông.”
Kenneth Marshall nói cộc lốc: “Linda không sao cả.”
Anh ta đi lên khách sạn.
Patrick Redfern không xuống nước. Anh ta hết ngồi chỗ này rồi chỗ nọ, ngóng về phía khách sạn một cách lộ liễu. Trông anh ta bắt đầu có vẻ hơi quạu quọ.
Cô Brewster thật hoạt bát vui tươi khi tới nơi. Cuộc chuyện trò vẫn sôi nổi như vào buổi sáng trước đó. Bà Gardener vẫn huyên thiên bàn chuyện phiếm, còn cô Brewster thì cứ đột nhiên lớn tiếng nói cụt ngủn ngắt ngang.
Sau cùng cô ta nhận xét: “Bãi biển có vẻ hơi trống vắng. Mọi người đi ngắm cảnh cả rồi hay sao?”
Bà Gardener đáp:
“Tôi vừa nói với ông nhà tôi mới sáng hôm nay thôi, đơn giản là chúng tôi phải đi du ngoạn lên vùng Dartmoor. Hết sức gần và nếu kết hợp cùng đi cả thì thật là quá lãng mạn. Tôi muốn tham quan cái nhà tù ấy - ở Princetown, phải không? Em nghĩ mình nên thu xếp ngay và mai sẽ đi đến đó, Odell à.”
“Phải, em yêu,” ông chồng đáp lại.
Hercule Poirot nói với cô Brewster:
“Cô sẽ xuống tắm chứ, Mademoiselle?”
“Ôi, tôi đã ngâm mình trước bữa điểm tâm rồi. Ai đấy còn suýt làm tôi vỡ đầu vì một cái chai. Vứt ra từ một cửa sổ của khách sạn.”
Bà Gardener nói: “Làm thế nguy hiểm hết sức. Tôi có một ông bạn rất thân bị động não chỉ vì một ống kem bằng thiếc rơi trúng ông ấy lúc đang ở ngoài phố - ném ra từ một cửa sổ ở tầng thứ ba mươi sáu. Một việc hết sức nguy hiểm. Ông ấy đã bị tổn hại rất lớn.” Bà bắt đầu lục lọi trong những cuộn len của mình. “Này Odell, chắc em đã không lấy cuộn len màu đỏ tía thứ nhì ấy. Ở trong ngăn kéo thứ nhì của bàn giấy trong buồng ngủ, hay có thể ở trong ngăn kéo thứ ba.
“Phải, em yêu à.”
Ông Gardener ngoan ngoăn đứng dậy và đi vê khách sạn tìm. Bà vợ nói tiếp:
“Đôi khi tôi nghĩ có lẽ ngày nay chúng ta đang đi hơi quá xa. Những gì chắc hẳn xảy ra trong khí trời với tất cả những phát kiến vĩ đại của chúng ta và tất cả những sóng điện, quả tình tôi từng nghĩ điều ấy sẽ dẫn đến rất nhiều bất ổn tinh thần. Tôi thật sự cảm thấy có lẽ đã đến lúc phải gửi một thông điệp mới cho nhân loại. Tôi không rõ, ông Poirot à, ông đã bao giờ quan tâm đến những lời tiên tri từ các kim tự tháp hay chưa.”
“Chưa ạ,” Poirot đáp.
“À, tôi xin bảo đảm với ông chúng rất rất thú vị. Điều gì xảy đến với Matxcơva ở đích xác một trăm dặm đúng hướng bắc của - mà của cái gì nhỉ? - có phải là Nineveh không nhi? - nhưng dù sao đi nữa cứ vẽ một vòng tròn và nó cho thấy những điều đáng ngạc nhiên nhất - và có thể thấy rô chắc hẳn đã có chỉ dẫn đặc biệt, và những người Ai Cập cổ đại ấy không thể nào hoàn toàn tự nghĩ ra tất cả những việc họ đã làm được. Và khi đã đi vào lý thuyết về các con số và ý nghĩa biểu trưng của chúng, vì sao tất cả đều quá rõ ràng tới nỗi tôi không thể nào hiểu sao ai đó lại có thể hoài nghi sự thật về điều đó trong chốc lát chứ.”
Bà Gardener tạm dừng lại có vẻ đắc thắng, nhưng cả Poirot lẫn cô Brewster đều không thấy hứng thú để tranh luận về vấn đề đó.
Poirot rầu rĩ săm soi đôi giày da trắng mượt như nhung của mình.
Emily Brewster hỏi: “Ông đã mang giày lội xuống nước sao, ông Poirot?”
Poirot khẽ đáp: “Chao ôi! Tôi đã sơ suất.”
Emily Brewster hạ giọng: “Sáng nay ả mồi chài đàn ông của chúng ta đâu rồi? Ả đến muộn.”
Bà Gardener nhướn mắt lên khỏi mớ đồ đan len để ngó kỹ Patrick Redfern, thì thào:
“Trông anh ta y hệt một đám mây giông. Trời ơi, quả tôi cảm thấy toàn bộ chuyện này thật quá đáng thương. Tôi tự hỏi đại úy Marshall nghĩ gì về tất cả chuyện này. Ông ấy là một người trầm lặng tử tế - một người Anh rất đúng mực và không hề tự phụ. Thật chẳng thể nào biết ông ấy đang nghĩ gì.”
Patrick Redfern đứng dậy rồi bắt đầu đi lui đi tới trên bãi biển.
Bà Gardener lại thì thào: “Giống hệt một con hổ.”
Ba cặp mắt quan sát từng bước đi của anh ta. Sự soi mói của họ làm cho Patrick Redfern có vẻ khó chịu. Trông anh ta giờ đây còn hơn là quạu quọ nữa. Có vẻ như đang bừng bừng nóng giận.
Trong khung cảnh tĩnh lặng, một hồi chuông điểm giờ từ đất liền mơ hổ vẳng đến tai họ.
Emily Brewster nói nhỏ:
“Lại có gió từ hướng đông. Là điềm tốt khi nghe rõ chuông nhà thờ điểm mấy giờ.”
Chẳng ai nói gì nữa cho tới khi ông Gardener quay lại với một cuộn len màu đỏ tía rực rỡ.
“Sao thế Odell? Anh đi lâu quá!”
“Xin lỗi em yêu, nhưng nó không hề ở trong bàn giấy của em. Anh tìm thấy nó trong ngăn tủ áo của em đó.”
“À, thế chẳng quá lạ thường hay sao? Đáng lẽ em không được khẳng định đã bỏ nó vào ngăn kéo bàn giấy. Thật may mắn vì chưa bao giờ phải cho lời khai trước tòa. Chỉ tổ gây rắc rối cho chính mình đến chết đi được trong trường hợp không nhớ ra điều gì đó thật đích xác.”
“Bà nhà tôi rất có lương tâm đó ạ,” chồng bà nói.
Chừng năm phút sau Patrick Redfern hỏi:
“Sáng nay có chèo thuyền không, cô Brewster? Có phiền không nếu tôi đi cùng với cô?”
Cô Brewster hớn hở đáp: “Rất vui lòng.”
“Ta hãy chèo thuyền quanh đảo này!” anh ta đề nghị.
Cô Brewster xem đồng hổ đeo tay:
“Còn thời gian không nhỉ? Ôi còn đấy, chưa mười một giờ rưỡi mà. Nào, ta khởi hành thôi!”
Họ cùng đi xuống bãi biển.
Patrick Redfern cầm mái chèo quạt nước lượt đầu tiên. Anh ta chèo một cái thật mạnh. Chiếc thuyền lao tới trước.
Emily Brewster nói vẻ hài lòng:
“Tốt. Để xem anh có duy trì được như thế hay không?”
Anh ta nhìn cô cười ngạo nghễ, tinh thần đã khá hơn.
“Có lẽ tôi sẽ có nhiều vết bỏng giộp lúc chúng ta trở về.” Anh ta ngẩng đầu lên, hất mái tóc đen ra đằng sau. “Chúa ơi, thật là một ngày tuyệt diệu! Nếu quả có được một ngày hè đích thực ở xứ Anh này thì chẳng chê vào đâu được.”
Emily Brewster nói thật cộc cằn:
“Theo ý tôi thì chả đâu bằng nước cứ Anh. Là nơi đáng sống ở trên đời.”
“Tôi đồng ý với cô.”
Họ vòng qua mũi đất về hướng tây rồi chèo thuyền bên dưới các vách đá. Patrick Redfern ngước nhìn lên:
“Sáng nay có người trên Gành Nắng ư? Có một chiếc ô che nắng kìa. Chẳng biết là ai nữa?”
“Chắc là cô Darnley. Cô ấy có làm ăn với Nhật Bản đấy.”
Họ chèo thuyền tiến lên men theo bờ biển. Bên trái họ là biển khơi.
“Lẽ ra mình vòng theo hướng kia mới phải chứ? Emily Brewster nói. “Chèo phía này bị ngược dòng mất.”
“Không có hải lưu ở đây đâu. Tôi từng bơi ra đây mà có thấy gì đâu. Dù sao cũng không thể đi hướng kia, con đường đắp giờ chưa bị ngập nước.”
“Dĩ nhiên là phụ thuộc thủy triều nữa. Nhưng người ta lúc nào cũng bảo tắm biển ở Vũng Tiên thật nguy hiểm nếu bơi ra quá xa.”
Patrick vẫn đang chèo mạnh tay, đồng thời chăm chú xem xét từng điểm một trên các vách đá.
Emily Brewster chợt nghĩ thầm
“Anh ta đang tìm cô vợ Marshall đây mà. Bởi thế cho nên mới muốn đi với mình. Sáng nay cổ ả không ló mặt ra khiến anh chàng ta thắc mắc chẳng biết ả đang làm gì. Có lẽ cô ả cố tình làm thế. Chỉ là một nước đi của trò chơi - nhằm làm cho anh ta say mê hơn nữa.”
Họ vòng qua mũi đá phía nam của cái vịnh nhỏ xíu tên là Vũng Tiên. Đó là một cái vịnh nhỏ xíu với những hòn đá rải rác khắp trên bãi biển thật là kỳ dị. Gần như nó quay về hướng tây bắc và các vách đá nhô ra khá nhiều ở phía trên. Một nơi được ưa thích nhất để dùng các bữa dã ngoại. Vào buổi sáng khi trời không buông nắng nó không được mọi người ưa thích và hiếm khi có ai tới đó.
Thế nhưng vào dịp này lại có một người trên bãi biển.
Tay chèo của Patrick Redfern khựng lại rồi trở lại bình thường. Anh ta hỏi với giọng điệu làm ra vẻ ngẫu nhiên:
“Này này, ai đấy?”
Cô Brewster nói tỉnh khô:
“Trông như vợ của Marshall.”
Patrick Redfern nói như thể vừa nảy ra ý nghĩ ấy: “Cũng có vẻ thế.”
Anh ta đổi hướng, chèo thuyền vào bờ.
Emily Brewster phản đối: “Ta chẳng muốn lên bờ ở đây, phải không nào?”
Patrick nhanh nhẩu đáp: “Ôi, còn lấm thời gian kia mà.”
Mắt anh ta nhìn vào mắt cô - có gì đó trong đôi mắt ấy, một cái nhìn ngây dại van nài gần giống như ánh mắt của một con chó bất hạnh khiến Emily Brewster lặng thinh. Cô thầm nghĩ:
“Tội nghiệp anh chàng bé lậm quá thể rồi! Ôi trời, đành bó tay thôi. Rồi anh ta sẽ vượt qua thôi.”
Chiếc thuyền đang nhanh chóng cập bờ.
Arlena Marshall đang nằm sấp trên bãi đá cuội, hai cánh tay dang ra. Cái bè gỗ màu trắng đã được kéo lên gần đó.
Có gì đó làm cho Emily Brewster băn khoăn. Như thể cô đang nhìn một thứ mình nhận biết hết sức rõ ràng nhưng về mặt nào đó lại sai bét.
Chừng một hai phút sau cô mới nghĩ ra.
Tư thế của Arlena Marshall là của một người đang tắm nắng. Cô ả từng nằm như thế nhiều lần trên bãi biển gần khách sạn, thân mình màu đồng thau duỗi dài ra và cái nón bằng bìa cứng xanh lục che phần đầu và cổ ả.
Nhưng chẳng hề có nắng trên Bãi Tiên, và trong mấy giờ nữa cũng chưa có. Các vách đá nhô ra ở phía trên che nắng cho bãi biển vào buổi sáng. Một cảm giác sợ hãi mơ hồ bao trùm lên Emily Brewster.
Chiếc thuyền tấp lên bãi đá cuội. Patrick Redfern gọi:
“Này này, Arlena!”
Và rồi tiên đoán của Emily Brewster định hình rõ rệt. Bởi vì cái hình dáng nằm đó chẳng hề động đậy hay đáp lại.
Cô thấy mặt Patrick Redfern biến sắc. Anh ta nhảy ra khỏi thuyền và cô theo sau. Họ lôi thuyền lên bờ rồi bắt đầu đi lên bãi biển tới chỗ cái hình dáng màu trắng nằm im lìm và không có đáp ứng ở gần chân vách đá.
Patrick Redfern đến đó trước nhưng Emily Brewster theo sát đằng sau anh ta.
Cô trông thấy như trong mơ những tay chân màu đồng thau, cái áo tắm hở lưng màu trắng - mớ tóc quăn màu đỏ ló ra bên dưới cái nón màu xanh ngọc thạch - còn thấy một điều khác nữa - cách cánh tay dang ra thật kỳ lạ, không tự nhiên. Cảm thấy trong giây phút đó cái thân xác ấy đã không nằm xuống mà bị ném đi…
Cô nghe giọng Patrick - chỉ là một tiếng thều thào khiếp đảm. Anh ta quỳ sụp xuống bên cạnh hình hài bất động ấy - sờ bàn tay - cánh tay…
“Lạy Chúa tôi, cô ấy chết rồi…”
Rồi sau đó khi nhấc cái nón Trung Hoa lên một chút, anh ta hé nhìn vào cái cổ:
“Ôi Chúa ơi, cô ấy bị siết cổ… bị giết.”
Trong những khoảnh khắc như thế, thời gian dường như dừng lại.
Với một cảm giác kỳ quặc như thể không có thật, Emily Brewster nghe giọng mình cất lên:
“Không được đụng vào bất cứ cái gì… cho tới khi cảnh sát đến!”
Patrick đáp lại như cái máy:
“Không - không - dĩ nhiên là không.” Rồi nói với giọng thều thào khổ đau sâu sắc. “Ai? Ai? Ai lại có thể làm thế này với Arlena chứ? Không phải cô ấy vừa bị sát hại. Đây không thể là sự thật!”
Emily Brewster lắc đầu, hoàn toàn không biết phải nói gì để đáp lại.
Cô nghe anh ta hít vào một hơi - nghe thấy cơn giận dữ điên cuồng đã kìm nén hết mức trong giọng nói của anh ta:
“Lạy Chúa tôi, nếu chính tay tôi tóm được tên ác ôn tồi bại đã làm chuyện này!”
Emily Brewster rùng mình. Trí tưởng tượng của cô hình dung một gã sát nhân đang lẩn trốn sau một trong những tảng đá mòn kia. Rồi cô nghe giọng mình cất lên:
“Kẻ nào làm chuyện ấy hẳn không còn quanh quẩn đâu đây. Phải gọi cảnh sát đến thôi. Có lẽ…” cô phân vân do dự - “một trong hai chúng ta phải ở lại với - với cái xác.”
“Tôi sẽ ở lại,” Patrick Redfern nói.
Emily Brewster khẽ thở phào nhẹ nhõm. Tuy không phải loại phụ nữ sẽ thừa nhận mình thấy sợ hãi, nhưng cô thầm cám ơn vì không phải tiếp tục ở lại trên bãi biển một mình với khả năng kẻ giết người cuồng dại kia vẫn đang nấn ná ngay gần đó.
Cô nói: “Tốt. Tôi sẽ nhanh hết mức có thể được. Sẽ chèo thuyền đi. Không kham nổi cái thang kia đâu. Có ít nhất một viên cảnh sát ở Vịnh Leathercombe này.”
Patrick Redfern khẽ nói như cái máy:
“Phải - phải, cứ làm bất cứ điều gì cô cho là tốt nhất!”
Khi chèo thật mạnh tay ra xa bờ, Emily Brewster thấy Patrick sụp xuống bên cạnh ả đàn bà đã chết và úp mặt vào lồng bàn tay. Thái độ của anh ta có gì đó quá khổ đau vô vọng khiến cô cảm thấy một niềm thương cảm miễn cưỡng. Trông anh ta giống hệt một con chó đang canh chừng bên cạnh bà chủ đã chết. Tuy thế lương tri ngay thật của cô đang nói với cô:
“Có lẽ điều tốt đẹp nhất đã xảy đến với anh ta và cô vợ - với cả Marshall và con bé nữa - nhưng mình không nghĩ anh ta có thể hiểu được, anh chàng đáng thương ấy.”
Emily Brewster là phụ nữ có khả năng ứng phó trong tình huống khẩn cấp.