← Quay lại trang sách

Chương 5

Thanh tra Colgate đứng quay lưng về phía vách đá đợi viên trung sĩ làm xong nhiệm vụ với cái xác Arlena. Patrick Redfern và Emily Brewster đứng gần sát một bên.

Chống tay lên gối đứng dậy bằng một động tác lẹ làng, bác sĩ Neasden nói: “Bị siết cổ - bằng một đôi bàn tay khá khoẻ. Cô ấy hình như không vùng vẫy chống cự lại nhiều lắm. Bất ngờ bị tấn công. Hừm - à - vụ này thật kinh tởm.”

Emily Brewster nhìn qua một lượt rồi ngoảnh đi thật nhanh không nhìn mặt người đã chết. Nét mặt nhăn nhó đỏ tía ấy thật đáng sợ.

Thanh tra Colgate hỏi:

“Còn thời điểm tử vong thì sao?”

Bác sĩ Neasden cáu kỉnh đáp:

“Không thể xác định khi chưa biết thêm thông tin về nạn nhân. Rất nhiều yếu tố cần phải tính đến. Để xem nào, bây giờ là một giờ kém mười lăm. Lúc ông phát hiện cô ấy là mấy giờ?”

Là người được hỏi, Patrick Redfern trả lời thật mơ hồ:

“Đâu đó trước mười hai giờ. Tôi không biết đích xác.”

Emily Brewster nói: “Đích xác là mười hai giờ kém mười lăm khi chúng tôi thấy cô ta đã chết.”

“À ra là hai người đã chèo thuyền đến đây. Khi thấy cô ấy nằm ở đây là mấy giờ?”

Emily Brewster ngẫm nghĩ rồi đáp:

“Xin thưa, chúng tôi vòng qua mũi đất trước đấy khoảng chừng năm hay sáu phút.” Rồi quay sang Patrick cô hỏi, “Anh đồng ý chứ?”

Anh ta đáp lại thật mơ hồ:

“Phải - phải - chắc là khoảng đó.”

Bác sĩ hạ giọng hỏi thanh tra:

“Đây là ông chồng à? Ôi! Tôi hiểu rồi. Tôi nhầm. Cứ tưởng. Tại trông anh ta suy sụp quá.”

Rồi ông lên giọng quan chức nói tiếp:

“Cứ cho là mười hai giờ kém hai mươi đi! Không thể bị giết lâu lắm trước đấy. Tức là giữa lúc ấy và mười một giờ - sớm nhất chỉ có thể là mười một giờ kém mười lăm.”

Thanh tra gấp sổ tay lại kêu một cái phập.

“Cảm ơn. Điều ấy sẽ giúp chúng tôi rất nhiều. Đặt vụ này vào trong một giới hạn rất hẹp - đã xác định rõ ít hơn một giờ đồng hồ.”

Ông quay sang cô Brewster:

“Tôi nghĩ cho đến bây giờ tất cả đã rõ ràng. Cô là Emily Brewster và đây là ông Patrick Redfern, cả hai đều đang lưu trú tại Khách sạn Hải Tặc. Cô nhận dạng nạn nhân là khách cùng trọ trong khách sạn với cô, là vợ của một đại úy tên là Marshall, đúng không?”

Emily Brewster gật đầu.

Thanh tra Colgate nói tiếp: “Như thế thì tôi nghĩ ta sẽ sang khách sạn.”

Ông vẫy tay ra hiệu cho một viên cảnh sát.

“Hawkes, cậu ở lại đây và đừng cho bất cứ ai lên bờ biển này nhé! Tôi sẽ phái Phillips đến với cậu sau.”

“Ôi quỷ thần ơi!” đại tá Weston kêu lên. “Gặp ông ở đây thật quá bất ngờ.”

Hercule Poirot đáp lại lời chào của cảnh sát trưởng theo một kiêu cách thích hợp. Ông khẽ nói: “À phải đó, nhiều năm rồi, từ hồi vụ án ở St. Loo.”

“Tuy thế tôi vẫn chưa quên. Chuyện bất ngờ nhất trong đời tôi đấy. Dù sao điều tôi chưa bao giờ bỏ qua là cái cách ông phỉnh tôi về vụ việc ở tang lễ ấy. Không hề đúng quy trình gì. Giỏi thật!”

“ Tout de même, mon colonel, ” Poirot nói, “điều đó cũng đem lại những kết quả tốt đẹp, không phải vậy sao?”

“Ừ nhỉ, có thể như thế. Nhưng lẽ ra ta nên đạt được những kết quả ấy bằng những phương pháp chính thống hơn mới phải.”

“Có thể như vậy,” Poirot đồng ý kiểu ngoại giao.

“Và giờ ông đang ở ngay chính giữa một án mạng khác,” cảnh sát trưởng nói. “Có ý kiến gì về vụ này không?”

Poirot đáp chậm rãi: “Chưa có gì rỗ ràng - nhưng thú vị.”

“Sẽ giúp chúng tôi một tay chứ?”

“Ông sẽ cho phép, đúng không?”

“Ông bạn thân mến ạ, rất vui sướng được ông giúp cho. Vẫn chưa biết đầy đủ để quyết định có chuyển vụ án này cho Scotland Yard hay không nữa. Có thể nói, hung thủ chắc chắn đang ở trong phạm vi giới hạn khá rõ ràng. Tuy nhiên, tất cả những người này đều là người lạ ở đây. Thế nên, để tìm hiểu về họ và động cơ của họ ta phải đi London thôi.”

Poirot nói: “Phải, đúng vậy đó.”

“Trước tiên ta phải tìm ra ai trông thấy nạn nhân lần cuối cùng khi cô ấy còn sống. Cô hầu phòng mang bữa điểm tâm đến cho cô ấy lúc chín giờ. Cô gái trong văn phòng dưới lầu thấy cô ấy đi ngang qua sảnh khách sạn rồi ra ngoài khoảng chừng mười giờ.”

“Ông bạn à,” Poirot nói, “tôi cho rằng tôi là người ông muốn tìm đó.”

“Ông đã trông thấy cô ấy sáng nay sao? Lúc mấy giờ?”

“Lúc mười giờ năm phút. Tôi đã giúp đẩy bè cho cô ấy xuống biển ở bãi tắm.”

“Rồi cô ấy chèo bè đi à?”

“Phải.”

“Một mình sao?”

“Phải.”

“Ông có thấy cô ấy đi về hướng nào hay không?”

“Cô ấy từ từ chèo vòng qua mũi đất đó về bên phải.”

“Tức là về hướng Vũng Tiên ư?”

“Phải.”

“Và lúc ấy là mấy giờ?”

“Phải nói là cô ấy thật sự rời khỏi bãi biển lúc mười giờ mười lăm.”

Weston đắn đo suy nghĩ.

“Cũng khá khớp rồi. Ông nói xem cô ấy chèo đến cái vịnh nhỏ đấy phải mất bao lâu?”

“À, tôi không rành chuyện đó. Chưa hề đi thuyền hay phơi mình trên một cái bè. Có lẽ nửa tiếng đồng hồ ư?”

“Tôi nghĩ khoảng chừng đó,” đại tá nói. “Chắc cô ấy chẳng có gì vội vàng. À, cô ấy đến nơi lúc mười một giờ kém mười lăm thì khá ăn khớp đấy.”

“Bác sĩ của ông cho rằng cô ấy chết lúc mấy giờ?”

“Ôi, Neasden không dám chắc. Một thằng cha cẩn trọng. Mười một giờ kém mười lăm là giới hạn sớm nhất của ông ấy.”

Poirot gật đầu nói:

“Có một điểm nữa tôi phải đề cập. Khi rời đi, nạn nhân có nhờ tôi đừng cho ai biết là đã gặp cô ấy.”

Cảnh sát trưởng đăm đăm nhìn Poirot.

“Hừm, cũng gợi ra khá nhiều ý đấy, phải không nào?”

Poirot khẽ đáp: “Phải, chính tôi cũng từng nghĩ vậy đó.”

Vân vê ria mép, Weston nói: “Này Poirot. Ông là người dạn dày kinh nghiệm. Arlena Marshall là loại phụ nữ như thế nào?”

Một nụ cười thoáng hiện trên môi Poirot. Ông hỏi lại:

“Ông vẫn chưa nghe gì hay sao?”

Cảnh sát trưởng đáp thật lạnh nhạt:

“Tôi biết những gì các bà các cô nói về cô ấy. Có bao nhiêu sự thật trong ấy chứ? Cô ấy có quan hệ tình ái với anh chàng Redfern ấy à?”

“Tôi xin nói chắc chắn là đúng vậy.”

“Anh ta đi theo cô ấy tới đây, hử?”

“Có lý do để giả định như vậy.”

“Còn người chồng? Anh ta có biết hay không? Cảm thấy thế nào?”

Poirot trả lời chậm rãi:

“Thật không dễ biết đại úy Marshall cảm thấy ra sao hay nghĩ gì. Anh ta là người không để lộ cảm xúc.”

Weston nói thật gay gắt: “Nhưng dù sao đi nữa anh ta cũng có thể có cảm xúc chứ.”

Poirot gật đầu.

“À phải, anh ta có thể có cảm xúc.”

Cảnh sát trưởng đang xử sự thật khôn khéo đúng như bản tính của ông khi làm việc với bà Castle là chủ nhân Khách sạn Hải Tặc và sở hữu cả khu đất của khách sạn. Đó là một phụ nữ ngoài bốn mươi có bộ ngực đồ sộ, mái tóc nhuộm đỏ quá sặc sỡ và một kiểu ăn nói sấn sổ.

Bà ta đang nói: “Một chuyện như vậy lại xảy ra tại khách sạn của tôi! Tôi dám chắc đây vẫn luôn là nơi yên tĩnh nhất rồi. Những người tới đây đều đường hoàng tử tế mà. Không có mấy chuyện um sùm - ông hiểu tôi muốn nói gì rồi chứ? Đâu có giống như mấy khách sạn lớn ở St. Loo.”

“Hoàn toàn đúng thế, bà Castle ạ,” đại tá nói. “Nhưng tai nạn vẫn xảy ra ở các ngôi nhà - ờ - được kiểm soát tốt nhất đấy.”

“Tôi chắc chấn thanh tra Colgate sẽ xác nhận giúp.” Bà chủ đưa ánh mắt cầu khẩn về phía thanh tra đang ngồi rất đường bệ ra dáng một quan chức. “Cứ theo luật môn bài thì tôi là một trường hợp hết sức đặc biệt. Chưa bao giờ có bất cứ chuyện nào trái quy định.”

“Đúng, đúng,” cảnh sát trưởng Weston nói. “Chúng tôi tuyệt nhiên không hề trách cứ bà, bà Castle ạ.”

“Nhưng chuyện đó quả có làm mất uy tín một cơ sở kinh doanh,” bà chủ nói, bộ ngực đồ sộ phập phồng. “Khi tôi nghĩ tới những đám đông há hốc miệng ồn ào. Tất nhiên không có ai ngoài khách của khách sạn được ở trên đảo - nhưng dù sao chắc chắn người ta cũng sẽ tới và chỉ trỏ từ bờ biển.”

Bà rùng mình.

Thanh tra Colgate thấy mình có cơ hội chuyển cuộc đàm thoại sang hướng có lợi. Ông nói: “Về vấn đề bà vừa nêu lên ấy. Việc cho người lên đảo. Bà làm thế nào ngăn người ta được chứ?”

“Tôi có cách hết sức đặc biệt để làm chuyện đó.”

“Phải đấy, nhưng cụ thể bà dùng những biện pháp gì thế? Điểu gì ngăn trở họ? Những đám đông đi nghỉ hè tụ tập khắp nơi đông như kiến ấy.”

Bà Castle lại khẽ nhún vai.

“Đó là lỗi của xe buýt chở khách đi tham quan. Tôi từng thấy tới mười tám xe cùng một lúc đậu gần bến tàu ở vịnh Leathercombe. Mười tám xe lận đó!”

“Đúng thế. Bà làm cách nào ngăn họ đến đây?”

“Bố trí bảng thông báo. Rồi tất nhiên khi thủy triều lên chúng tôi bị cách biệt với đất liền.”

“Phải, nhưng lúc thủy triều xuống thì sao?”

Bà chủ giải thích, ở cuối con đường đắp dẫn ra đảo có một cái cổng gắn biển Khách sạn Hải Tặc. Đất tư. Chỉ dành cho khách sạn . Hai bên có đá nhô ra biển khiến người ta không trèo được.

“Dù vậy bất cứ ai cũng có thể đi thuyền, tôi cho là vậy, họ chèo quanh rồi lên một bờ biển, phải không ạ? Không thể nào ngăn họ làm việc đó. Họ có quyền lui tới trên bãi biển. Bà không thể ngăn người ta dùng bãi biển tại khu vực giữa mực nước lên và xuống trên bãi biển.”

Thế nhưng hình như điều này rất hiếm khi xảy ra. Thuyền bè có thể vào bến cảng ở Vịnh Leathercombe, nhưng từ đó phải chèo đi một quãng xa mới tới đảo và có một dòng nước ngầm chảy xiết ngay bên ngoài bến cảng đó. Còn có các bảng thông báo ở cá Vũng Hải Âu lẫn Vũng Tiên gần cái thang nữa. Bà nói thêm George hoặc William lúc nào cũng canh chừng cái bãi tắm ở gần đất liền nhất.

“George và William là ai?”

“George phụ trách bãi tắm. Cậu ta chăm sóc khách hàng và quản lý mấy cái bè. William là người làm vườn. Cậu ta lo giữ gìn các lối mòn, ghi điểm ở sân quần vợt và chỉ vậy thôi.”

Đại tá Weston sốt ruột nói: “À, dường như khá rõ ràng rồi. Như thế không thể nói không ai có thể đến từ bên ngoài, nhưng bất cứ ai làm vậy đều có nguy cơ bị bắt gặp. Chúng tôi sẽ hỏi chuyện George và William ngay sau đây.”

Bà Castle nói: “Tôi không ưa mấy người đi du ngoạn — một đám đông rất ồn ào, và họ thường xuyên vứt vỏ cam, hộp thuốc lá trên con đường đắp, liệng xuống gần các tảng đá nhưng dù sao tôi cũng chưa bao giờ nghĩ một người trong bọn họ hóa ra lại là kẻ giết người. Ôi trời ôi! Khủng khiếp hết nói nổi nữa. Một phu nhân như Arlena Marshall lại bị sát hại và điều thật sự quá ghê rợn - ồ - là bị bóp cổ…”

Bà chủ gần như không nói nên lời. Bà nói ra điều đó hết sức miễn cưỡng.

Thanh tra Colgate xoa dịu: “Phải, đấy là một vụ việc thật độc ác.”

“Còn mấy tờ báo nữa. Khách sạn của tôi lên báo rồi!”

Colgate thoáng cười toe toét nói: “À, cũng có thể coi đó là quảng cáo mà.”

Bà Castle nhổm đứng dậy. Bộ ngực phập phồng và xương cốt to như cá voi kêu răng rắc. Bà nói lạnh như băng:

“Tôi không ưa cái kiểu quảng cáo đó đâu, ông Colgate.”

Đại tá Weston đột nhiên xen vào:

“Bây giờ thì, bà Castle ạ, bà có danh sách khách đang lưu trú tại khách sạn như tôi yêu cầu hay chưa?”

“Có đây rồi, thưa ông.”

Đại tá Weston mải mê nghiên cứu sổ đăng ký phòng của khách sạn. Ông nhìn sang Poirot là thành viên thứ tư của nhóm người đang tập hợp trong văn phòng giám đốc.

“Có lẽ bây giờ ông có thể giúp chúng tôi xem xét bản danh sách này.”

Ông ghi lại những cái tên.

“Còn nhân viên thì sao?”

Bà chủ đưa ra bản danh sách thứ nhì:

“Có bốn cô hầu phòng, tiếp viên trưởng và ba tiếp viên dưới quyền ông ta, còn có Henry trong quầy rượu. William lo việc lau giày. Sau đó là bà bếp trưởng và hai phụ bếp.”

“Còn các tiếp viên?”

“À, thưa ông, Albert là Mater Dotel, tới làm cho tôi từ khách sạn Vincent ở cảng Plymouth. Ông ta làm ở đó mấy năm. Ba cậu dưới quyền ông ta làm ở đây đã ba năm - một cậu đã bốn năm. Họ là những chàng trai rất tử tế, hết sức đứng đắn. Henry đã ở đây từ khi khách sạn mới khai trương. Anh ta rất thông thuộc nơi này.”

Đại tá gật đầu. Ông nói với Colgate:

“Có vẻ ổn rồi. Dĩ nhiên ông sẽ kiểm tra về họ. Cảm ơn bà Castle.”

“Đó là tất cả những gì ông đòi hỏi hay sao?”

“Vào lúc này thì đúng thế.”

Bà chủ ra khỏi phòng, xương cốt kêu răng rắc.

“Việc trước tiên phải làm là nói chuyện với đại úy Marshall,” Weston nói.

Đại úy Marshall thản nhiên ngồi trả lời các câu hỏi đặt ra cho mình. Ngoài nét mặt hơi đanh lại hơn một chút, anh ta hoàn toàn bình thản. Nhìn anh ta khi ánh nắng rọi lên khuôn mặt qua cửa sổ, ta nhận ra đây là một người đẹp trai. Nét mặt thẳng thắn đó, đôi mắt xanh kiên định, cái miệng thật kiên quyết. Giọng anh trầm ấm vui tươi.

Đại tá Weston đang nói: “Tôi rất thông cảm, đại úy Marshall ạ, chắc hẳn với ông đây là một cú sốc khủng khiếp. Nhưng ông cũng nhận thấy tôi nóng lòng muốn có được thông tin đầy đủ nhất càng sớm càng tốt.”

Marshall gật đầu. “Tôi hoàn toàn hiểu được. Xin cứ tiếp tục!”

“Cô nhà là vợ thứ nhì của ông à?”

“Phải.”

“Và ông bà đã kết hôn bao lâu rồi?”

“Mới hơn bốn năm.”

“Và trước khi kết hôn, bà ấy tên là gì?”

“Helen Stuart. Nghệ danh của cô ấy là Arlena Stuart.”

“Cô nhà từng là diễn viên à?”

“Cô ấy từng góp mặt trong các màn tạp kỹ và ca nhạc.”

“Cô nhà đã từ bỏ sân khấu lúc kết hôn à?”

“Không, cô ấy vẫn tiếp tục biểu diễn. Thật ra chỉ giải nghệ cách đây chừng một năm rưỡi thôi.”

“Có lý do đặc biệt nào khiến cô nhà giải nghệ không?”

Kenneth Marshall có vẻ đắn đo suy nghĩ.

“Không,” anh nói. “Cô ấy chỉ bảo là chán tất cả rồi.”

“Không phải là - ơ - là tuân theo ước muốn đặc biệt của ông hay sao?”

Marshall nhướn mày. “Ôi, không đâu.”

“Ông đã bằng lòng để cho cô nhà tiếp tục biểu diễn sau khi kết hôn à?”

Marshall bật cười. “Tôi thích cô ấy từ bỏ hơn - đúng thế đấy. Nhưng tôi đã không làm ầm ĩ vì chuyện ấy.”

“Chuyện ấy không gây ra bất đồng gì giữa hai người sao?”

“Dĩ nhiên là không. Vợ tôi tự do làm gì cô ấy thích.”

“Và cuộc hôn nhân ấy thật sự hạnh phúc à?”

Kenneth Marchall lạnh lùng đáp: “Dĩ nhiên.”

Đại tá Weston tạm dừng một lát rồi hỏi:

“Đại úy Marshall này, ông có nghĩ ra kẻ nào có thể giết vợ ông hay không?”

Câu trả lời đến ngay không chút chần chừ do dự:

“Chẳng kẻ nào cả.”

“Cô ấy có kẻ thù nào không?”

“Có thể.”

“Hử?”

Marshall nói tiếp thật nhanh:

“Đừng hiểu lầm tôi, thưa ông! Vợ tôi từng là diễn viên. Cô ấy còn là một phụ nữ rất đẹp nữa. Hai điểm ấy thôi là cô ấy đã tạo ra suy ghen ghét và đố kỵ ở một mức độ nhất định rồi. Đã có những chuyện ầm ĩ về các vai diễn - đã có sự ganh đua từ những phụ nữ khác - phải nói đã có khá nhiều ganh tị nói chung, thù hằn, ác ý. Nhưng điều ấy không có nghĩa là ai lại có khả năng cố ý sát hại cô ấy.”

Hercule Poirot lần đầu tiên lên tiếng:

“Điều ông thật sự muốn nói, Monsieur , kẻ thù của cô nhà hầu hết hoặc toàn bộ đều là phụ nữ.”

Kenneth Marshall quay sang nhìn ông:

“Phải. Là thế đấy.”

Cảnh sát trưởng hỏi tiếp:

“Ông không biết người đàn ông nào có ác cảm với cô ấy à?”

“Không.”

“Cô ấy có quen biết từ trước với ai trong khách sạn này hay không?”

“Tôi tin cô ấy từng gặp ông Redfern trước đây - trong một bữa tiệc cocktail nào đấy. Theo như tôi được biết thì chẳng có ai khác cả.”

Weston tạm dừng lại. Dường như ông cân nhắc có nên tiếp tục theo đuổi đề tài đó hay không. Rồi ông quyết định không theo chiều hướng ấy.

“Bây giờ ta nói đến chuyện sáng hôm nay,” ông nói. “Ông trông thấy vợ mình lần cuối vào lúc nào?”

Marshall tạm dừng một lát rồi trả lời:

“Tôi ghé qua cô ấy trên đường xuống dùng bữa điểm tâm…”

“Xin lỗi, vợ chồng ông ở hai phòng riêng biệt à?”

“Phải.”

“Và lúc ấy là mấy giờ?”

“Chắc hẳn chừng chín giờ.”

“Cô ấy đang làm gì?”

“Đang mở các bức thư.”

“Cô ấy có nói gì không?”

“Chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý cả. Chỉ là chào nhau thôi - đại loại như thế.”

“Bộ dạng cô ấy thế nào? Không như thường lệ à?”

“Không. Hoàn toàn bình thường.”

“Cô ấy không có vẻ bị kích động, buồn chán hay rối loạn bất cứ kiểu nào à?”

“Quả thật tôi không để ý.”

Hercule Poirot hỏi:

“Cô nhà không đề cập gì tới nội dung các lá thư sao?”

Một nụ cười lại thoáng hiện trên môi Marshall. Anh ta đáp:

“Theo như tôi còn nhớ, cô ấy bảo tất cả đều là hóa đơn.”

“Vợ ông ăn sáng trên giường à?”

“Phải.”

“Lúc nào cũng như vậy hay sao?”

“Chẳng hề thay đổi.”

Poirot lại hỏi:

“Vợ ông thường xuống lầu lúc mấy giờ?”

“Ôi! Khoảng mười, mười một giờ - thường gần mười một giờ hơn.”

Poirot hỏi tiếp:

“Nếu cô nhà đi xuống đúng mười giờ, thì ông sẽ khá ngạc nhiên chứ?”

“Phải. Cô ấy không thường xuống lầu sớm như thế.

“Nhưng sáng nay cô nhà lại làm như vậy. Ông nghĩ là tại sao, đại úy Marshall?”

Marshall trả lời không chút cảm xúc:

“Tôi không biết đâu. Có thể do thời tiết - một ngày đẹp trời. Thế thôi.”

“Ông đã không trông thấy cô nhà?”

Hơi xê dịch một chút trên ghế, Kenneth Marshall đáp:

“Lại ghé vào phòng cô ấy sau bữa điểm tâm. Phòng trống không. Tôi hơi ngạc nhiên một chút.”

“Rồi sau đó ông xuống bãi biển hỏi tôi có thấy cô nhà hay không à?”

“Ờ - phải.” Anh ta nói thêm, vẫn với giọng có ý nhấn mạnh. “Và ông nói là không thấy.”

Ánh mắt làm ra vẻ vô can của Hercule Poirot không hề dao động. Ông vuốt nhẹ bộ ria khoa trương của mình.

Weston hỏi:

“Ông có lý do đặc biệt nào mà đi tìm vợ sáng hôm nay không?”

Marshall liếc nhìn sang cảnh sát trưởng, trả lời nhã nhận:

“Không ạ. Chỉ tự hỏi cô ấy đang ở đâu, có thể thôi.”

Weston tạm dừng lại, hơi xê dịch cái ghế. Giọng ông chợt hạ xuống một tông khác hẳn:

“Lúc nãy, đại úy Marshall ạ, ông có nhắc đến chuyện cô nhà từng quen biết trước với ông Redfern. Cô nhà có quen thân lắm với ông Redfern không?”

Kenneth Marshall nói:

“Tôi hút thuốc có phiền không ạ?” Anh ta mò tìm khắp các túi. “Chết tiệt! Tôi đã để lạc ống điếu đâu mất rồi.”

Poirot mời anh ta một điếu thuốc. Anh ta nhận lấy, đốt lên rồi trả lời:

“Ông vừa hỏi về Redfern. Vợ tôi cho tôi biết đã tình cờ gặp anh ta trong một bữa tiệc cocktail hay gì gì đấy.”

“Như thể ông ta chỉ là chỗ ngẫu nhiên quen biết à?”

“Tôi tin như thế.”

“Kể từ lúc ấy…” cảnh sát trưởng dừng lại một lát rồi nói tiếp, “theo tôi hiểu thì sự quen biết ấy đã chín muồi thành điều gì đấy khá gần gũi hơn.”

Marshall nói gay gắt:

“Ông hiểu như thế thật sao? Ai đã nói với ông như thế?”

“Đấy là chuyện bàn ra tán vào phổ biến ở khách sạn này.”

Trong phút chốc ánh mắt của Marshall nhắm vào Hercule Poirot, lưu lại đó với một nổi tức giận lạnh lùng.

“Chuyện ngồi lê đôi mách ở khách sạn thường vớ vẩn láo toét cả,” anh nói.

“Có thể như thế. Nhưng tôi được biết ông Redfern và bà nhà đã cho người ta một số căn cứ để bàn ra tán vào.”

“Căn cứ gì chứ?”

“Họ đi cùng với nhau liên tục.”

“Chỉ có thể thôi sao?”

“Ông không phủ nhận chuyện là như thế chứ?”

“Có thể là như thế. Thật tình tôi không để ý.”

“Ông đã không - xin lỗi đại úy Marshall - không phản đối quan hệ bạn bè của vợ với ông Redfern à?”

“Tôi không có thói quen chỉ trích tư cách đạo đức của vợ mình.”

“Ông đã không phản kháng hay phản đối bằng bất cứ cách nào hay sao?”

“Dĩ nhiên là không.”

“Không phản đối ngay cả khi điều ấy đang trở thành một đề tài gây xôn xao và một mối bất hòa ghẻ lạnh đang phát triển giữa vợ chồng Redfern hay sao?”

Kenneth Marshall lạnh lùng đáp:

“Tôi bận tâm lo việc của mình và mong những người khác lo việc của họ. Tôi không nghe chuyện ngồi lê đôi mách đâu.”

“Ông không phủ nhận chuyện ông Redfern ái mộ vợ ông chứ?”

“Có lẽ anh ta đã như thế. Hầu hết đàn ông đều thế cả. Cô ấy rất xinh đẹp mà.”

“Nhưng ông tin chắc những mối quan hệ ấy chẳng có gì nghiêm trọng cả hay sao?”

“Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy, xin nói với ông như thế.”

“Và giả sử chúng tôi có một nhân chứng có thể xác thực họ đã có quan hệ hết sức thân mật thì sao?”

Một lần nữa đôi mắt xanh lại nhắm vào Hercule Poirot. Một lần nữa vẻ căm ghét lại lộ ra trên khuôn mặt thường trơ trơ vô cảm đó.

“Nếu ông muốn nghe những chuyện ấy thì cứ việc nghe! Vợ tôi đã chết chẳng thể nào tự bào chữa,” Marshall nói.

“Ông muốn nói cá nhân ông không tin những chuyện ấy hay sao?”

Lần đầu tiên có thể quan sát được một chút mồ hôi lấm tấm trên hàng lông mày của Marshall. Anh ta đáp:

“Tôi nghĩ mình không tin bất cứ chuyện gì đại loại như thế.”

Anh ta nói tiếp: “Phải chăng ông đang đi chệch ra ngoài thực chất của vụ việc này? Tôi tin gì hay không tin gì chắc chắn không liên quan đến việc giết người đơn thuần, phải không?”

Hercule Poirot trả lời trước khi hai ông kia lập mờ miệng:

“Ông không hiểu đó thôi, đại úy Marshall à. Chẳng có cái gọi là chuyện giết người đơn thuần đâu. Án mạng nảy sinh cứ mười vụ đã có chín xuất phát từ tính cách và hoàn cảnh của người bị giết. Bởi vì nạn nhân là loại người nào nên mới bị sát hại! Khi chưa hiểu được đầy đủ và chính xác Arlena Marshall là kiểu người nào, chúng tôi sẽ không thể hiểu được rõ ràng chính xác kẻ sát hại cô ấy là loại người nào. Chính vì thế mà chúng tôi mới hỏi những câu vừa rồi.”

Quay sang cảnh sát trưởng, Marshall hỏi:

“Đấy cũng là quan điểm của ông hay sao?”

Hơi lưỡng lự một chút, Weston đáp:

“À, ở một chừng mực nào đó - nghĩa là…”

Marshall cười khẩy.

“Cứ tưởng ông không đồng quan điểm chứ. Cái vấn đề về tính cách ấy là chuyên môn của ông Poirot, tôi tin thế.”

Poirot mim cười nói:

“ít nhất ông cũng có thể tự chúc mừng vì đã không làm gì để hỗ trợ cho tôi!”

“Ông muốn nói gì thế?”

“Ông đã cho chúng tôi biết về vợ ông rồi? Hoàn toàn chẳng có gì cả. Ông chỉ nói với chúng tôi những điều mọi người đều có thể tự mình thấy được. Rằng bà ta xinh đẹp và được ái mộ. Không có gì hơn.”

Kenneth Marshall nhún vai. Anh ta nói đơn giản:

“Ông điên mất rồi.” Nhìn về phía cảnh sát trưởng, anh nhấn mạnh:“Ông còn muốn tôi cho ông biết điều gì nữa không, thưa ông?”

“Có đấy, đại úy Marshall ạ, xin vui lòng cho biết sáng nay ông đã đi đâu!”

Kenneth Marshall gật đầu. Rõ ràng đã trông đợi điều này, anh ta trả lời:

“Tôi điểm tâm ở dưới nhà khoảng chừng chín giờ như thường lệ rồi đọc báo. Như đã nói với ông, sau đấy tôi lên phòng vợ tôi thì thấy cô ấy đã ra ngoài. Tôi xuống bãi biển, gặp ông Poirot và hỏi ông có thấy cô ấy hay không. Rồi tôi tắm sơ qua và lại đi lên khách sạn. Xem nào, lúc ấy khoảng chừng mười giờ kém hai mươi - phải, đúng là khoảng chừng như thế Tôi đã xem đồng hồ ở sảnh. Đúng là sau mười giờ kém hai mươi. Tôi đi lên phòng mình nhưng cô hầu phòng vẫn chưa làm xong. Tôi yêu cầu cô ta làm xong càng nhanh càng tốt. Tôi có mấy bức thư phải đánh máy mà tôi muốn gửi đi qua đường bưu điện. Tôi lại đi xuống nhà và nói mấy câu với Henry ở quầy rượu. Lúc mười một giờ kém mười tôi trở lên phòng mình. Ở đấy tôi đánh máy các bức thư. Tôi đã đánh máy đến tận mười hai giờ kém mười. Sau đấy tôi thay đồ đánh quần vợt vì có hẹn chơi quần vợt lúc mười hai giờ. Chúng tôi đã đặt sân ngày hôm trước.”

“ Chúng tôi là những ai?”

“Cô Redfern, cô Darnley, ông Gardener và tôi. Tôi xuống dưới lúc mười hai giờ và đi thẳng ra sân. Cô Darnley đã ở đấy với ông Gardener. Cô Redfern vài phút sau cũng đến. Chúng tôi chơi quần vợt khoảng một giờ đồng hồ. Ngay lúc chúng tôi vào trong khách sạn sau đấy thì tôi - tôi - được biết tin ấy.”

“Cảm ơn đại úy Marshall. Việc này là thủ tục mà thôi nhé: có ai có thể chứng thực chuyện ông đánh máy trong phòng từ - ờ - mười một giờ kém mười đến mười hai giờ kém mười hay không?”

Thoáng mỉm cười, Kenneth Marshall nói: “Có phải ông nghĩ tôi đã giết vợ? Để tôi xem nào! Cô hầu phòng lúc đó đang dọn phòng quanh đấy. Chắc hẳn cô ta đã nghe tiếng đánh máy chứ. Và còn chính những bức thư. Vì có chuyện này nên tôi chưa gửi bưu điện. Tôi cho rằng chúng có thể là chứng cứ.”

Anh ta lấy từ trong túi ra ba lá thư. Đã đề địa chỉ nhưng chưa dán tem.

“Tiện đây xin nói rõ, nội dung trong này hoàn toàn riêng tư. Nhưng trong trường hợp có án mạng, buộc lòng phải tin cậy vào sự thận trọng của cảnh sát. Chúng chứa đựng bản kê các số tiền và nhiều tờ khai tài chính khác nhau. Chắc ông sẽ thấy nếu bảo một người của ông đánh máy lại, nhanh nhất cũng phải mất gần một giờ đồng hồ.” Anh ta tạm dừng. “Hy vọng ông đã thỏa mãn.”

Weston xoa dịu.

“Chưa đặt vấn đề tình nghi. Mọi người trên đảo đều phải thuật lại sáng nay đã ở đâu, làm gì từ mười một giờ kém mười lăm đến mười hai giờ kém hai mươi.”

“Hoàn toàn đúng,” Marshall nói.

“Một chuyện nữa, đại úy Marshall ạ. Ông có biết gì về cách thức cô nhà có thể đã giải quyết tài sản của cô ấy hay không?”

“Ông muốn nói tới di chúc à? Tôi không nghĩ cô ấy từng lập di chúc.”

“Nhưng có phải ông không chắc chắn?”

“Các luật sư tư vấn của cô ấy là Barkett, Markett và Applegood ở Quảng trường Bedford. Họ lo liệu tất cả các hợp đồng của cô ấy, vân vân. Nhưng tôi khả chắc chắn cô ấy chưa bao giờ lập di chúc. Có lần cô ấy bảo làm một chuyện như thế khiến cô ấy sợ.”

“Trong trường hợp ấy, vì cô nhà chết đi mà không để lại di chúc thì ông là chồng, nên sẽ thừa kế toàn bộ tài sản của cô ấy.”

“Phải, tôi cho là như thế.”

“Cô nhà có họ hàng gần nào không?”

“Chắc là không. Nếu có, cô ấy cũng chưa bao giờ nhắc đến. Tôi biết bố mẹ cô ấy đã mất khi cô ấy còn bé, và chẳng có anh chị em nào cả.”

“Dù thế nào, tôi cho rằng bà ấy chẳng có gì nhiều để lại, phải không?”

Kenneth Marshall lạnh lùng đáp:“Ngược lại đấy. Chỉ mới cách đây hai năm thôi, một người bạn thân của cô ấy là Ngài Robert Erskine qua đời và để lại cho cô ấy phần lớn gia tài. Tôi nghĩ lên đến chừng năm mươi nghìn bảng.”

Thanh tra Colgate nhìn lên. Ý nghĩ cảnh giác hiện lên trong mắt ông. Nãy giờ ông vẫn im lặng. Giờ đây ông mới hỏi:

“Thế thì quỉ thật, đại úy Marshall à, vợ ông là người giàu có à?”

Kenneth Marshall nhún vai. “Chắc là như thế.”

“Và ông vẫn nói vợ ông không lập di chúc?”

“Ông có thể hỏi công ty tư vấn của cô ấy. Nhưng tôi khá chắc chắn cô ấy đã không làm thế. Như tôi đã nói với các ông, vợ tôi nghĩ làm thế là không may.”

Có một khoảnh khắc im lặng, rồi Marshall lại hỏi:

“Có gì nữa không ạ?”

Weston lắc đầu. “Chắc là không…., hử Colgate? Không. Một lần nữa, đại úy Marshall ạ, cho tôi được bày tỏ tất cả lòng thương cảm vì sự mất mát của ông!”

Chớp chớp đôi mắt, Marshall nói nhát gừng: “Ôi - cảm ơn.”

Rồi anh ta đi ra.

Ba người đàn ông đưa mắt nhìn nhau.

Đại tá Weston nói: “Thằng cha trơ tráo. Chẳng chịu tiết lộ bất cứ điều gì, đúng không? Ông nghĩ gì, Colgate?”

Thanh tra nhún vai. “Thật khó nói. Anh ta là hạng người chẳng để lộ ra bất cứ điều gì. Cái ngữ ấy tạo một ấn tượng xíu trên ghế nhân chứng, và tuy thế thật sự có một chút không công bằng với họ. Đôi khi họ bị chỉ trích gay gắt, và tuy thế lại không chứng tỏ được. Kiểu hành xử ấy khiến bồi thẩm đoàn đã đưa ra phán quyết có tội cho Wallace Đấy không phải là chứng cứ. Đúng là không thế nào tin một người đàn ông bị mất vợ lại có thể nói và hành xử điềm tĩnh như thế.”

Weston quay sang Poirot hỏi:

“Ông nghĩ sao, Poirot?”

Thám tử giơ hai tay lên. “Có thể nói gì được chứ? Ông ta là một cái thùng đóng kín - một con hến ngậm miệng thật chặt. Ông ta đã chọn vai diễn của mình. Không biết, không nghe, không thấy bất cứ điều gì.”

“Ta có một vài động cơ gây án,” Colgate nói. “Có động cơ vì ghen tuông và động cơ vì tiền. Dĩ nhiên người chồng hiển nhiên bị nghi ngờ đầu tiên rồi. Nếu anh ta mà biết cô vợ tằng tịu với một thằng cha khác…”

Poirot ngắt lời: “Tôi nghĩ anh ta biết chuyện đó.”

“Sao ông lại nói thế?”

“Nghe đây, ông bạn! Tối hôm qua tôi đã nói chuyện với vợ Redfern trên Gành Nắng. Từ đó tôi đi xuống khách sạn và dọc đường tôi thấy hai người đó ở bên nhau - vợ Marshall và Patrick Redfern. Một lúc sau tôi gặp chính đại úy Marshall. Mặt anh ta tỉnh bơ. Chẳng nói lên điều gì - hoàn toàn chẳng có gì hết! Gần như quá trống rỗng, ông có hiểu tôi không? Ôi! anh ta biết đó.”

Colgate làu bàu có vẻ ngờ vực: “Ái chà, nếu ông nghĩ thế…”

“Chắc chắn như vậy! Nhưng ngay cả như thế chuyện đó nói lên điều gì? Marshall đã cảm thấy thế nào về vợ mình?”

Đại tá nói: “Khá thờ ơ với cái chết của vợ.”

Poirot nhún vai có vẻ không hài lòng.

Thanh tra Colgate nói: “Đôi khi những kẻ trầm tĩnh này trong lòng lại hết sức hung bạo, phải nói như thế. Tất cả đều được kìm nén lại. Có thể anh ta say mê vợ đến điên cuồng - và ghen tuông đến điên cuồng. Nhưng anh ta không phải hạng người để lộ ra.”

Poirot nói chậm rãi: “Có thể như vậy - phải. Đại úy Marshall này là một nhân vật hết sức thú vị. Chính tôi cũng hết sức để ý tới anh ta và chứng cứ ngoại phạm của anh ta.”

“Ngoại phạm nhờ cái máy đánh chữ,” Weston bật ra một tiếng cười khẩy thật lớn. “Ông có gì để nói về chuyện ấy không, Colgate?”

Thanh tra nheo mắt đáp: “A, sếp biết đấy, tôi đã nghĩ khá nhiều về chứng cứ ngoại phạm đó. Không quá vững chắc - ông biết ý tôi muốn nói gì rồi. Đấy là - à - lẽ tự nhiên thôi. Và nếu ta xác nhận được đúng là cô hầu phòng đã ở quanh đó và có nghe tiếng máy đánh chữ, thì với tôi chứng cứ ấy xác thực và ta phải tìm kiếm ở chỗ khác.”

“Hừm,” đại tá nói. “Ông sẽ tìm kiếm ở đâu?”

Trong một vài phút ba người đàn ông nghiền ngẫm về vấn đề đó.

Thanh tra Colgate lên tiếng trước tiên:

“Chung quy là thế này - đấy là một người bên ngoài hay là một khách trọ trong khách sạn. Tôi không hoàn toàn loại trừ các nhân viên - xin lưu ý cho - nhưng không một phút giây nào tôi mong tìm ra kẻ nhúng tay vào vụ này trong đám ấy. Không, đấy là một khách trọ hoặc là ai đó từ bên ngoài. Trước tiên ta phải xem xét theo cách này - động cơ phạm tội. Có lợi lộc sẽ kiếm được. Kẻ duy nhất hưởng lợi nhờ cái chết của Arlena Marshall là ông chồng, có vẻ thế. Còn những động cơ nào khác? Đầu tiên và trước hết -ghen tuông. Theo tôi thì - khi nhìn thẳng vào vấn đề - nếu có bao giờ ông từng gặp vụ án do chữ tình, vì si mê mà ra,” ông nghiêng mình về phía thám tử, “thì chính là vụ này đây.”

Poirot nhìn lên trần nhà, nói nhỏ: “Có quá nhiều si mê.”

Thanh tra nói tiếp: “Ông chồng không công nhận cô vợ có kẻ thù nào - tức là những kẻ thù thực thụ, nhưng tôi không chả tin là thế đâu! Xin thưa, người như cô ta hẳn - à, hẳn tạo ra một số kẻ thù thực sự - nhỉ. Ông thấy sao?”

Poirot đáp lại ngay: “ Mais oui Đúng rồi , đúng như vậy. Arlena Marshall hẳn có kẻ thù. Nhưng theo ý tôi giả thuyết về kẻ thù không đứng vững, vì ông biết đó, ông thanh tra à, vì tôi nghĩ kẻ thù của cô ta, như tôi vừa nói lúc nãy, lúc nào cũng là phụ nữ .”

Đại tá càu nhàu: “Đại loại thế. Phụ nữ đã đâm thọc cô ấy ngay tại đây.”

Poirot nói tiếp: “Có vẻ gần như không thể nào tội ác này do phụ nữ gây ra. Chứng cứ pháp y nói gì?”

Weston lại càu nhàu:

“Neasden tin khá chắc chắn cô ấy do nam giới bóp cổ. Đôi bàn tay to lớn - siết thật mạnh bạo. Dĩ nhiên đúng là có thể một phụ nữ cực kỳ khoẻ cũng bóp thế được - nhưng rất it có khả năng đó.”

Poirot gật đầu. “Đúng thế. Bỏ thạch tín trong tách trà - sôcôla có độc - một con dao - thậm chí một khẩu súng ngắn - nhưng siết cổ thì không đâu! Ta phải tìm kiếm một gã đàn ông.”

Ông nói tiếp: “Và ngay lập tức sự việc trở nên khó khán hơn. Có hai người ở đây trong khách sạn này có lý do gạt bỏ Arlena Marshall, nhưng cả hai đều là phụ nữ.”

Đại tá Weston hỏi: “Vợ Redfern là một trong hai người ấy, phải không?”

“Phải. Vợ Redfern có thể đã quyết định ra tay với Arlena Marshall. Có thể nói cô ta có thừa lý do. Tôi cũng nghĩ cô ta có khả năng giết người, nhưng không phải kiểu giết người này. Vì cho dù chịu bất hạnh và ghen tuông, phải thấy rằng cô ta không phải loại đàn bà có đam mê. Trong tình yêu, cô ta hiến dâng và chung thủy - chứ không say đắm. Như tôi vừa nói hồi nãy - bỏ thạch tín trong tách trà thì có thể - siết cổ thì không đâu. Tôi còn chắc chắn cô ta không có đủ sức để phạm tội ác này. Tay, chân đều nhỏ dưới mức trung bình.”

Weston gật đầu. “Đây không phải là vụ án do phụ nữ gây ra. Đúng, một gã đàn ông đã làm việc này.”

Thanh tra Colgate ho húng hắng:

“Xin cho tôi đưa ra một đáp án, thưa ông. Giả sử trước khi gặp ông Redfern này, cô vợ đã lăng nhăng với một gã nào đấy - gọi là X. Cô ta bỏ X để đên với ông Redfern. X nổi điên vì tức giận và ghen tuông. Gã đi theo cô ta xuống đây, trú ở đâu đấy trong vùng lân cận, đi qua đảo này, trừ khử cô ta. Đấy là một khả năng.”

Đại tá nói: “Có khả năng đó, đúng đấy. Nếu là sự thật, hẳn phải dễ dàng chứng minh. Hắn đi bộ đến hay đi thuyền? Dường như có nhiều khả năng hắn đi thuyền hơn. Nếu thế, hắn phải thuê chiếc thuyền ở đâu đấy. Ông nên điều tra đi.”

Ông nhìn sang Poirot. “Ông nghĩ sao về gợi ý của Colgate?”

Poirot trả lời chậm rãi: “Như vậy thì nhờ may rủi nhiều quá. Vả lại - giả thiết đó có điểm nào đó chưa khớp. Tôi không thể hình dung ra gã đàn ông này… gã đàn ông nổi điên vì tức giận và ghen tuông.”

Thanh tra nói: “Nhiều kẻ mê cô ta, thưa ông. Cứ nhìn Redfern đi ạ!”

“Phải, phải… Nhưng dù sao đi nữa - ”

Colgate nhìn ông dò hỏi. Poirot lắc đầu, cau mày nói tiếp:

“Chúng ta đã bỏ qua điểm gì đó…”