THẦY SAINT JOHN
Đầu năm thứ hai, nhà trường thông báo: môn Phân loại thực vật sẽ do Giáo sư Saint John giảng dạy. Giáo sư là một nhà bác học, quốc tịch Hoa kỳ, nổi tiếng về công trình nghiên cứu thực vật trên các đảo nhỏ ở miền Nam Thái Bình Dương.
Thì giờ của Thầy rất eo hẹp nên các buổi dạy đều diễn ra trong giảng đường Đại học Sư phạm, chung cho cả hai trường đại học anh em là Đại học Khoa học và Đại học Sư phạm.
Chúng tôi rất mong sớm nhìn mặt nhà bác học thế giới, vì vậy ở buổi học đầu tiên, sinh viên hai trường vào ngồi kín giảng đường, trước khi giờ học bắt đầu. Tiếng nói chuyện làm cho lớp học rộng lớn ồn ào như cái chợ. Sinh viên túm tụm lại thành nhiều nhóm. Họ tranh cãi về nhiều đề tài. Mấy tháng nghỉ hè vừa chấm dứt, có trăm ngàn chuyện để nói với nhau.
Tôi và vài bạn cùng lớp chiếm được các ghế đầu tiên, ngay cửa ra vào. Tôi không nói chuyện và có ý chờ đợi. Đến giờ, nhà bác học vẫn chưa đến, chỉ thấy một ông già Việt Nam bước vào. Ông ăn mặc lôi thôi, áo ngoài quần, chân đi dép lẹp xẹp. Ông bước lên bục giảng, rộng như một sân khấu, lấy khăn lau sạch hai tấm bảng đen. Mọi người vẫn tiếp tục nói chuyện thực rôm rả. Tôi nghĩ thầm: «Năm nay, nhà trường mới tuyển thêm một lao công, chuyên lo vệ sinh cho giảng đường».
Lau bảng xong, ông già bước đến đứng ngay ngắn sau bục thuyết trình, cầm máy vi âm lên. Tiếng động lộc cộc trong loa làm cho mọi người giật mình. Tiếng nói chuyện ồn ào im bặt như một phép mầu, chỉ còn tiếng chân chạy rầm rập về chỗ ngồi. Tất cả hội trường đứng lên chào một cách nghiêm trang. Ông già mỉm cười nghiên mình đáp lễ.
Ông già lùi xùi đó chính là giáo sư Saint John, nhà bác học đã từng chu du khắp thế giới với biết bao nhiêu bài thuyết trình về thực vật học cho hàng ngũ bác học, giáo sư và sinh viên trên nhiều nước tiên tiến của hành tinh nầy!
Không một tài liệu nào mang theo, một tay cầm máy vi âm, một tay cầm viên phấn trắng, giáo sư giảng đến hết giờ rồi bước xuống bục, đi thẳng ra cửa, lặng lẽ và giản dị như khi bước vào.
Thầy là người Mỹ gốc Trung Hoa, cư ngụ ở tiểu bang Hawaii, sang dạy tại Việt Nam bằng tiếng Pháp. Bốn quốc tịch gặp nhau ở Thầy một cách lạ kỳ.
Vì là người Mỹ, phải dạy bằng tiếng Pháp theo khế ước nên Thầy nói hơi khó nghe. Với bài giảng theo giáo án soạn sẵn, Thầy nói trôi chảy nhưng khi đụng đến những vấn đề ngoài khoa học, thấy thường ấp úng và đôi khi dùng nhầm chữ nghe thực tức cười.
Thầy là người gốc Trung Hòa chính cống, với một trăm phần trăm máu Hán tộc nên trong bề ngoài không khác gì người Việt Nam chúng ta. Thầy không bao giờ để ý trau chuốt cái bề ngoài đó nên trông Thầy không khác chút nào dân lao động mà ta thường thấy. Lần đầu tiên gặp Thầy, không ai có thể nghĩ đó là một giáo sư đại học, một nhà bác học đã thành danh.
Theo thói quen lên lớp, để tỏ lòng tôn kính tác giả, trong bài học cho sinh viên, các giáo sư thường ghi thêm tên nhà bác học cùng năm khám phá ra vấn đề đang được giảng dạy. Vì vậy, trong bài trình bày của Thầy có nhiều chữ Saint John, tên của chính Thầy, cùng con số của năm khám phá. Có những con số rất gần với năm học; sinh viên rất thích thú vì biết rằng đang học được những điều mới mẻ nhất thế giới do chính tác giả trình bày.
Sinh viên vừa nghe, vừa cắm cúi ghi chép.
Thỉnh thoảng, bài học của Thầy cũng gián đoạn vì những câu chuyện lý thú ở những đảo hoang mà Thầy đến nghiên cứu. Có một lần, Thầy được tàu thủy đưa đến một đảo nhỏ ở phía nam quần đảo Polynésie. Ở đó Thầy phải tìm cho được một loại dương xỉ để lấp đầy bảng phân loại thực vật theo thuyết tiến hóa. Tàu thả neo tít ngoài xa, thầy phải đổ bộ ban đêm bằng xuồng cao su vì nhà chức trách địa phương đã có cho hay rằng trên đảo, thổ dân còn giữ tục lệ ăn thịt người. Thầy vừa cười vừa nói đùa với chúng tôi:
- Nếu tôi bị họ bắt thì người ta sẽ ghi là «mất tích tuyệt đối», nghĩa là biến mất và không còn để lại thứ gì cả trên mặt đất.
Rồi Thầy kể chuyện tiếp. Sau khi Thầy đồ bộ xong, xuồng cao su trở lại tàu. Người ta hẹn, đúng một tháng sau sẽ trở lại rước, nếu Thầy... chưa bị ăn thịt.
Nơi Thầy đổ bộ là nơi hoang vắng đầy lùm bụi và cây cao rậm rạp. Phía bên kia đảo là nơi sinh sống của thổ dân. Thầy không mang theo vũ khí. Nếu bị họ bắt gặp thì Thầy sẽ chạy trốn; không thoát được thì chịu chết chứ nhất định không làm hại đến đời sống của họ. Kiến thức và tâm hồn nhà bác học đều cao cả như nhau!
Thầy giấu kỹ thức ăn khô dùng trong tháng vào một nơi kín đáo và tìm chỗ nghỉ ngơi. Cũng may, ở đảo hoang này không có rắn độc và thú dữ nên Thầy cũng đỡ lo. Ban ngày, Thầy lén lút đi nghiên cứu, ban đêm về mắc võng ngủ trên một tàn cây rậm rạp.
Có một đêm, Thầy nghe tiếng trống bập bùng xa xa. Thầy biết rằng thổ dân đang tổ chức lễ hội. Tò mò, Thầy leo xuống, đi lần về hướng đó. Dưới ánh đuốc lập lòe, Thầy thấy nhiều người đang nhảy múa như điên cuồng. Mọi thổ dân đều quấn quanh mình những tàu lá to của loại cây dương xỉ, thuộc một nhóm Quyết thực vật mà Thầy đang cố công tìm kiếm. Thầy không đủ từ ngữ tiếng Pháp để diễn tả điệu múa của thổ dân nên vớ đại nùi giẻ rách ở góc phòng, quấn quanh hông mình và uốn éo nhảy múa ngay trên bục giảng. Vừa múa, Thầy vừa nói:
- Comme çà, comme çà, ils font comme çà (như thế này, như thế này, họ làm thế này).
Hội trường nổ tung với tiếng reo cười của sinh viên. Tôi cũng cười nhưng nước mắt chực ứa ra trước cảnh nhà bác học lừng danh cố gắng dùng mọi cách để diễn tả cho sinh viên hiểu điều mà nhà bác học không nói được hết bằng lời. Hình ảnh đầy xúc động đó, suốt đời tôi không quên được.
Trở lại câu chuyện mà Thầy đang kể. Sau một tháng nghiên cứu thành công, Thầy vẫn an toàn và được tàu đón về đúng hẹn, mang theo một xấp tài liệu cùng bảng vẽ và một bao mẫu vật để góp phần làm giàu cho kho tri thức của loài người.
Chuyến đi nầy, Thầy gặp may mắn. Nhưng đã có biết bao khoa học gia khác kém may mắn hơn. Họ đã ra đi và không bao giờ trở lại. Họ đã nhận chỗ ở cuối cùng là nơi đảo hoang, là đáy đại dương, là rừng già Phi Châu, Nam Mỹ, là các đỉnh núi Hi Mã Lạp Sơn, là không gian vô tận, là các phòng thí nghiệm hiểm nguy... Chúng ta, những người đang thừa hưởng thành quả của nền văn minh hiện tại, hay cúi đầu xuống để tưởng niệm những linh hồn bất tử đó.
Thầy Saint John, người được sắp ngang hàng với những linh hồn bất tử đó, đang đứng trước mặt tôi và đang ân cần dạy dỗ chúng tôi. Ôi, hạnh phúc biết bao, hãnh diện biết bao, những người sinh viên Sư phạm và sinh viên Khoa học lúc bấy giờ!
Sau năm học đó, tôi không còn bao giờ gặp Thầy nữa. Tuy nhiên, hình ảnh giản dị của vị bác học già nua vẫn mãi mãi nằm nơi trang trọng nhất của ký ức tôi. Và tôi đã mơ ước - xin các bạn đừng cười - mơ ước đi theo con đường khoa học của Thầy. Nhưng sau đó, cuộc chiến tranh khốc liệt đã dẫm nát hoài bão tuổi trẻ của tôi.
Sau khi ra dạy, tôi vẫn thường kể lại cho học sinh mẩu chuyện trên đây. Tôi cũng khuyến khích học sinh sưu tầm những tấm ảnh của các nhà bác học như Einstein, Newton, Pasteur, vân vân, để trang hoàng lớp. Tôi cố gắng cấy vào đầu học sinh hoài bão trở thành một người hữu ích cho đất nước và cho nhân loại. Tôi nghĩ rằng người thầy không chỉ có bốn phận truyền đạt tri thức chuyên môn cho học sinh mà ai cũng phải góp sức làm cho tâm hồn các em tốt đẹp và cao cả.
Thầy Saint John đã cho tôi một bài học lớn và tôi cũng đã truyền bài học đó lại cho học trò. Tôi vui mừng được biết trong số học trò của tôi đã có người trở thành bác học và đang dạy ở các trường danh tiếng trên thế giới.